Khi cô tìm kiếm cuốn sách đó trên giá, mắt cô bắt gặp góc của một tấm bưu ảnh chen giữa hai cuốn sách. Cô rút bưu thiếp ra và há hốc miệng. Tấm ảnh mang sắc màu xanh của đại dương bao la và những vách đá cao. Capri, đầu cô ngay lập tức quyết định, trước khi cô nhìn thấy chữ ở góc dưới bên trái của tấm bưu ảnh: Bờ biển Exmoor.
Cô gọi bà Dilwyn giúp tìm bờ biển Exmoor trên bản đồ chi tiết nước Anh treo trên tường phòng khách. Nó không xa lắm, hơn năm mươi dặm một chút về phía bắc của bờ biển Devon. Cô đưa cho bà Dilwyn xem tấm bưu ảnh. “Bà có nghĩ tôi sẽ tìm thấy địa điểm này ở bờ biển Exmoor không?”
“Ồ, có, thưa cô”, bà Dilwyn nói sau khi nhìn qua. “Tôi đã ở đó. Nó là vách đá Người treo cổ. Một nơi đáng yêu”.
“Bà biết đến đó bằng cách nào không?”
“Có chứ, thưa cô. Cô đi tàu từ Paignton đến Barnstaple, sau đó cô đi tiếp tuyến tàu địa phương và đến Ilfr be. Những vách đá này cách bờ biển vài dặm”.
Cô cảm ơn bà Dilwyn và dành thêm thời gian bâng khuâng nhìn tấm bưu ảnh. Khó mà đến thăm được một nơi như vách đá Người treo cổ: mẹ cô sẽ không thể đi hết những con đường dốc dẫn đến đỉnh.
Một ý nghĩ đột nhiên nảy ra với cô: cô có thể đi một mình. Theo kế hoạch hai ngày nữa mẹ cô mới về đến nhà. Nếu cô đi luôn vào buổi sáng, cô có thể trở về vào tối ngày mai, còn nhiều thời gian để đón mẹ cô vào ngày hôm sau, trong thời gian đó, cô có thể trải nghiệm những gì mình đã mơ ước quá nhiều năm: đứng trên đỉnh vách đá phía trên một vùng biển dữ dội.
Nếu cô phải bắt đầu một kỷ nguyên mới trong cuộc đời mà cô không hào hứng lắm, cô có thể kết thúc cuộc sống cũ này với một ấn tượng phi thường.
“Vẫn nghĩ về Penny?” Angelica hỏi.
“Phải, à không”, Freddie nói.
Khi Angelica trở về từ Derbyshire, cô thấy Freddie đã đứng đợi cô ở ngoài cửa. Và trong tiếng rưỡi đồng hồ họ chỉ nói về những tiết lộ của Penny, nhớ lại hàng tá ví dụ về những lời nói và hành động ngốc nghếch của Penny hóa ra đều là công việc phục vụ Hoàng gia.
Lúc đầu cô đã tức giận. Cô và Freddie luôn thân thiết hơn, nhưng Penny đã là người anh tinh thần trong suốt thời thơ ấu của cô. Nhiều lần cô và Freddie đã khóc cùng nhau, thương tiếc con người họ đều yêu thương, không mất hẳn nhưng cũng không còn nữa.
Những vì Freddie đã tha thứ cho anh, cho anh thêm thời gian, cô cũng sẽ sẵn sàng tha thứ cho anh.
Cô gọi một ấm trà mới. Cuộc nói chuyện làm cô khát nước. “Làm thế nào anh có thể nghĩ về anh ấy và không nghĩ về anh ấy cùng một lúc?”
Freddie nhìn cô một lúc lâu. “Anh vui vì Penny đã nói ra. Và bọn anh đã có một tiếng để nói chuyện trước khi anh ấy về để đưa bà Douglas đi gặp luật sư của chồng bà ấy. Nhưng anh vẫn còn bồn chồn và anh muốn nói chuyện với em …” anh dừng lại một giây, “… và không ai khác ngoài em. Đó là hai tư tiếng đồng hồ dài nhất của cuộc đời anh, đợi em trở về”.
Đây là câu nói hài lòng nhất mà cô được nghe. Sau khi cô dùng tất cả thời gian và nỗ lực để đưa họ từ chỗ là bạn thân trở thành người tình, trớ trêu thay bây giờ cô lại thỉnh thoảng lo lắng rằng chuyện làm tình của họ, cho dù tuyệt vời đến đâu sẽ lấn át mọi chuyện. Cô thật ngốc, họ vẫn là bạn thân nhất.
Cô mỉm cười với anh. “Nếu em biết, em đã trở về sớm hơn”.
Anh không đáp lại nụ cười của cô mà với lấy ấm trà.
“Không còn trà nữa”, cô nhắc anh.
Anh hơi đỏ mặt. “À, tất nhiên không còn. Em vừa gọi ấm mới, đúng không?”
Trà mới đến. Cô rót cho cả hai người. Anh nâng tách lên.
“Anh muốn dùng sữa và đường không?” Anh chưa bao giờ uống trà đen.
Anh đỏ mặt hơn, đặt tách trà xuống, và chà ngón tay dọc trán. “Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của em nhỉ?”
Cô đã quên câu hỏi của mình. Không biết vì sao sự hồi hộp đột nhiên của anh khiến cô cũng căng thẳng.
Nhưng cho dù đó là chuyện gì, anh dường như đã quyết định. Anh nhìn thằng vào cô, giọng anh chắc chắn. “Thời gian gần đây anh đã vật lộn để xác định cảm giác của anh đối với em là gì, nó mạnh mẽ hơn tình bạn, nhưng không hề giống với tình yêu anh đã trải qua”.
Cô đang với tay lấy một chiếc bánh quy. Bàn tay cô dừng lại giữa chừng. Những ngón tay nắm chặt lấy chiếc bánh. Họ vẫn chưa hề nói tiếng yêu nào với nhau.
“Với quý bà Tremaine, anh luôn luôn là một người tôn sùng tầm thường. Mỗi lần anh bước vào phòng khách của cô ấy, anh có cảm giác như anh là một thầy tu tiến đến bàn thờ của một vị thần. Cảm giác này vừa phấn khích vừa bất an. Nhưng phòng khách của em giống như một phần của nhà anh. Và anh không thể giải thích được điều đó”.
Mắt họ gặp nhau. Cô không biết anh sẽ nói gì tiếp theo. Trái tim cô đấu tranh để chứa đựng nỗi sợ hãi – và cả sự mong chờ đang tăng dần.
“Và trong lúc đang đợi em về. Khi anh đi lên đi xuống con đường bên ngoài, anh nhận ra rằng anh chưa bao giờ đến với quý bà Tremaine trừ phi anh cảm thấy anh có thể trao tặng cái gì đó. Anh đến với cô ấy chỉ vì muốn gặp cô ấy, anh luôn sợ rằng mình làm mất thời gian của cô ấy. Nhưng anh muốn gặp em dù ở bất kỳ tâm trạng nào. Khi anh đặc biệt vui vẻ, khi bình thường, khi anh hoàn toàn bối rối, như ngày hôm qua và ngày hôm nay. Anh vui sướng vì khi đến với em, anh có thể giãi bày tất cả tâm trạng của mình”.
Cô thả lỏng chiếc bánh quy mà cô đã bóp vụn trong lòng bàn tay. Cô để những mẩu vụn rơi xuống khăn trải bàn và hít thở lần nữa.
“Qua cách làm của Penny, anh ấy đã không xem trọng anh. Nhưng không phải một mình anh ấy làm như thế: Anh cũng đã không xem trọng anh ấy, trước ‘tai nạn’ ”. Anh khẽ mỉm cười, ánh mắt anh thật sâu và ấm áp. “Giống như Penny, em cũng là một trụ cột của cuộc đời anh, cuộc đời anh sẽ ít ý nghĩa hơn nếu không có em. Tuy nhiên anh cũng đã cho đó là điều hiển nhiên”.
Anh đứng dậy khỏi ghế. Việc cô cũng đứng lên dường như cũng là tự nhiên, anh nắm lấy tay cô.
“Anh không bao giờ muốn làm như thế nữa Angelica. Em có đồng ý lấy anh không?”
Cô rút một tay lại và che miệng. “Anh đã trở nên đầy bất ngờ, Freddie!”
“Còn em là điều bất ngờ tốt đẹp nhất của cuộc đời anh”.
Một làn sóng hạnh phúc đơn thuần gần như làm cô khuỵu xuống. Và tất nhiên anh đang thực sự nghĩ như thế - anh chưa bao giờ nói điều gì mà không thực sự nghĩ thế.
“Anh không biết cuộc đời mình sẽ trở nên như thế nào nếu không có em ở bên cạnh anh”, anh tiếp tục.
“Thường xuyên nhắc anh phải trân trọng em?” cô đùa, nếu không cô có thể bắt đầu thổn thức.
Anh cười khúc khích. “À, có lẽ không cần thường xuyên. Bốn lần một ngày là được”. Cầm tay cô lên, anh nhìn sâu vào mắt cô. “Điều này có nghĩa là em đã nói đồng ý?”
“Đồng ý”, cô nói đơn giản.
Anh hôn cô và ôm chặt cô một lúc lâu. “Anh yêu em”.
Những từ đó ngọt ngào hơn cả những gì cô biết và cô đã mong chờ mỏi mòn, đã mong ước được nghe chúng quá nhiều năm.
“Em cũng yêu anh”, cô nói. Cô lùi lại một chút và nháy mắt với anh. “Một bức tranh khỏa thân thứ hai để kỷ niệm lễ đính hôn nhé?”
Anh cười và ôm chặt cô ột nụ hôn khác.
Ilfr be gây thất vọng ghê gớm. Sương mù dày đặc như cháo yến mạch nấu quá tay tràn đến và phủ tình yêu lạnh giá, ẩm ướt lên bờ biển. Trời tối đến mức những ngọn đèn đường đã phải để sáng cả ngày, những vòng sáng vàng vọt yếu ớt giữa màn sương mù ảm đạm che giấu mọi vật cách Elissande hơn một mét.
Cô đã cảm nhận được một chút vui sướng ở bên bờ biển: hương vị của biển cả, những con sóng xô vào những vách đá hoang dã và xù xì, không hề giống với những con sóng dịu dàng của Torbay; tiếng còi tàu trầm trầm của những con tàu đi qua kênh đào Bristol, lãng mạn một cách cô độc.
Cô quyết định ở lại qua đêm. Nếu sương mù tan đi, sẽ có đủ thời gian để đến thăm những vách đá và quay lại Pierce House trước khi mẹ và chồng cô trở về, cô đang luyện tập để thôi không nghĩ nó như là nhà.
Và sau đó cô phải nói chuyện với mẹ cô và nói lời vĩnh biệt với cuộc hôn nhân của mình.
Trái tim Vere như bị bóp nghẹt khi anh nhìn thấy những chiếc vali trong phòng vợ mình.
Anh và bà Douglas đã về đến London vào giữa buổi chiều. Không thể để một phụ nữ lớn tuổi kiệt sức đi lại thêm nữa trong cùng một ngày, Vere đã sắp đặt cho bà và bà Green ở lại khách sạn Savoy, sau đó vội vã về nhà. Bây giờ anh đã nói chuyện xong với Freddie, anh cần nói với vợ mình rất nhiều điều: anh đã ngu ngốc như thế nào, anh đã nhớ cô như thế nào, và háo hức muốn cuộc hôn nhân của họ có một khởi đầu mới như thế nào.
Anh mở ngắn kéo của cô – trống không. Anh giật mở cửa tủ quần áo của cô – trống không. Anh liếc nhìn bàn trang điểm – trống không, ngoại trừ một chiếc lược. Và một hình ảnh khiến bụng anh nhộn nhạo: một cuốn sách trên chiếc bàn đầu giường tên Phụ nữ có thể làm gì để kiếm sống.
Cô đang bỏ đi.
Anh chạy hết tốc lực xuống cầu thang và túm lấy bà Dilwyn. “Quý bà Vere đâu?”
Anh không thể che giấu sự lo sợ, giọng anh to và cộc cằn.
Bà Dilwyn giật mình bởi sự thô lỗ của anh. “Quý bà Vere đã đi đến vách đá Người treo cổ, thưa cậu”.
Anh cố gắng tiêu hóa thông tin này và thất bại. “Tại sao?”
“Ngày hôm qua cô ấy nhìn thấy một tấm bưu ảnh trong phòng làm việc và nghĩ rằng phong cảnh ở đó tuyệt đẹp. Và vì cậu và bà Douglas chưa về, cô ấy quyết định đi đến đó vào sáng ngày hôm nay”.
Bây giờ đã gần đến giờ ăn tối. “Lẽ ra cô ấy phải trở về rồi chứ?”
“Cô ấy vừa gửi điện một giờ trước, thưa cậu. Cô ấy đã quyết định ở lại qua đêm. Hôm nay trên bờ biển có sương mù và cô ấy không thể ngắm cảnh. Cô ấy hy vọng buổi sáng thời tiết sẽ đẹp hơn”.
“Vách đá Người treo cổ, vậy là cô ấy đã đi đến Ilfr be”, anh nói, với chính mình cũng như với bà Dilwyn.
“Vâng, thưa cậu”.
Anh đã ra khỏi nhà trước khi bà nói hết.
Mặt trời đốt cháy mắt cô, ánh nắng gay gắt đến mức gần như biến thành màu trắng. Một làn gió khô thổi đến. Người cô khô đi, làn da cô mong manh như tờ giấy, cổ họng cô khát cháy.
Cô cố gắng cử động. Nhưng cổ tay cô đã chảy máu vì vật lộn với những sợi xích, những sợi xích được chôn sâu vào lòng của Caucasus [1].
[1] Dãy núi nằm giữa châu Âu và châu Á.
Tiếng rít của một con chim đại bàng khiến cô lại vật lộn, trong cơn điên cuồng vì đau đớn và bất lực. Con đại bàng bay đến gần hơn trên đôi cánh đen, trùm bóng tối lên cô. Nó lao vào cô, cái mỏ sắc như dao sáng loáng, cô xoay đầu lại và vùng vẫy trong đau đớn.
“Tỉnh dậy đi, Elissande”, một người đàn ông thì thầm, giọng nói của anh chứa đầy quyền lực và sự trấn an. “Tỉnh dậy đi”.
Cô tỉnh giấc, bật dậy và thở hổn hển. Một bàn tay đặt lên vai cô. Cô quấn những ngón tay quanh nó, trấn tĩnh lại nhờ hơi ấm và sức mạnh của nó.
“Em muốn uống nước không?” chồng cô hỏi.
“Có, cảm ơn anh”.
Một cốc nước tìm đường đến tay cô. Và khi cô đã hết cơn khát, anh lấy cái cốc đi.
Đột nhiên cô nhớ ra cô đang ở đâu: không phải trong phòng ngủ ở nhà – Pierce House – mà trong một khách sạn ở Ilfr be – khách sạn này nhìn ra hải cảng, nhưng từ cửa sổ phòng cô khó có thể nhìn thấy ngay cả con đường bên ngoài.
“Làm thế nào anh tìm được em?” cô hỏi, ngạc nhiên và bối rối, trong khi một cảm giác kích động, nóng đến mức cháy sém, bắt đầu chạy qua mạch máu cô.
“Khá dễ. Chỉ có tám khách sạn ở Ilfr be được giới thiệu trong cuốn sách hướng dẫn du lịch anh mua trên đường. Tất nhiên, không khách sạn danh tiếng nào lại cho số phòng của một quý bà. Anh đã phải sử dụng một chút biện pháp lén lút để lấy được thông tin đó lúc anh tìm ra nơi em đang ở. Và sau đó chỉ còn một vấn đề là phá khóa, và giải quyết cái then cửa đáng ghét kia”.
Cô lắc đầu. “Anh có thể gõ cửa mà”.
“Anh có một thói quen xấu. Anh không gõ cửa sau nửa đêm”.
Cô nghe thấy nụ cười trong giọng anh. Trái tim cô đập thình thịch. Cô thả bàn tay đang nắm tay anh xuống. “Anh đang làm gì ở đây?”
Anh không trả lời mà chỉ đặt tay lên vai cô. “Đó có phải cơn ác mộng em đã kể với anh không, trong đó em bị trói lại như Prometheus?”
Cô gật đầu. Anh có thể cảm nhận được chuyển động của cô, vì bàn tay anh đã di chuyển đến ngay dưới tai cô.
“Em có muốn anh kể với em về Capri, để giúp em quên cơn ác mộng đi không?”
Anh phải đã đến gần cô hơn; cô nhận thấy rõ hơi sương mù vẫn còn bám vào áo khoác của anh. Cô gật đầu lần nữa.
“Từ Naples nhìn ra bờ biển, đảo Capri nằm ngang khúc hẹp của vịnh như một con đê chắn sóng tự nhiên khổng lồ, tầm vóc hoành tráng, và khung cảnh đẹp như trong tranh vẽ”, anh nói nhẹ nhàng, giọng anh rõ ràng và quyến rũ.
Cô giật mình. Cô nhận ra đoạn văn này: Nó được trích từ một cuốn sách yêu thích của cô về Capri mà cô đã để mất khi chú cô thanh trừng thư viện.
“ ‘Rất lâu trước đây, một du khách người Anh đã so sánh nó với một con sư tử nằm ngẩng đầu lên’ ”, anh tiếp tục. “ ‘Jean Paul, dựa trên số ảnh đã xem, tuyên bố nó là một con nhân sư; trong khi Gregorovius, giàu trí tưởng tượng nhất, thấy nó giống như một quan tài đá cổ, khắc những bức phù điêu hình nữ thần tóc rắn Eumenides và bạo chúa Tiberius’”.
Anh đỡ cô nằm xuống giường. “Em có muốn nghe nữa không?”
“Có”, cô lẩm bẩm.
Anh cởi quần áo, quăng đi từng chiếc một, quần áo rơi xuống khẽ khàng khiến cổ họng cô nóng rát và trái tim cô đập hoang dại.
“ ‘Đường đến Capri không phải chỉ có một con đường độc đạo’ ”. Anh cởi váy ngủ của cô và lướt ngón tay xuống sườn cô. “ ‘Phần lớn du khách đi tàu chạy hơi nước nhỏ từ Naples, ghé thăm hang Xanh, tham quan ở bến một giờ đồng hồ, và trở lại trong buổi chiều qua Sorrento’ ”.
Anh hôn khuỷu tay gập lại của cô, mạch máu ở cổ tay cô, và cắn nhẹ vào giữa lòng bàn tay cô. Cô rùng mình vì khoái cảm.
“ ‘Nhưng nếu làm thế thì giống như đọc tiêu đề sách, thay vì toàn bộ nội dung bên trong’ ”.
Bàn tay anh di chuyển lên theo cánh tay và ôm vai cô. Tay kia ôm mặt cô. Nhẹ nhàng, quá nhẹ nhàng, để không làm đau những vết bầm tím màu sắc phong phú đã tan dần nhưng vẫn nhạy cảm với sức ép, anh vuốt ve gò má cô.
“Một số ít người leo núi, tự mình lặng lẽ cảm nhận cuộc sống và phong cảnh của hòn đảo, tìm thấy một bài thơ hoàn chỉnh, không thiếu một yếu tố nào của vẻ đẹp hay sự thú vị, đang mở ra cho họ chiêm ngưỡng”, anh ngâm nga, trong khi ngón tay cái kéo môi dưới của cô xuống.
Cô thốt ra một tiếng rên rỉ đòi hỏi. Hơi thở của anh nghẹn lại.
“Nhưng em còn đẹp hơn Capri nhiều”, anh nói, ngay lập tức giọng anh trở nên nồng nhiệt và tha thiết.
Cô kéo chặt anh vào cô và hôn anh nồng nàn. Từ đó, Capri bị bỏ quên và môi, tay cũng như tâm trí họ chỉ còn dành cho nhau.
“Em đang nghĩ gì thế?” Vere hỏi, anh đang nằm nghiêng, đầu gác lên lòng bàn tay.
Anh không thể nhìn thấy cô, chỉ cảm nhận thấy nhịp thở và hơi ấm của làn da cô.
Bàn tay cô lần theo những vết sẹo ở lồng ngực anh. “Em đang nghĩ rằng, trong tất cả những năm đọc sách giới thiệu du lịch, em chưa bao giờ, chưa từng một lần nhận ra rằng chúng cũng có thể được sử dụng là công cụ quyến rũ. Và đây hẳn là lần đầu tiên chúng ta đều thức sau đó”.
Anh tạo ra một tiếng ngáy.
Cô cười nắc nẻ.
“Nếu em cũng không buồn ngủ, anh muốn kể cho em một câu chuyện”, anh nói.
Đã đến lúc.
“Em không buồn ngủ chút nào”.
Anh muốn cảnh báo phần nào với cô. “Câu chuyện của anh, nó không phải luôn vui vẻ đâu”.
“Không có câu chuyện nào luôn vui vẻ cả. Nếu không nó sẽ không phải là một câu chuyện; nó là một bài ca chiến thắng”.
Rất đúng. Vậy là anh kể cho cô những sự kiện đã dẫn đến cuộc sống thứ hai của anh, bắt đầu từ cái đêm cha anh chết. Bất chấp lời cảnh báo, toàn bộ cơ thể cô vẫn cứng đờ vì kinh hoàng. Bàn tay cô nắm chặt cánh tay anh. Nhưng cô im lặng lắng nghe, chăm chú, với những hơi thở đứt đoạn và run rẩy.
“Và có lẽ cuộc đời anh sẽ tiếp tục đi trên con đường đó mộ cách vô định. Sau cùng, nó là một lối đi rất mòn nếu anh không bao giờ gặp em. Nhưng em đã đến và em làm thay đổi mọi thứ. Càng hiểu về em, anh càng tự hỏi những thứ anh nghĩ rằng không thay đổi có thực sự hóa đá, hay đơn giản chỉ là vì anh quá sợ sự thay đổi”.
Khi câu chuyện của anh qua khỏi những quãng đau thương ban đầu, cơ thể cô cũng dần dần thả lỏng. Lúc bày bàn tay anh trên vai cô không còn có vẻ căng thẳng nữa.
“Hai ngày trước anh đã thú nhận mọi chuyện với Freddie. Nó là một cuộc nói chuyện khó khăn kinh khủng, nhưng sau đó anh cảm thấy thật sự nhẹ nhõm và tự do mà anh đã không cảm thấy trong một thời gian dài. Và anh phải cảm ơn em vì điều đó”.
“Em rất, rất vui vì anh và ngài Frederick đã nói chuyện với nhau, nhưng em không hiểu em thì có tác động gì”, cô nói, với vẻ bối rối chân thành.
“Có nhớ em đã nói gì vài đêm trước về Douglas không? Em sẽ không để ông ta ám ảnh em từ trong mồ, cũng như em chưa bao giờ cho phép ông ta lấy đi một mảnh linh hồn nào của em khi ông ta vẫn còn sống. Những lời nói đó làm anh choáng váng. Cho đến giây phút đó anh đã không hiểu rằng anh đã để linh hồn của mình bị cướp đi. Và cho đến khi anh nhận ra rằng mình không còn toàn vẹn, anh không thể bắt đầu ráp nối mình lại lần nữa”.
Anh đầy lòng biết ơn đối với cô. Nhưng đó lại là một dấu hiệu chứng tỏ anh đã kín đáo như thế nào, kín đáo đến mức cô không hề biết những thay đổi cô đã tác động đến anh.
“Thật tuyệt là em có thể giúp gì đó”, cô nói, vừa có vẻ hài lòng vừa có vẻ lúng túng. “Nhưng em phải phản đối rằng em không xứng với những tin tưởng anh đã dành cho em. Anh thấy rồi đấy: Vừa rồi thôi em đã gặp một cơn ác mộng khác. Em không phải là một ví dụ sáng sủa”.
“Em là của anh”, anh nói chắc chắn. “Bên cạnh đó, anh đến để đối phó với ác mộng, đúng không?”
“Em vừa định hỏi! Làm thế nào anh thuộc lòng được một trong những cuốn sách yêu thích của em?”
“Anh hỏi mẹ em xem bà ấy có nhớ cuốn sách nào về Capri mà em thích không. Bà ấy đọc cho anh một đoạn, nhưng không thể nhớ được tên sách, chỉ nhớ rằng em yêu nó. Vì thế anh bắt đầu làm việc”.
Anh đã yêu cầu bảy cửa hàng sách mang tất cả những cuốn sách du lịch có liên quan nhiều đến nước Ý tới khách sạn. Sau khi anh và bà Douglas trở lại từ nhà hát Savoy, anh đã thức gần hết đêm để tìm tất cả các trang sách có nhắc đến Capri, cho đến khi anh gặp được đoạn bà Douglas đã đọc”.
“Anh tìm cuốn sách này với ý định đọc cho em nghe cho đến khi em ngủ lại được, nếu em gặp ác mộng lần nữa. Nhưng sau đó anh nghĩ rằng nếu đọc sẽ cần bật đèn. Vậy thì tốt hơn là nhớ nó trong đầu, anh đã học thuộc nó trong lúc ngồi tàu trở về Devon”.
“Điều đó… điều đó ngọt ngào đến mức không thể tin được”. Chiếc giường kẽo kẹt. Cô nhích người trên đệm một chút và hôn lên môi anh.
“Anh còn có hai đoạn văn nữa trong đầu. Nhưng nếu anh biết rằng sách du lịch có khả năng gợi tình như thế, anh đã nhớ tất cả mọi thứ”.
Cô cười khúc khích. “Ồ, anh sẽ làm thế sao?”
Anh lùa tay vào mái tóc mát lạnh của cô. “Nếu em muốn anh làm, anh sẽ làm. Ngay cả nếu anh bị cấm không bao giờ được quyến rũ em với sách hướng dẫn du lịch đến Capri lần nữa”.
Cô áp má mình vào má anh, một cử chỉ đơn giản khiến lòng biết ơn của anh suýt nữa tuột khỏi khả năng kiểm soát.
“Đây có phải là thời điểm tốt để xin lỗi em vì anh đã cư xử như một con lừa đần độn khi chúng ta ở trong tòa lâu đài bỏ hoang không?”
Hành vi đó đã giày vò lương tâm anh suốt từ ngày ấy.
Cô hơi lùi lại, như thể để nhìn vào mắt anh. “Chỉ khi nào nó cũng là thời điểm tốt để em xin lỗi vì đã buộc anh phải cưới em”.
“Vậy là anh được tha thứ?”
“Tất nhiên”, cô nói.
Trước đây anh thường cho rằng tha thứ là cho phép mọi tội lỗi được bỏ qua mà chịu trừng phạt. Bây giờ cuối cùng anh đã hiểu ra tha thứ không phải là vì quá khứ, mà còn là vì tương lai.
“Còn em, em được tha thứ chứ?” cô nói, giọng cô có một chút lo lắng.
“Có chứ, tất nhiên”, anh nói, thật chân thành.
Cô run rẩy thở ra, một âm thanh của sự nhẹ nhõm. “Bây giờ chúng ta có thể tiếp tục”.
Bây giờ họ có thể hướng về tương lai.