Trời đêm nay có nhiều mây hơn mọi đêm khác, gió cũng thổi không ngừng nên dù có là trăng rầm thì đôi lúc cũng không thể chiếu sáng hoàn toàn được khoảng sân trước nhà họ Lâm, thậm chí là cũng chẳng thể thấy mặt trăng đâu.
Chạy đôn chạy đáo, tất bật từ buổi chiều tối đến đầu canh ba thì cuối cùng tất cả mọi thứ mà thầy Tư dặn cũng đã được chuẩn bị xong.
Có những thứ bùa chú mà thầy Tư dặn cần phải sang tận những thôn khác xin mới có được, nên cậu cũng gấp rút đi xin ngay cả trời đã sụp tối, đến lúc có được mang về còn phải được thầy Tư luyện thêm nên không chỉ đám gia nhân, người trong nhà mà cả thầy Tư cũng đầy áp lực.
Mọi thứ ở ngoài sân, nơi để làm lễ vừa được chuẩn bị xong xuôi.
Hai đứa gia nhân bị sai đi rải muối ở ngoài cửa ngõ đang co rúm người, nhanh nhanh mà chạy vào sau nhà vì cái cảm giác lạnh lạnh vừa chạy qua sống lưng cũng đủ làm chúng nó sợ chết khiếp.
Một cái bàn cây có trải phía trên là bởi cái mặt bàn màu trắng, cái bàn được đặt ngay giữa khoảng sân lát hoàn toàn bằng những tấm gạch tàu màu đỏ.
Trên bàn là một cái lư hương màu xanh ngọc được cách điệu bằng những nét rồng phụng, kế bên là cái bình hoa cổ cao màu trắng, cắm trong nó là những bông hoa cúc cũng màu trắng, gần chỗ lư hương còn có một bát nhỏ đựng muối với hai chung rượu.
Ngay phía trước cái lư hương là ba bát cơm trắng được bới đầy, ba bát cơm dễ bắt gặp trong những đám tang thông thường.
Nhưng lạ thay là cả ba bát cơm trên đấy, mỗi bát đều được cắm đủ một đôi đũa.
Thường thấy thì ba bát cơm ấy trong đám tang chỉ có bát ở giữa là được cắm đủ một đôi đũa, hai bát hai bên chỉ được cắm một chiếc, người ta làm vậy cốt là để hắc bạch vô thường ăn chậm hơn, chờ người mới khuất ăn no.
Còn trên bàn cúng hiện tại mỗi bát cơm đều được cắm một đôi đũa là đang làm theo thời của thầy Tư, thầy bảo: “Cắm như vậy để mượn chút sức của quỷ sai, nhanh nhanh đưa linh hồn của mợ tư đi trước khi con quỷ dữ hút hết linh hồn mợ thì nguy.” Trên bàn còn để một cái đèn dầu có gắn chụp chắn gió và đang vặn lửa nhỏ cùng một bó nhang ngay bên cạnh.
Một cơn gió hơi mạnh thổi qua, cơn gió mang theo hơi lạnh sượt qua sống lưng của tất cả những người đang ngồi trong nhà làm họ hơi rùng mình.
Sau cái lạnh đó, mợ hai liền đứng dậy để chuẩn bị rời đi, thấy vậy cậu hỏi: “Em đi đâu vậy?” Mợ hai đáp: “Thôi, em đi vào trong buồng nằm ngủ chứ không có ham ở đây mà ngóng, gió thổi chút nữa thì cảm mất.” Cậu lại hỏi: “Vào trong đấy rồi có dám ngủ một mình không mà vào?” Mợ đáp như móc máy cậu: “Mấy hôm liền ngủ một mình đấy thì cũng có làm sao đâu chứ.
Chưa kể ai có làm gì ác thì mới sợ chứ…” Mợ ta liền ngưng lời vì biết miệng mồm đã đi hơi xa sau cái liếc mắt của bà, mà bà cũng chỉ liếc qua một cái cho mợ ta nhanh đi đi chứ cũng chả buồn mắng mợ ta như lần trước nữa.
Đương nhiên mợ ta cũng quay lưng bỏ đi ngay, mạnh miệng móc máy vậy thôi chứ trong lòng mợ ta cũng rõ sợ vì mợ ta cũng ác chứ có hiền chi đâu mà không chột dạ.
Mà nói chứ, chẳng ai là không sợ ma, đang lộng hành trong căn nhà còn là con quỷ vừa giết chết một mạng người nữa thì càng đáng sợ hơn.
Nhưng có lẽ hơn ai hết, bà là người vô cùng trông chờ cho buổi lễ này thành công, cho những ngày sau này được ăn ngon, đêm thẳng giấc chứ bà đã quá ám ảnh với cuộc sống hiện tại rồi.
Thầy Tư đi ra từ gian phòng riêng, theo sau là hai thằng gia nhân đang bê thi thể của mợ tư đã được thay một bộ quần áo khô ráo.
Thầy Tư mặc trên người là bộ đồ thầy pháp màu vàng thường thấy, bên tay trái là rất nhiều là bùa được thầy bó gọn trong một miếng vải nâu rồi lại được quấn thêm bởi ống tay áo bên ngoài mới đến lượt tay thầy cầm, bên tay phải thì thầy cầm theo cái chuông đồng và một thanh kiếm bằng gỗ, trên lưỡi kiếm còn được khắc những cổ tự kì bí.
Thầy dặn hai thằng gia nhân cẩn thận đặt thi thể mợ tư nằm gọn trong vòng tròn được xếp bằng nến đỏ, tổng cộng có ba mươi hai cây nến được xếp sát nhau, rồi thầy kêu hai đứa nó thắp lên hết, Thầy bảo: “Số nến đó tính từ lúc được thắp sáng, chỉ cần trụ qua đầu canh tư mà không bị tắt hết thì mọi chuyện coi như mĩ mãn.” Trong lúc đó thì thầy lấy số bùa đang cầm bên tay trái để dán gần dưới chân những cây nến quanh xác mợ tư, xong xuôi thì thầy cho hai đứa nó đi vào nhà, còn thầy đi lại chỗ cái bàn cúng được bày sẵn.
Đặt cái chuông với thanh kiếm xuống, thầy rút ra ba nén nhang từ bó, cẩn thận đưa đầu nén nhang vào ngọn lửa trong họng đèn dầu để đốt lên, con cú đậu phía sau vườn lần nữa lại kêu lên liên hồi, thầy Tư giơ cao ba nén nhang vừa đốt xong và bắt đầu khấn vái.