Lúc này mặt trời đã lên cao trên đỉnh núi, tỏa nắng trên khắp mọi miền sơn cốc. Đội hình bộ lạc Thảo Thạch đột ngột thay đổi, vốn bảy người một nhóm, nếu không đủ bảy người thì chia ra hợp vào nhóm khác, tạo thành nhóm chín người. Họ đồng loạt giơ đao lên, mặt đao sáng bóng đón ánh mặt trời, phản chiếu luồng sáng màu bạc lạnh lẽo. Nhìn từ phía chúng ta, chỉ thấy chiến trường tạo thành một đốm sáng, xung quanh chói lóa, tiếng huýt sáo gọi ngựa vừa vang lên đã nghe thấy tiếng lộc cộc.
Ánh sáng chói lóa đó khiến ta nhức mắt, thời điểm nhắm mắt rồi lại mở ra nhìn, tiếng trống thu binh vang lên, đội quân Tây Di có vô số người đầu lìa khỏi cổ như thủy triều xuống.
Người của bộ lạc Thảo Thạch hò hét rền trời, trên mặt mỗi người đều là vẻ hưng phấn. Thế nhưng quân Tây Di vẫn chưa dùng đến câu thích tiễn đâu.
“Càng lúc y sẽ phái nhiều quân hơn cho xem…” Hạ Hầu Thương nói.
Liệu tấm chắn bằng mây của bộ lạc Thảo Thạch có thể cản được câu thích tiễn của chúng không?
Sau khoảng thời gian nghỉ ngơi, quả nhiên Ô Mộc Tề lại phái ra số quân còn đông hơn hồi nãy. Người của bộ lạc Thảo Thạch thì che tấm chắn mây, hai nhóm nhỏ hợp thành một tổ, tạo thành bức tường mây thật dài, tấn công dồn về phía địch, lại phối hợp với Diệu Nhật trận, đợt chiến đấu này vô cùng may mắn. Tuy rằng câu thích tiễn lợi hại, có hộ vệ còn chưa tới nơi đã bị bắn trúng, lập tức trúng độc không thể hành động, có người còn ngã xuống khỏi lưng ngựa, bị vó sắt giẫm đạp tan xương nát thịt.
Song cuối cùng, đội quân của Ô Mộc Tề vẫn phải lui lại.
Bộ lạc Thảo Thạch nổi tiếng về che dấu hành tung, hễ gặp xung đột, trước tiên họ sẽ tránh đi rồi mới tính. Ô Mộc Tề không ngờ khi gặp phải cảnh binh đao thực sự, bộ lạc Thảo Thạch có tiếng ôn hoà sẽ chiến đấu ngoan cường như thế. Nhưng họ càng làm vậy, sẽ chỉ khiến y phái nhiều quân khiêu chiến hơn thôi.
Tới lúc xế chiều, hai bên đã đối chiến mấy lần, quân Tây Di có thể thay phiên lẫn nhau để nghỉ ngơi nhưng người của bộ lạc Thảo Thạch lại không thể. Cuối cùng Bát Tuấn vẫn phải ra trận, Quân Sở Hòa còn dẫn nhóm Tiểu Tam, Tiểu Lục, Tiểu Tứ đến giúp đỡ. Có mấy người võ công cao cường như họ chung sức, tuy không bằng thiên quân vạn mã nhưng hễ họ đi đến đâu thì nơi đó thi thể chất thành đống, đồng thời tiếp thêm tinh thần chiến đấu cho toàn quân.
Người của bộ lạc Thảo Thạch đã vô cùng mỏi mệt rồi, phần lớn trên người đều có vết thương, số quân còn lại chưa tới ba nghìn người, và trong đó số người có thể tham chiến không quá một nửa.
Ta tính kỹ, đối phương chỉ tổn thất khoảng bốn nghìn quân, nhưng chúng được thay phiên tác chiến, nghỉ ngơi đầy đủ, hơn nữa còn lại hơn một vạn nhân mã. Nếu Ô Mộc Tề phái gần hết quân đi, bắt gọn chỉ trong một mẻ, như vậy ba nghìn quân của ta cũng chỉ như muối bỏ biển khơi. Nhưng liệu Ô Mộc Tề có làm như vậy không?
Mấy lần trước, y cho chỉ cho chúng ta nghỉ ngơi rất ít, cứ cách mười phút lại tấn công một lần, còn lần này thì khác hẳn, hơn nửa canh giờ đã trôi qua, chúng ta vẫn chưa nghe thấy tiếng trống nổi lên, chẳng lẽ y đã không còn đủ kiên nhẫn nữa sao?
Lại cách một lúc lâu, ta mới nghe thấy nơi xa truyền đến tiếng đi đều, không giống với tiếng vó ngựa lao nhanh như hai lần trước. Âm thanh lần này đều đều vang lên, cả vùng đất như thể rung chấn bởi tiết tấu này.
Cuối cùng y cũng phát động tổng tiến công rồi.
Quả nhiên Ô Mộc Tề đang cưỡi ngựa trắng giữa đoàn quân, người mặc áo giáp đen, chùm tua đỏ trên mũ giáp màu đen tung bay theo gió.
Áo giáp của chúng là loại tốt, mặt mũi sạch sẽ, còn người của bộ lạc Thảo Thạch thì trên người đều có vết máu, quần áo rách nát, họ đã không thể nào đánh tiếp trận này được nữa.
Hai bên vừa giao chiến, người của bộ lạc Thảo Thạch vừa đánh vừa lui, mà quân Tây Di cứ lớp sau đè lớp trước trong thế tiến công.
Ta và Hạ Hầu Thương cùng mấy hộ vệ của bộ lạc Thảo Thạch lui vào hẻm núi ngay phía sau tảng đá Song Tỉnh, quan sát chiến trường bằng ống nhòm.
Người của bộ lạc Thảo Thạch như bị sóng biển cuốn trôi rồi biến mất hoàn toàn. Tiểu đội của Lạc Nhật Hà và Hào Cách dẫn theo rơi vào vòng chiến đấu.
Tiểu Tam và Tiểu Tứ vốn có thù riêng nhưng khi xông vào vòng vây của quân địch lại phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau, tuy đã nhiều năm chưa từng hợp tác nhưng một khi đã hợp tác vẫn phối hợp nhuần nhuyễn như trước.
Đám người dần dần lui về phía sau, bị quân Tây Di dồn vào khe núi.
Ô Mộc Tề không buồn nhìn bọn ta, y ngồi trên ngựa cười sang sảng, ta thấy rõ khẩu hình của y liên tục gọi tên Hạ Hầu Thương.
Loáng thoáng có tiếng nói truyền tai chúng ta, Hạ Hầu Thương có nội lực nên hiển nhiên nghe rõ ràng, toan đứng dậy định lao ra nhưng ta đã nắm lấy tay chàng: “Không được, vết thương ở tay chân chàng còn chưa khỏi đâu.”
Chàng nói: “Nếu hôm nay không thoát khỏi đây, e rằng ngay cả tính mạng cũng không thể bảo toàn nổi… Nhưng còn nàng…”
Tiểu Thất không hề tham gia trận chiến này, hắn nói: “Ta sẽ bảo vệ người giúp ngài.”
Hạ Hầu Thương gật đầu rồi đứng thẳng dậy.
Ngay lúc này, người của bộ lạc Thảo Thạch đã bị dồn vào một góc, đến cuối cùng Quân Sở Hòa, Tiểu Tam và Tiểu Tứ vẫn phải lui bước. Sau đó chợt vang lên tiếng rầm rầm vang vọng, đột nhiên có một lượng lớn đất đá rơi xuống từ hai bên khe núi, bụi đất bay mù trời.
Sự biến hóa này khiến binh lính Tây Di trở tay không kịp, có một đám đuổi theo về phía trước đã bị đá đè chết rồi.
Tình hình đằng trước không rõ ràng nhưng tiếng va đập rung chuyển trời đất khiến đám Tây Di đang truy đuổi phía sau phải dừng bước, có nhóm còn không kịp hãm ngựa lại liền đâm vào nhau.
Cũng ngay tại thời điểm đó, một luồng lửa bốc lên từ dòng suối giữa sơn cốc, nháy mắt đã lan ra khắp nơi. Mùa thu khô ráo, trên mặt đất có nhiều cỏ và cành khô bắt cháy, có gió thổi qua liền bùng lên. Chỉ trong chốc lát, binh lính Tây Di đang tụ tập một chỗ có vài người bị bắt cháy khiến lòng quân hoảng hốt, thúc ngựa vội vã chạy trốn va cả vào nhau. Lửa cháy trên mặt đất khiến ngựa bị bỏng nặng, có tiếng ngựa hí lên, đàn ngựa như bị nổi điên nháo nhào chạy đi.
Khung cảnh náo loạn, có biết bao binh sĩ Tây Di bị bắt lửa ngã khỏi lưng ngựa. Nhưng mãi đến khi có lệnh của Ô Mộc Tề, gã hộ vệ bên cạnh y giơ cờ hiệu, đánh trống trận, đám người ngựa đang đứng cùng nhau mới tự tản ra, lao về những chỗ chưa bị cháy.
Cỏ khô trong sơn cốc tuy nhiều nhưng không có nhiều cây cối, dầu hỏa dần dần hết, chỉ còn lại vài thi thể bị bắt lửa vẫn đang cháy.
Lúc này người của bộ lạc Thảo Thạch lại liều chết xông lên, nhắm thẳng vào hướng binh sĩ Tây Di.
Quân Tây Di còn chưa hoàn hồn, sau đợt hỏa chiến nhân mã tổn thất không ít, tinh thần chiến đấu của bộ lạc Thảo Thạch tăng cao, hai bên lại rơi vào trạng thái giằng co. Nhưng ta biết, chúng ta không cầm cự được bao lâu nữa.
Ô Mộc Tề tức xì khói, cao giọng bằng nội lực: “Hạ Hầu Thương, ngươi trốn ở chỗ nào đấy? Loại đàn ông hèn nhát như ngươi không dám đánh với ta một trận sao?”
Hạ Hầu Thương đâu thể nhịn được nữa bèn huýt sáo, gọi con ngựa đen của chàng đến rồi quay sang nói với ta một tiếng “bảo trọng.” Cuối cùng thúc ngựa lao về hướng chiến trường.
Ta biết Ô Mộc Tề vẫn luôn muốn dồn chàng vào chỗ chết, dùng không biết bao nhiêu thủ đoạn từ lúc bắt đầu thu thập chứng cứ thái tử mưu hại đến khi ta hôn mê nằm trên giường, y và Quân Sở Hòa đã lập kế hoạch để Hạ Hầu Thương hao tổn công lực, lại để chàng bị nhiễm độc tương tư, cho đến hành trình leo núi đao, không có chỗ nào mà y không sắp xếp tỉ mỉ từng bước một, không biết từ lúc nào y đã hận Hạ Hầu Thương đến tận xương tủy.
Nếu y muốn lấn chiếm Trung Nguyên thì Hạ Hầu Thương chính là vật cản lớn nhất, ngay cả thái tử y cũng không chịu buông tha, hễ có cơ hội y liền nắm lấy, cuối cùng làm thái tử rơi vào cảnh thân tàn, vậy thì làm sao có chuyện y sẽ tha cho Hạ Hầu Thương chứ?
Y sẽ không để chàng chết một cách đơn giản giống như Chiến thần bình thường mà muốn chàng phải chịu nỗi nhục trước nay chưa từng có rồi mới để chàng chết. Vì thế y mới cướp ta đến Tây Di, để chàng trơ mắt nhìn ta bị y khinh bạc trong đại hội Y Mộ Đạt.
Ta ngẫm lại từng lời nói từng cử chỉ của Ô Mộc Tề, rồi hóa mình vào kiểu người như y, bấy giờ mới hiểu rõ và khẳng định chắc chắn y sẽ lại làm chuyện như ở đại hội Y Mộ Đạt một lần nữa.
Bên cạnh ta chỉ còn lại Tiểu Thất và hai người của bộ lạc Thảo Thạch. Tuy vùng đất phía sau rộng lớn và vô cùng yên tĩnh, nhưng trong mắt người có lòng thì đó chính là chỗ có thể lợi dụng.
Vì vậy khi hai cái bóng đột ngột xuất hiện trước mặt chúng ta, ta làm như thể đã chờ đợi chuyện này từ lâu rồi.
Trên chiến trường, một người che mặt đội mũ giáp áo giáp đen cưỡi ngựa trắng của Ô Mộc Tề đang cầm một thanh giáo đánh nhau quyết liệt với Hạ Hầu Thương, nhưng không biết kẻ đằng sau tấm khăn che kia là ai.
Hai người bên cạnh ta vừa thấy không ổn bèn rút đao lao lên. Vừa giáp mặt, họ đã bị kẻ che mặt đánh ngã rồi.
Kẻ đó cất giọng the thé, hóa ra là một phụ nữ: “Đồ nhi, mau bắt tân nương tử của con đi, cứ giao thằng nhóc này cho ta.”
Ả chính là Bột Bột Khắc Ti sao? Thảo nào võ công cao cường đến thế.
Không biết Tiểu Thất có thể địch nổi ả không nữa? Thật ra thì võ công của Tiểu Thất và ta không chênh nhau là mấy, vừa rồi hắn đã học xong toàn bộ cuốn sách của cha ta, võ công lại càng tăng lên, ngoại trừ mấy món võ bên ngoài của Quân Sở Hòa thì thật sự cũng không kém ông là bao.
Ô Mộc Tề đến đây, chắc hẳn đã triệu tập không ít người có võ công cao cường, trận đánh cuối cùng mới dốc toàn lực, vì thế Quân Sở Hòa, Bát Tuấn, Tiểu Tam Tiểu Tứ đều lúng túng tay chân.
Tiểu Thất lo lắng nhìn ta, hắn vẫn bảo vệ phía trước ta nhưng vì phải đánh lại hai người liên thủ, cuối cùng trong lúc sơ sót, ta bị Ô Mộc Tề ôm vào lòng.
Một bàn tay của y đã bẻ ngoặt hai tay của ta ra sau lưng, làm ta không thể động đậy, mà Tiểu Thất thì bị Bột Bột Khắc Ti quấn lấy, hắn gấp đến độ mấy lần muốn xông đến chỗ ta nhưng không được.
Ô Mộc Tề ôm chặt lấy ta, thì thầm bên tai ta: “Ngọc, nàng muốn ta phải nói với nàng thế nào đây? Cuối cùng khiến bao nhiêu người phải chết, mà nàng thì vẫn phải trở lại bên ta thôi. Nàng nhìn Hạ Hầu Thương đi, ngay cả một thuộc hạ của ta cũng không đánh nổi thì nàng đi theo hắn làm gì?”
Y đột ngột ôm lấy ta nhảy lên, tung người vài lần đã đến một tảng đá tròn to. Đứng ở đây có thể trông thấy rõ ràng toàn bộ chiến trường, mà người trên chiến trường cũng có thể nhìn thấy chúng ta.
Một tay y nắm lấy hai cổ tay ta đến phát đau, tay còn lại thì vuốt ve mặt ta: “Tại sao bổn vương có thể lạc mất hồn vì gương mặt này của nàng chứ? Ngày ấy thật sự nên nếm thử cảm giác nàng đang nằm dưới người ta mới đúng, nhưng bổn vương lại không nỡ… Tại sao nàng cứ phải chọc tức bổn vương vậy hả?”.
Ta muốn tránh khỏi tay y nhưng lại không thể. Từ trong ánh mắt y, ta thấy sự hưng phấn của người thợ săn như bắt được dã thú.
Y đột nhiên cất cao giọng: “Hạ Hầu Thương, ngươi xem đây là ai?