- Vậy thì làm sao em đòi hỏi cậu ta phải biết điều ấy? Anh phải gác máy đây, bên này đã hơn bảy giờ rồi và anh phải sửa soạn, anh có hẹn ăn tối.
- Với ai?
- Thế còn em, em dùng bữa tối với ai?
- Một mình ạ.
- Vì anh khiếp sợ rất chính đáng rằng em đang nói dối anh, anh sẽ gác máy đây, ngày mai gọi lại cho anh nhé. Hôn em.
Julia không có đủ thời gian để tiếp tục cuộc trò chuyện, cô nghe thấy một tiếng cạch, Stanley đã biến nhanh, hẳn là về phía tủ quần áo.
° ° °
Một hồi chuông kéo cô ra khỏi giấc ngủ. Julia vươn dài người, nhấc điện thoại, cô chỉ nghe thấy tiếng tút dài. Cô đứng dậy, đi ngang phòng, chợt nhận ra trên người đang không mặc gì, cô liền vớ lấy chiếc áo choàng tắm bỏ lại ở chân giường từ hôm qua, lập tức khoác lên người.
Đằng sau cánh cửa, một người phục vụ tầng đang đợi. Khi Julia mở cửa, anh ta đẩy vào phòng một chiếc bàn trên đó có bày một bữa sáng kiểu Âu và hai quả trứng chần.
- Tôi đâu có gọi đồ ăn gì, cô nói với cậu thanh niên đang bày bộ đồ ăn lên cái bàn thấp.
- Ba phút ba mươi giây chính là độ chín lý tưởng của trứng chần theo ý cô, có phải thế không ạ?
- Chính xác, Julia đáp và vò cho tóc rối tung lên.
- Ông Walsh đã dặn kỹ chúng tôi như vậy!
- Nhưng tôi không đói..., cô nói thêm trong khi cậu thanh niên nhẹ nhàng cắt vỏ trứng.
- Ông Walsh đã báo tôi biết là thể nào cô cũng nói vậy. À, còn một điều cuối cùng trước khi tôi thôi quấy rầy cô, ông ấy đợi cô dưới đại sảnh khách sạn lúc tám giờ, tức là ba mươi bảy phút nữa, cậu ta nói sau khi nhìn đồng hồ đeo tay. Chúc cô ngày tốt lành, cô Walsh, trời đang nắng đẹp, cô hẳn sẽ có một kỳ nghỉ dễ chịu tại Berlin.
Và cậu thanh niên lui ra trước ánh mắt ngơ ngác của Julia.
Cô nhìn trên bàn, nước cam ép, ngũ cốc, bánh mì tươi, không thiếu thứ gì. Quyết định phớt lờ bữa sáng này, cô đi vào phòng tắm, quay trở lại, rồi ngồi xuống tràng kỷ. Cô nhúng một ngón tay vào món trứng rồi rốt cuộc cũng ngấu nghiến gần như hết sạch tất cả các món bày trước mặt.
Tắm nhanh dưới vòi sen, cô vừa mặc quần áo vừa sấy khô tóc, vừa nhảy lò cò vừa xỏ giày vào chân, rồi ra khỏi phòng. Vừa đúng tám giờ!
Anthony đang đứng đợi gần quầy lễ tân.
- Con xuống muộn! ông nói khi cô ra khỏi thang máy.
- Ba phút rưỡi ư? cô đáp và nhìn ông vẻ hồ nghi.
- Không phải con thích ăn trứng chần trong khoảng thời gian đó sao? Đừng lần chần nữa, nửa tiếng nữa chúng ta có một cuộc hẹn và với những vụ tắc đường này, chúng ta chỉ tới nơi khít giờ thôi.
- Chúng ta có hẹn gặp ai và ở đâu?
- Ở trụ sở của công đoàn báo chí Đức. Cũng phải bắt đầu cuộc điều tra của bố con ta ở đâu đó chứ, phải không?
Anthony bước qua cánh cửa xoay rồi gọi một chiếc taxi.
- Bố đã làm thế nào vậy? Julia chất vấn khi ngồi lên một chiếc Mercedes màu vàng.
- Bố đã gọi đến đó vào đầu giờ sáng, trong khi con ngủ!
- Bố nói tiếng Đức?
- Bố có thể nói với con rằng một trong những kỳ quan công nghệ mà bố được trang bị cho phép bố có thể sử dụng thành thạo khoảng mười lăm ngôn ngữ; có lẽ điều ấy khiến con kinh ngạc, cũng có thể không, nhưng con hãy bằng lòng với lời giải thích về một vài năm bố hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại đây, nếu con chưa quên. Bố vẫn còn giữ được một vài kiến thức sơ đẳng về tiếng Đức cho phép bố có thể diễn đạt bằng ngôn ngữ này khi cần thiết. Còn con, người đã muốn sống cả đời mình tại đây, con có thực hành đôi chút ngôn ngữ của Goethe chứ?
- Con quên sạch rồi!
Chiếc taxi lao nhanh trên Stülerstrasse, nó quẹo trái ở ngã tư tiếp theo và chạy ngang qua công viên. Bóng của một cây đoạn to trải trên thảm cỏ xanh rờn.
Lúc này chiếc xe đang chạy dọc theo hai bờ đã được quy hoạch lại của sông Spree. Hai bên bờ sông, những căn nhà, căn này hiện đại hơn căn kia đua tranh độ trong suốt, kiến trúc tự do, bằng chứng cho thấy thời thế đã đổi thay. Khu phố mà họ đang đi qua sát gần biên giới cũ nơi xưa kia đã từng mọc lên bức tường tai ác. Nhưng giờ đây không còn sót lại chút gì của thời kỳ đó. Phía trước họ, một đại sảnh khổng lồ chứa bên trong vách kính ghép màu của nó một trung tâm hội nghị. Xa hơn chút nữa, một khu tổ hợp đồ sộ hơn vẫn đang trải rộng ra từ cả bờ bên này lẫn bờ bên kia sông. Một cây cầu nhỏ màu trắng có hình dạng như treo trên không trung dẫn vào đó. Họ đẩy một cánh cửa rồi đi theo con đường dẫn họ đến với khu văn phòng của công đoàn báo chí. Một nhân viên nam đón họ tại quầy tiếp tân. Sử dụng một thứ tiếng Đức khá chuẩn, Anthony giải thích rằng ông đang tìm gặp một người tên là Tomas Meyer.
- Về việc gì thế nhỉ? người nhân viên hỏi, không buồn ngẩng đầu lên khỏi thứ đang đọc dở.
- Tôi cần phó thác một số thông tin cho Tomas Meyer, chỉ mình cậu ta đủ tư cách nhận những thông tin này, Anthony trả lời bằng giọng nhã nhặn.
Và vì lưu ý sau này dường như rốt cuộc đã thu hút sự chú ý của người đối thoại với ông, ông ngay lập tức nói thêm rằng ông sẽ vô cùng biết ơn nếu công đoàn chia sẻ một địa chỉ nơi có thể gặp được Meyer. Dĩ nhiên không phải những địa chỉ mang tính cá nhân, mà là địa chỉ của cơ quan báo chí nơi cậu ta làm việc.
Nam nhân viên lễ tân yêu cầu ông đợi rồi bỏ đi gặp cấp trên của anh ta.
Viên phó giám đốc mời Anthony và Julia vào phòng làm việc riêng. Ngồi trên một chiếc tràng kỷ, bên dưới một bức ảnh treo tường khổ lớn rõ ràng là chụp chân dung của vị chủ nhân tay cầm món chiến lợi phẩm quan trọng của buổi câu, Anthony nhắc lại bài nói của mình từ lời đầu tiên. Người đàn ông đánh giá Anthony bằng một cái nhìn chăm chú.
- Chính xác thì ông tìm cái người mang tên Tomas Meyer này để tiết lộ với anh ta loại thông tin nào vậy? ông ta vừa hỏi vừa xoắn xoắn ria mép.
- Đó chính xác là điều mà tôi không thể tiết lộ với ông được, nhưng xin hãy yên tâm rằng thông tin này là điều cốt yếu đối với anh ta, Anthony hứa với thái độ thành thực nhất trần đời.
- Tôi không nhớ những bài báo quan trọng do Tomas Meyer nào đó viết, viên phó giám đốc nói, vẻ nghi hoặc.
- Và đó chính xác là điều có thể thay đổi, nếu nhờ ông mà chúng tôi tìm ra cách liên hệ với cậu ta.
- Thế còn cô đây thì có liên quan gì trong tất cả những chuyện này? viên phó giám đốc hỏi, đồng thời xoay ghế hướng về phía cửa sổ.
Anthony quay sang Julia, cô vẫn chưa nói một lời kể từ khi họ đến nơi.
- Hoàn toàn không liên quan gì hết, ông đáp, cô Julia là trợ lý của tôi.
- Tôi không được phép cung cấp cho các vị bất cứ thông tin nào, dù là nhỏ nhất, về một trong số những thành viên của công đoàn chúng tôi, viên phó giám đốc kết luận và đứng lên.
Anthony đến lượt mình cũng đứng lên và lại gần ông ta, đặt tay lên vai ông ta.
- Điều tôi phải giao phó cho Tomas Meyer, và chỉ ình cậu ta mà thôi, ông nhấn mạnh bằng giọng độc đoán, có thể thay đổi cuộc đời cậu ta, theo chiều hướng tốt, rất tốt là đằng khác. Đừng để tôi phải nghĩ là một người phụ trách công đoàn có thẩm quyền như ông lại gây cản trở cho bước thăng tiến ngoạn mục của một trong số các thành viên công đoàn chứ? Bởi lẽ, trong trường hợp này, tôi sẽ không gặp khó khăn gì khi đem thái độ này ra trước công luận.
Người đàn ông vuốt ria mép và lại ngồi xuống. Ông ta gõ gõ trên bàn phím của máy tính rồi quay màn hình về phía Anthony.
- Các vị nhìn đây, chẳng có Thomas Meyer nào xuất hiện trong danh sách của chúng tôi cả. Tôi lấy làm tiếc. Và dù cho anh ta không có thẻ nhà báo đi nữa, điều đó là không thể, thì anh ta cũng không xuất hiện trên niên giám nghề nghiệp của chúng tôi, các vị có thể tự mình xác minh. Bây giờ, tôi có việc, vậy nên nếu không ai khác ngoài người tên là Meyer có thể tiếp nhận những điều bí mật quý báu của quý vị thì tôi sẽ yêu cầu hai vị thôi không làm phiền tôi nữa.
Anthony đứng dậy và ra hiệu cho Julia đi theo mình. Ông nồng nhiệt cảm ơn người tiếp chuyện đã dành thời gian tiếp đón rồi rời khỏi khu văn phòng của công đoàn.
- Có thể là con có lý, ông lẩm nhẩm khi lại đi bộ ngược lên vỉa hè.
- Trợ lý của bố ư? Julia nhướn mày hỏi.
- Ồ, bố xin con, đừng làm cái vẻ mặt ấy, bố cũng phải nghĩ ra lý do nào đấy chứ?
- Cô Julia! Lại còn chuyện gì nữa thế này...
Anthony vẫy một chiếc taxi đang chạy phía bên kia đường.
- Tomas của con có lẽ đã đổi nghề.
- Dĩ nhiên là không, phóng viên đối với anh ấy không phải là một nghề, mà là thiên hướng. Con không thể hình dung anh ấy lại có thể làm nghề khác.
- Cậu ta thì chắc là có chứ! Hãy nhắc cho bố tên con phố bẩn thỉu nơi hai đứa sống hồi đó đi, ông hỏi con gái.
- Comeniusplatz, đằng sau đại lộ Karl-Marx.
- Đấy!
- Sao lại đấy!
- Không có gì, toàn những kỷ niệm hay ho, phải không nào?
Rồi Anthony nói địa chỉ cho tài xế taxi.
Chiếc xe đi xuyên thành phố. Lần này không còn những chốt an ninh, không còn dấu vết của bức tường, chẳng còn gì để hồi tưởng lại đâu là nơi kết thúc phần phía Tây, đâu là nơi bắt đầu phần phía Đông. Họ đi qua trước tháp truyền hình, chóp tháp đẹp như tạc có phần nóc vòm và ăng ten chĩa lên trời. Và càng tiến lên trước, cảnh vật càng đổi khác. Khi đến nơi, Julia không thể nhận ra khu phố nơi cô từng sống. Mọi thứ từ giờ trở đi đã khác lạ tới mức ký ức của cô dường như trở thành ký ức về một cuộc sống khác.
- Chính tại chốn tuyệt đẹp này đã diễn ra những giây phút đẹp nhất trong đời con gái của con hả? Anthony hỏi bằng giọng châm chọc. Bố công nhận là nơi này có một vẻ rất lôi cuốn.
- Đủ rồi đấy! Julia kêu lên.
Anthony ngạc nhiên vì thái độ sừng sộ quá đột ngột của con gái.
- Nhưng bố lại nói điều gì sai cơ chứ?
- Con van bố đấy, bố im đi.
Những tòa nàh và những căn nhà cũ kỹ năm xưa từng án ngữ khu phố nay đã nhường chỗ cho những tòa nhà kiến trúc hiện đại. Không gì trong số những kỷ niệm của Julia còn tồn tại, ngoại trừ công viên.
Cô tiến đến căn nhà số 2. Nơi đây trước kia là một căn nhà xập xệ, đằng sau cánh cửa màu xanh lục là một cầu thang gỗ dẫn lên tầng gác; Julia giúp bà của Tomas leo những bậc cao nhất. Cô nhắm mắt và nhớ lại. Thoạt tiên là mùi xi bốc lên khit anh lại gần tủ mốt, những tấm rèm cửa bằng voan lúc nào cũng kéo kín lọc ánh sáng và chặn đứng ánh mắt của người lạ; chiếc khăn lót vải bông muôn thuở trải trên mặt bàn, ba chiếc ghế trong phòng ăn; xa hơn chút nữa, chiếc tràng kỷ cũ sờn, đối diện với máy thu hình đen trắng. Bà của Tomas đã không bật lại nó kể từ khi nó không chỉ phát đi những tin tức tốt lành mà chính phủ muốn đưa ra. Thế rồi, phía đằng sau, tấm vách mỏng ngăn giữa phòng khách với phòng ngủ của họ. Đã bao lần Tomas thiếu chút nữa thì khiến Julia nghẹt thở với chiếc gối khi cô cười phá lên vì những vuốt ve mơn trớn vụng về của anh?
- Hồi đó tóc con dài hơn, Anthony nói và kéo cô ra khỏi phút mộng mơ.
- Gì kia? Julia quay lại hỏi.
- Hồi mười tám tuổi, tóc con dài hơn bây giờ.
Anthony nhìn lướt về phía đường chân trời.
- Còn lại chẳng nhiều nhặn gì, phải vậy không?
- Đúng ra là chẳng còn gì hết, bố muốn nói thế chứ gì, Julia ấp úng.
- Đi thôi, bố con ta đến ngồi trên băng ghế phía bên kia, trông con xanh lắm, con phải nghỉ cho lại sức đi.
Họ đến ngồi trên một góc cỏ đã ngả vàng bởi vết chân trẻ con.
Julia nín thinh, Anthony hơi nhấc cánh tay, như thể ông muốn vòng tay ôm lấy vai cô, nhưng rốt cuộc tay ông lại thõng xuống lưng ghế.
- Ở đây từng có những ngôi nhà khác, bố biết đấy. Những mặt tiền của chúng bị lở vữa, những khối nhà xây trồng hết sức lôm côm, nhưng bên trong rất êm ái, nó trông...
- Đẹp hơn trong ký ức của con, phải, chuyện thường xảy ra như thế, Anthony nói bằng một giọng trấn an. Trí nhớ là một nghệ sĩ lạ thường, nó vẽ lại những màu sắc của cuộc sống, tẩy xóa cái tầm thường để chỉ giữ lại những đường nét đặc sắc nhất, những đường con khơi gợi nhiều cảm xúc nhất.
- Ở đầu phố, thay vào chỗ cái thư viện xấu kinh người kia, từng có một quán cà phê nhỏ. Con chưa từng thấy nơi nào tồi tàn đến vậy; một căn phòng màu xám, những bóng đèn nê ông treo lủng lẳng trên trần nhà, những chiếc bàn bằng foóc mi ca phần lớn là khập khiễng, nhưng giá mà bố biết được bọn con đã cười thế nào, đã hạnh phúc thế nào trong cái quán rượu nhớp nhúa ấy. Chỉ có thể tìm thấy ở đó rượu vốt ka và một thứ bia dở tệ. Con thường giúp đỡ ông chủ quán khi đông khách, con đeo tạp dề và phục vụ khách. Bố thấy chưa, đằng kia kìa, Julia kết thúc và chỉ tòa thư viện đã thế chỗ quán cà phê.
Anthony ho húng hắng.
- Con chắc là nó không ở phía bên kia phố đấy chứ? Bố nhận ra một quán rượu nhỏ rất giống với những gì con vừa tả.
Julia quay đầu lại. Ở góc đại lộ và nằm đối diện với tòa nhà cô vừa chỉ, một biểu hiện nhấp nháy trên mặt tiền đã xỉn màu của một quán rượu cũ kỹ.
Julia đứng dậy, Anthony bám theo cô. Cô đi ngược lên đầu phố, rảo bước và bắt đầu chạy trong khi những mét cuối cùng dường như kéo dài mãi mãi. Thở hổn hển, cô đẩy cửa quán bar và bước vào bên trong.
Căn phòng đã được sơn lại, hai chùm đèn đã thế chỗ những bóng đèn nê ông, nhưng những chiếc bàn bằng foóc mi ca vẫn còn nguyên, đem lại cho nơi này một phong cách hồi cổ tuyệt vời. Đằng sau quầy không hề đổi khác, một người đàn ông tóc bạc đã nhận ra cô.
Người khách hàng duy nhất đang ngồi trên một chiếc ghế ở cuối phòng. Nhìn từ đằng sau lưng, người ta đoán chừng anh ta đang đọc báo. Nín thở, Julia tiến đến gần anh ta.
- Tomas phải không?