Bàn tay cô siết chặt tay ghế uốn cong của chiếc trường kỷ. “Ông ta lại trốn thoát rồi à? Làm ơn nói với em rằng ông ta không trốn thoát lần nữa đi!”
Chồng cô nhìn đi chỗ khác một lúc. Khi anh quay lại với cô, ánh mắt anh có vẻ trống rỗng nào đó. “Ông ta chết rồi, Elissande. Ông ta tự tử ở đồn cảnh sát. Bằng thuốc độc, có thể là xyanua. Chúng ta sẽ phải đợi bản báo cáo của nhân viên điều tra để biết chính xác ông ta đã chết vì cái gì”.
Cô hơi hé miệng. Hơi thở cô lại loạn nhịp và không đều.
“Chậm lại”, anh phải nói với cô, bàn tay giữ chặt tay cô. “Nếu không em có thể bị choáng váng lần nữa”.
Cô đếm khi đang thở. Cô buộc cơ hoành phải tuân lời, nhưng bên trong lồng ngực, trái tim cô đập tán loạn vì sốc.
“Anh… anh có chắc đó không phải là một mưu mẹo không?”
“Anh đích thân ở đó. Ông ta chết giống như những nạn nhân của mình”.
Cô đứng lên, cô không thể ngồi thêm nữa. “Vậy là ông ta không thể đối mặt với hậu quả của những hành động mình đã gây ra”, cô nói, giọng cay đắng.
“Không, ông ta không thể. Ông ta là một kẻ cực kỳ hèn nhát”.
Cô ấn hai ngón tay vào giữa lông mày, thật mạnh, nó đau. Nhưng không có gì đau đớn nhiều như sự thật. “Và ông ta là cha em”.
Mọi thứ cô tin là của mình đã lộn ngược lại.
Thứ gì đó ấn vào tay cô, một ly whisky đầy ắp. Cô muốn bật cười: ngài Vere đã quên khả năng uống rượu hạn chế của cô rồi sao? Thay vào đó cô phải cắn môi để ép nước mắt chảy ngược lại.
“Ông ta tận dụng mọi cơ hội để lăng mạ Andrew và Charlotte Edgerton trước mặt em. Em hiểu rằng ngay cả khi hai người đó được phán xét một cách tử tế nhất, mọi người vẫn sẽ thấy Charlotte Edgerton là người buông thả và chồng bà ngu ngốc. Nhưng…”
Cô chớp mắt. “Nhưng em yêu họ, em tin rằng họ thật mạnh mẽ và vĩ đại. Em tưởng tượng rằng khi họ trút hơi thở cuối cùng, niềm hối tiếc lớn nhất của họ là không thể nhìn thấy em trưởng thành”.
Thay vì thế, khi cha cô trút hơi thở cuối cùng, niềm hối tiếc lớn nhất của ông ta là không thể hành hạ Elissande và mẹ cô theo đúng ý mình nữa.
Ý nghĩ đó thiêu đốt cô. Thay vì là Andrew Edgerton phóng khoáng, tình cảm và bốc đồng, cha cô lại là người vui sướng trước khả năng cô phải nuôi một đàn con thiểu năng.
Cô nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình trong chiếc gương trên tường. Chồng cô đã sai. Những vết bầm của cô không phải sẽ xấu xí, mà chúng đã xấu xí: những đường viền đỏ đã chuyển sang tím, một vết cắt chéo qua môi, một mắt sưng vù lên đến mức gần như không thể nhìn thấy được nữa.
Chính người cha ruột đã làm điều này với cô, với sự hả hê rõ rệt trước nỗi đau và vết thương của cô.
Cô đã tin rằng tự do là trốn thoát khỏi Highgate Court về mặt thể xác. Nhưng làm thế nào cô trốn thoát được chuyện này? Chừng nào cô còn sống, dòng máu của Edmund Douglas vẫn chảy trong cô, một nhắc nhở hàng ngày về mối ràng buộc máu mủ không thể phá vỡ, trói buộc cô mãi mãi vào ông ta.
Cô quay đi khỏi chiếc gương, nhét ly whisky trở lại tay chồng mình và đi ra cửa. Cô lên cầu thang, đi theo hành lang dẫn đến phòng mình. Cô mở hộp châu báu và lấy tất cả những vật kỷ niệm cô đã quá trân trọng trong tất cả những năm qua ra.
“Elissande, đừng làm gì vội vã”, Vere nói.
Cô đã không nghe thấy anh, anh đã ở trong phòng với cô từ lúc nào.
“Em sẽ không hủy hoại chúng”. Những vật kỷ niệm này không còn ý nghĩa như xưa đối với cô. Nhìn chúng giống như tự cầm một con dao đâm vào tim mình. Nó gợi cho cô nhớ đến cuộc đời mà cô đã tin là cô có thể có nếu như Andrew và Charlotte Edgerton còn sống, mẹ cô sẽ vẫn muốn có vài vật lưu niệm để nhớ đến chị gái mình. “Em chỉ muốn đốt chiếc hộp này”.
“Tại sao?”
“Có một ngăn bí mật trong nắp hộp. Khi em còn nhỏ ông ta cho em xem những chiếc chìa khóa và nói rằng một ngày nào đó em sẽ tìm thấy chúng. Bây giờ em biết trong đó có thứ gì rồi”. Cô phải siết chặt răng để chống lại một cơn ghê tởm trào dâng; cô cảm thấy thật bẩn thỉu. “Nó chắc hẳn là cuốn nhật ký của ông ta”.
Và bức tranh đã treo trong phòng cô ở Highgate Court, với bông hồng đỏ có gai mọc lên từ vũng máu của ông ta, nó không phải là gợi ý cho cô ngay từ đầu sao?
“Chiếc hộp sẽ sinh ra nhiều khói trong lò sưởi”, chồng cô nói. “Anh có chìa khóa mở. Sao không để anh thử mở nó?”
Cô nhìn chằm chằm vào anh; cô đã quên mất lĩnh vực chuyên môn của anh. “Anh tìm thấy chìa khóa ở đâu và khi nào?”
“Một chiếc trong ngăn bí mật ở Highgate Court, khi chúng ta trở lại sau đám cưới, chiếc thứ hai tìm thấy trên người Douglas tối nay”.
Anh bỏ về phòng mình để lấy chiếc chìa khóa kia. Cô đặt chiếc hộp trên bàn trang điểm. Anh đút chìa khóa vào và xoay hai chiếc cùng một lúc. Đáy nắp hộp bật mở khoảng một xentimet. Anh cẩn thận kéo nó xuống cho đến khi một gói nhỏ bọc vải rơi vào lòng bàn tay.
Miếng vải bọc xanh lơ mở ra để lộ một cuốn sách bọc da, với chữ viết tắt G.F.C. khắc ở một góc.
“Ở đây có một lá thư gửi cho em”.
“Nó viết gì?” Cô không muốn chạm vào thứ gì đã nằm trong bàn tay của Douglas.
“ ‘Elissande thân yêu của ta, Christabel Douglas chưa bao giờ chết. Hỏi bà Douglas xem chuyện gì xảy ra với nó. Và…’ ”, chồng cô dừng lại, liếc nhìn cô. “ ‘Và mong sao ta sẽ sống mãi trong ký ức của con. Cha của con, George Fairborn Carruthers’ ”.
Cứ như thể Douglas lại đấm cô lần nữa. Ít nhất anh không cần phải hối tiếc vì đã không làm ông ta câm lặng bằng thuốc mê sớm hơn. Ông ta luôn định liệu để có được tiếng cười cuối cùng từ dưới mộ.
Cô giật cuốn nhật ký từ bàn tay Vere và ném nó qua phòng. “Chúa nguyền rủa ông ta!”
Nước mắt cô đã cố kìm lại đang tuôn tràn xuống mặt cô. Chúng bỏng rát nơi Douglas đã đánh cô.
“Elissande…”
“Đó thậm chí còn không phải là tên em”.
Cô đã luôn yêu tên mình, cái tên kết hợp từ Eleanor và Cassandra, tên của mẹ Charlotte và Andrew Edgerton. Cô yêu quý sự quan tâm và suy tư đã dồn vào sự sáng tạo nó; những âm tiết là lạ đầy nhịp điệu; những nguyện vọng mà Charlotte và Andrew Edgerton ắt hẳn mong muốn cho con gái mình khi ban tặng một cái tên tuyệt đẹp như thế cho cô ấy, một cái tên không phải mọi cô gái đều có thể có được.
Phần lớn cuộc đời cô đã sôi sục trong sự bất lực. Nhưng cô chưa bao giờ cảm thấy bất lực như lúc này – bị tước đoạt mọi thứ đã từng quan trọng với cô.
Sau lưng, chồng cô đặt tay lên cánh tay cô. Sau đó, rất nhẹ nhàng, anh vòng tay quanh eo cô và giữ cô sát vào anh.
Và cô khóc cho tất cả những giấc mơ tan vỡ của mình.
Khi cô không còn nước mắt nữa, anh cởi váy và mặc váy ngủ cho cô. Rồi anh bế cô lên, đưa vào giường và đắp chăn cho cô.
Anh tắt hết đèn và rời khỏi phòng cô. Cô nằm mở mắt, nhìn chằm chằm vào bóng tối, ước gì mình đã không quá kiêu hãnh để xin anh ở lại lâu hơn một chút. Nhưng trước sự nhẹ nhõm của cô – và một khoảng khắc hạnh phúc ngọt ngào và cay đắng – anh trở lại ngay sau đó.
“Em khát không?” anh hỏi.
Cô khát. Anh ấn một cốc nước vào bàn tay cô, đó là thứ mà anh vừa đi để lấy. Cô uống gần hết và cảm ơn anh. Anh kéo một chiếc ghế vào cạnh giường cô và ngồi xuống.
Có lẽ anh đúng. Có lẽ cô luôn biết ơn những lòng tốt nho nhỏ người khác thể hiện với cô. Nhưng ở lại với cô trong đêm đen tối nhất của cuộc đời không phải chỉ đơn giản là một lòng tốt nho nhỏ.
Anh nắm tay cô. “Elissande”.
Cô kiệt sức đến nỗi không thể nhắc anh rằng Elissande không phải tên cô.
Như thể anh nghe thấy cô, anh nói, “Nó là một cái tên đẹp, cùng với cái tên đó, mẹ em đã làm lễ rửa tội lại cho em”.
Trái tim cô lỡ nhịp. Cô đã không nghĩ như thế.
“Nó đẹp vì tất cả những hy vọng bà đã gom góp cho nó, hành động dũng cảm nhất trong cuộc đời nhút nhát. Hành động che giấu con gái mình là minh chứng cho tình yêu bà dành cho em”.
Cô tin rằng cô không còn nước mắt nữa. Nhưng mắt cô lại nhức nhối khi cô nhớ đến lòng dũng cảm tuyệt vọng của mẹ mình.
“Đừng quên nó, Elissande”.
Nước mắt trào ra từ khóe mắt cô, qua thái dương và chảy vào tóc cô. “Em sẽ không quên”, cô lẩm bẩm.
Anh đưa cho cô một chiếc khăn tay. Cô giữ chặt nó và bàn tay kia cô giữ chặt bàn tay anh.
Ngón tay cái của anh xoa trên mu bàn tay cô. “Khi anh đọc cách tổng hợp kim cương nhân tạo, mọi bài báo đều nói đến một thực tế rằng kim cương chỉ được hình thành từ carbon, cùng loại với grafit và than. Douglas là cha em, anh không tranh cãi điều đó. Nhưng trong khi ông ta chỉ là một tảng than, thì em lại là một viên kim cương qua nước đầu tiên”.
Cô khó có thể là thế. Cô là một kẻ dối trá và mưu mẹo.
“Mẹ em sẽ không sống đến ngày hôm nay nếu không phải vì em, anh không hề nghi ngờ điều đó. Khi bà ấy bất lực, em đã bảo vệ bà ấy”.
“Làm sao em có thể không làm thế? Bà ấy cần em”.
“Không phải mọi người đều che chở cho những người yếu đuối. Em sẽ được lợi nhiều hơn nếu nịnh bợ Douglas, hoặc em có thể bỏ đi một mình. Để làm điều đúng đắn cần phải có đạo đức”.
Cô cắn môi. “Cứ nói tiếp đi và em sẽ nhanh chóng tin rằng mình là hình mẫu của đức hạnh”.
Anh cười tắc nghẹn. “Em không phải thế, và có thể không bao giờ là thế. Nhưng em có sức mạnh và lòng trắc ẩn, những điều mà Douglas không hiểu và không có chút nào”.
Anh lau đi vệt ướt ở thái dương cô, cái vuốt ve của anh nhẹ và thận trọng như nét vẽ của họa sĩ đang vẽ tranh tiểu họa.
“Anh đã quan sát em trong những ngày qua. Một đời sống dưới sự đàn áp của Douglas có thể dễ dàng khiến em cay đắng, sợ hãi và oán giận. Nhưng em vẫn sáng rực rỡ. Đừng để ông ta lấy nó khỏi em. Thay vì thế hãy cười vào mặt ông ta. Kết bạn, đọc sách, đưa mẹ em đi dự tiệc. Hãy cho ông ta nhìn thấy cuộc sống của em tràn ngập niềm vui. Hãy để ông ta thấy rằng ngay cả khi ông ta dành cả đời để hủy hoại cuộc đời em, ông ta vẫn thất bại”.
Thêm nước mắt đổ vào tóc cô. Bà Douglas đã đúng: Elissande là người may mắn. Người đàn ông cô đã đối xử tệ hại nhất lại hóa ra là một người bạn thực sự.
Cô nghĩ về mẹ cô, bình an vô sự nằm trong phòng, không bao giờ bị ngược đãi nữa. Cô nghĩ về bản thân: vẫn làm chủ chính mình, điều đó sẽ không thay đổi. Cô nghĩ về bình minh đang đến, ngay cả đêm tăm tối nhất cũng không tồn tại mãi mãi, và ngạc nhiên khi cảm thấy khao khát muốn ngắm mặt trời mọc.
“Anh nói đúng”, cô nói. “Em sẽ không để ông ta hủy hoại em từ dưới mồ, cũng như em chưa bao giờ cho phép ông ta lấy đi một mảnh linh hồn nào của em khi ông ta còn sống”.
Khi Vere mười sáu tuổi, anh và Freddie được gọi về từ trường Eton để gặp cha mình khi ông đang trong những giờ phút cuối của cuộc đời mình.
Là một người đàn ông đang hấp hối nhưng hầu tước vẫn không bớt cay độc hơn ngày thường. Mặc dù có mặt Freddie ở trong phòng, ông ta ra lệnh cho Vere phải kết hôn sớm và sinh con nhanh, để không có khả năng tước hiệu và tài sản phải chuyển sang cho Freddie.
Vere đã ngậm miệng bởi sự hiện diện của bác sĩ và y tá. Nhưng cho đến buổi tối anh càng thấy giận dữ hơn. Cuối cùng, khi đêm đã rất khuya, anh không thể chịu đựng thêm nữa. Cha anh có lẽ đang ở ngưỡng cửa của Thần chết nhưng ông ta cần phải được ai đó nói cho biết rằng ông ta là một kẻ đáng khinh và là một người cha tồi tệ.
Anh tiến đến phòng ngủ của hầu tước. Người y tá đang ngủ gật ở phòng bên cạnh nhưng cánh cửa phòng ngủ đang hé mở, ánh sáng và giọng nói rò rỉ đến lối đi. Anh ngó vào và nhận ra vị mục sư qua bộ lễ phục.
“Nhưng… nhưng… nhưng, thưa ngài, làm như thế là giết người”, vị mục sự lắp bắp.
“Chết tiệt, ta biết đẩy mụ ta xuống cầu thang là giết người”, hầu tước nói. “Nếu nó là một vụ tai nạn, ta đã không cần ông ở đây”.
Vere nhìn thấy màu đen. Anh siết lấy chân của một chiếc đèn tường để níu giữ. Tám năm trước, mẹ anh đã chết bởi một cú ngã cầu thang trong ngôi nhà London của hầu tước mà mọi người đều tin là do không may mắn. Bà thức khuya, uống hơi nhiều, gót giày nhảy của bà bị mắc kẹt, và bà trượt xuống.
Cái chết của bà đã tàn phá Vere và Freddie.
Máu của bà không có sự thuần khiết của người Noóc-măng mà cha anh quá tự hào có trong người mình; cha bà, cho dù giàu có tột đỉnh, trong mắt hầu tước cũng chỉ xếp hạng cao hơn người bán rong một chút. Nhưng bà không phải là một bông hoa héo. Là con của một người đàn ông cực kỳ giàu có, bà biết rất rõ rằng của hồi môn của bà sẽ trả nợ cho hầu tước và duy trì sự thịnh vượng của dinh thự. Và bà đã bảo vệ con mình, đặc biệt là Freddie, trước tính khí độc địa thường không đoán trước được của hầu tước.
Sự ghê tởm lẫn nhau giữa hầu tước và nữ hầu tước là điều ai cũng biết. Thói tiêu pha hoang phí của hầu tước đã lại làm khánh kiệt của hồi môn mà vợ mình mang theo sau khi kết hôn và ông ta lần nữa rơi vào nợ nần. Ông Woodbridge, ông ngoại của Vere không phải là người ngốc. Ông chu cấp cho nhu cầu của con gái mình: váy áo, trang sức, những chuyến du lịch nước ngoài để bà và con có thể tránh xa chồng.
Nhưng bất chấp tất cả những căng thẳng trong gia đình, không ai từng nghi ngờ cái chết của bà có gì khuất tất. Hay ít nhất, không ai từng dám buộc tội hầu tước về chuyện ấy. Sáu tháng sau hầu tước tái hôn, lần này là một nữ thừa kế không giàu có bằng, và không có người cha vợ phiền toái.
Và hồ sơ điều tra về cái chết của nữ hầu tước, mẹ anh đều khẳng định rằng đó là một tai nạn hết sức minh bạch và đơn giản.
Vì thế Vere đã tin, cho đến giây phút kinh khủng đó. Anh muốn trốn. Anh muốn chạy. Anh muốn đạp cửa xông vào và ngăn chặn nghi lễ đó. Nhưng anh đông cứng tại chỗ, không thể cử động một cơ bắp.
“Tôi cho rằng ngài chắc hẳn đã ăn năn, thưa ngài?” vị mục sư hỏi, giọng ông ta rin rít.
“Không, ta sẽ làm thế lần nữa nếu phải làm, ta không thể chịu đựng mụ ta thêm một phút nào nữa”, hầu tước nói. Ông ta cười, tiếng cười khò khè xấu xa. “Nhưng ta cho rằng chúng ta phải trải qua những nghi lễ, đúng không? Ta nói với ông rằng ta hối lỗi và ông nói với ta rằng mọi chuyện đều ổn thỏa trên trái đất màu xanh của Chúa”.
“Tôi không thể!” vị mục sư hét lên. “Tôi không thể bỏ qua hành động hay thái độ không ăn năn của ngài”.
“Ông sẽ”, hầu tước nói, giọng ông ta không hề mủi lòng. “Hoặc cả thế giới này cuối cùng sẽ được biết rằng tại sao ông lại là một gã độc thân kiên quyết như thế. Thật xấu hổ, mục sư Somerville tằng tịu với một người đàn ông đã kết hôn, linh hồn của thằng cha đó sẽ bị nguyền rủa xuống địa ngục vĩnh viễn ngay cả khi ông tự nguyền rủa linh hồn của chính mình”.
Vere quay người và bước đi. Anh không thể chịu được việc chứng kiến hầu tước đạt được ý muốn của mình lần cuối cùng, không thể sau khi ông ta đã được bỏ qua tội giết người.
Đám tang hầu tước diễn ra thật kinh khủng, người tham dự đông nghịt, tính cách cao ngạo và việc làm tốt của ông ta được tán dương đến tận nóc bởi những kẻ không biết hoặc không quan tâm ông ta thực sự là người như thế nào: một con quỷ hút máu.
Đêm sau đám tang, Vere gặp ác mộng lần đầu tiên. Cho dù anh không hề nhìn thấy cảnh mẹ mình chết; bây giờ anh luôn tìm thấy bà lạnh giá và gãy nát ở chân cầu thang hết lần này đến lần khác.
Ba tháng sau đó, Vere ngã quỵ và tâm sự với bà cô của anh là quý bà Jane.
Quý bà Jane lắng nghe với sự thông cảm và đầy cảm xúc. Và sau đó bà nói, “Bà rất tiếc. Chuyện này làm bà đau đớn khi nghe Freddie nói. Và nó cũng làm bà đau đớn không kém khi nghe cháu kể lần nữa”.
Tiết lộ của bà làm Vere sửng sốt gần bằng sự thật đằng sau cái chết của mẹ anh.
“Freddie biết? Nó biết và nó không nói với cháu?”
Quý bà Jane nhận ra sai lầm của mình nhưng đã quá muộn. Vere không cho phép bà rút lại lời nói. Cuối cùng bà cũng chịu thua.
“Freddie lo lắng về phản ứng của cháu. Nó sợ rằng cháu có thể giết cha cháu nếu cháu biết, những gì bà biết về cháu cho thấy sự lo ngại đó không phải là không có lý”, quý bà Jane nói. “Bên cạnh đó, nó tin rằng cha cháu đã bị trừng phạt thích đáng”.
Thế là câu chuyện tiếp tục, khi Freddie mười ba tuổi, một đêm anh đã đi đến phòng cha mình, hy vọng lấy trộm lại bức vẽ yêu thích đã bị hầu tước tịch thu. Tin rằng những âm thanh Freddie tạo ra báo hiệu sự xuất hiện của bóng ma người vợ trước, rõ ràng hầu tước đã rất hoảng sợ.
Vere không thể kìm chế được mình. Sao Freddie có thể ngu ngốc như thế, nghĩ rằng cha họ chịu đựng sự giày vò của hối hận, đừng nói là sợ hãi. Người đàn ông đe dọa phơi bày bí mật của vị mục sư đồng tính đã không hề ăn năn và không xứng đáng được bất kỳ ai tha thứ.
Freddie đã biết từ hai năm trước, hai năm đủ để Vere có thể biến cuộc sống của cha mình thành địa ngục trần gian. Đối với anh, thế mới là Công lý, nhưng Công lý đã không được thực hiện. Cơ hội đó đã bị cướp mất, mà không vì ai khác ngoài Freddie…
Có lẽ quý bà Jane đã nhìn thấy tiềm năng thực sự trong Vere. Có lẽ bà chỉ mong rằng anh sẽ thôi lải nhải những lời nói rỗng tuếch về Sự thật và Công lý. Bất luận thế nào, bà đáp lại sự giãi bày của anh bằng một sự giãi bày của bà: Bà là một đặc vụ của Hoàng gia, công việc cả đời bà là tìm ra sự thật và khôi phục công lý. Với mẹ của Vere thì đã quá muộn. Nhưng có lẽ anh sẽ tìm thấy một chút an ủi bằng cách giúp đỡ những người khác?
Anh nói đồng ý ngay lập tức. Quý bà Jane đã khuyên anh nên đóng một vai nào đó, để mọi người không nhìn nhận anh một cách nghiêm túc, một điều cực kỳ có ích đối với một đặc vụ mật. Bà gợi ý anh đóng vai một kẻ ăn chơi trụy lạc. Vere phản đối. Anh chưa bao giờ là người quá nuông chiều ham muốn. Quan trọng hơn là, dù rất cô đơn, anh không muốn ở gần đám đông nhiều vào lúc này. Có ai từng nghe về một kẻ ăn chơi trụy lạc ẩn dật cơ chứ?
“Cháu thà là một kẻ ngốc”, anh nói.
Không lâu sau anh nhận ra rằng là một kẻ trụy lạc, ít ra anh có thể bày tỏ ý kiến của mình về nhiều vấn đề. Vai diễn một kẻ ngốc không cho phép anh được thoải mái như thế. Và anh càng diễn đạt, anh càng cô lập mình hơn.
Quý bà Jane khuyên rằng anh không nên quyết định ngay. Tuy nhiên, chính xác hai ngày sau, anh bị quăng khỏi ngựa. Anh ngay lập tức quyết định tận dụng tai nạn nghiêm trọng này, và lợi dụng sự hiện diện của Needlam đang là khách của quý bà Jane. Khi vị bác sĩ đã đóng con dấu chuyên môn y khoa tài giỏi vào tình trạng của Vere, không ai có thể nghi ngờ việc anh đã trải qua một cơn chấn động nghiêm trọng làm thay đổi cả cuộc đời.
Những yêu cầu khách quan để đột ngột biến anh thành một kẻ ngốc đã có, anh có một lựa chọn khác để quyết định: Nói gì với Freddie?
Nếu quý bà Jane không lỡ lời nói ra, anh đã có một quyết định rất khác. Anh và Freddie đã luôn thân thiết. Vì Freddie không thể nói dối, em anh cũng không phải làm thế trong tình huống này: hành động của Vere sẽ khiến tin đồn lan truyền. Nếu Freddie bị người khác nghi ngờ, em anh đơn giản có thể nói lại lời chẩn đoán của Needlam. Và lòng trung thành của Freddie đối với Vere đã nổi tiếng đến mức ngay cả nếu Freddie tiếp tục nói về sự thông minh đặc biệt của anh trai mình, những người nghe sẽ chỉ kết luận đó là do Freddie khó chấp nhận hiện thực mới.
Nhưng vì nghĩ rằng Freddie đã cướp mất cơ hội để anh trả thù ẹ, nên Vere đáp lại đặc ân đó và giữ bí mật mới cho riêng mình.
Một lý do khiến Vere gắng sức chối bỏ tình yêu với vợ mình là vì kỹ năng đóng kịch và những lời nói dối trôi chảy của cô nhắc anh quá nhiều về bản thân.
Nhưng chúng chỉ là sự tương đồng bề ngoài. Ở bên trong, anh là người đàn ông đã bị gục ngã ở tuổi mười sáu và chưa bao giờ hồi phục toàn vẹn trở lại, trong khi cô, cho dù không hoàn hảo đến đâu, vẫn sở hữu một khả năng phục hồi khiến anh nín thở.
Bàn tay cô vẫn nằm trong tay anh, những ngón tay cô thả lỏng trong giấc ngủ. Anh chỉ định ở lại cho đến khi cô ngủ thiếp đi, nhưng anh vẫn ở đây cho đến bình minh, canh gác những cơ ác mộng cho cô.
Anh luôn muốn là một bức tường thành che chắn cô khỏi những cơn ác mộng.
Suy nghĩ đó không làm anh ngạc nhiên nhiều như anh vẫn nghĩ, khi bây giờ anh đã thôi chối bỏ rằng anh yêu cô. Nhưng anh không xứng đáng với cô – chí ít là anh vẫn chưa xứng đáng, với tất cả sự giả dối và hèn nhát vẫn đang hủy hoại tính cách của anh.
Anh biết mình phải làm gì. Nhưng anh đã có được lòng dũng cảm và tính khiêm nhường chưa? Ước muốn đi bên cạnh và bảo vệ cô có mạnh mẽ hơn bản năng muốn co mình lại trước hiện thực và tiếp tục vai diễn lừa gạt đã trở thành cuộc đời anh không?
Anh cảm thấy như thể anh đang đứng bên vách đá cao. Lùi một bước, tất cả sẽ an toàn và quen thuộc. Nhưng bước một bước về phía trước cần có một lòng tin đặc biệt, và anh là người đàn ông có rất ít lòng tin, đặc biệt là đối với chính mình.
Nhưng anh muốn cô nhìn anh lần nữa như thể anh tràn đầy cơ hội. Như thể họ tràn đầy cơ hội.
Và để được như thế anh sẽ phải làm điều đúng đắn, bất chấp những khuyết điểm của mình.