Bố ơi, con sẽ ngừng viết thư cho bố một thời gian. Nếu viết tiếp, thế nào con cũng muốn đưa hết cho bà cụ giữ hộ. Mà như vậy, thư con viết sẽ chiếm quá nhiều chỗ trong ngăn kéo tủ. Bà cụ còn phải giữ hộ thư cho nhiều người nữa, con làm như vậy là không ngoan. Vả lại, vì bố vẫn luôn dõi theo con nên con sẽ ổn cả thôi.
Con quyết định từ giờ vẫn sẽ viết thư, nhưng là ở trong tim cơ. Con sẽ viết thật nhiều, thật nhiều, nhiều hơn cả từ trước tới giờ bố ạ. Nếu như vậy mà bố vẫn thấy buồn thì hãy gọi điện lại cho con bố nhé. Kể cả tối khuya cũng
Con chào bố.
10.
Rẽ vào góc đường có trạm cứu hỏa và bắt đầu rảo bước trên con đường ven sông, trong giây lát tôi bị ảo giác xâm chiếm, tưởng như chưa phút giây nào tôi rời xa mảnh đất này. Mùi hương năm xưa vẫn dậy lên trong không khí. Tuy trước nhà ga, một trung tâm thương mại lớn đã mọc lên, khu phố mua sắm thay đổi khá nhiều nhưng cửa hàng Nishigawa vẫn bán bánh đậu Đại Phúc mà bà cụ thích ăn. Vì thế nên lúc này, tôi đang đi với một túi bánh Đại Phúc trong tay.
Dòng sông tỏa sáng lung linh dưới nắng thu trong trẻo, bóng tôi soi rõ trên mặt nước, cái dáng vóc mà mỗi khi nhìn thấy mẹ lại nhún vai ca cẩm: “Con gầy quá!” Những cây thủy sinh dưới đáy sông dập dờn lay động như say ngủ. Hồi trước, mặt con sông nhỏ này luôn nổi lềnh phềnh bọt xà phòng giặt, bây giờ xem ra nước sông có vẻ đã sạch hơn trước nhiều.
Cũng vào một ngày mùa thu như thế này, bà cụ tiết lộ với tôi về những lá thư gửi sang thế giới bên kia. Bây giờ nghĩ lại, tôi cảm thấy cái kiểu đó quả là đúng phong cách của bà cụ. Còn cách nào phù hợp hơn để khích lệ tinh thần một đứa trẻ sáu, bảy tuổi đây? Không thể phủ nhận vai trò của những lá thư ấy, nhờ chúng mà tôi có thể thoát khỏi chuỗi tháng ngày bất an kia, có thể tin rằng cú điện thoại không lời trong đêm tôi mất ngủ là của bố. Hơn nữa, suốt một thời gian dài, bà cụ đã giữ hộ tôi những lá thư ấy, số lượng không ít chút nào.
Nếu có thể, hôm nay tôi muốn nói với bà cụ. “Nhờ bà cháu mới được hạnh phúc như thế này.” Nhưng nghĩ tới đó, một cảm giác khó chịu xâm chiếm tôi, có gì như co thắt trong lồng ngực, tôi dừng bước.
Tôi đã làm gì với chính mình? Tôi yêu một người đàn ông quá kiệm lời, có quá nhiều thứ trong tâm trí anh tôi không biết. Anh là kỹ thuật viên xét nghiệm, làm việc cùng tôi ở bệnh viện cũ. Anh giống một đứa trẻ lặng lẽ đã quen thui thủi chơi một mình. Một thời gian, anh dần quen lui tới căn hộ của tôi. Trừ phi tôi hỏi thẳng kiểu “Lần sau bao giờ anh đến?” còn lại anh chỉ biết gật đầu với mọi câu nói của tôi.
Thật điên rồ khi yêu một kẻ mà ta không biết họ nghĩ gì. Nhưng tôi lại dễ chịu khi ở bên một người tự giam mình trong lớp v chắc chắn như anh. Tôi không thấy thoải mái khi phải giao tiếp với những người khéo ăn nói, giỏi ba hoa. Ở họ có gì đó khiến tôi vừa sợ vừa ngưỡng mộ.
Lý do khiến tôi thành ra như vậy rất có thể liên quan tới những ấn tượng về bố trong ký ức. Nỗi buồn do bất lực không bước được vào thế giới lặng yên của bố, và hơi ấm xa xăm có thể xoa dịu nỗi trống trải mà tôi từng nhận được ở bố cứ vấn vít quyện vào nhau trong lòng tôi. Phải chăng tôi sẽ không thể cảm nhận được sự dịu dàng, ấm áp nếu không có nỗi buồn lặng lẽ giống như khi ở bên bố?
Thời gian gần đây, mỗi khi nghĩ về bố, một thứ tình cảm phảng phất như oán trách cứ dấy lên. Lẽ ra trước đây bố nên trò chuyện với tôi nhiều hơn. Nếu được như vậy tôi đã không đến mức thiếu thốn và thèm khát lời nói để rốt cuộc lại đâm ra sợ hãi chúng. Tuy nói thế không phải là phỏng đoán vô căn cứ, nhưng cũng là một lời buộc tội ngớ ngẩn. Cố gắng diễn giải đời mình bằng cách gán lỗi cho một người đã chết gần hai mươi năm, làm vậy có khác gì khẳng định rằng điều duy nhất tôi nhận được khi sinh ra trên đời này chỉ là một-người-cha-kiệm-lời-chết-trẻ.
Phải rồi, thật quá nực cười khi quy mọi chuyện là tại bố. Việc chỉ có vậy, quên đi được thì tốt hơn, chẳng qua tại mình mù quáng mà thôi - nhưng dù có tự nhủ bao nhiêu lần đi nữa, một cơn mơ vẫn cứ ám vào tôi trong giấc ngủ: Tôi gào khóc lúc bị đưa vào phòng mổ. “Tôi rất tiếc, nhưng không giữ đứa bé này được nữa.” Bác sĩ nhìn tôi, tiêm thuốc gây mê, lặp đi lặp lại: “Mộôt…Haai…Baa…” rồi khuôn mặt của bác sĩ biến thành khuôn mặt người đàn ông đó, “Chuyện kết hôn để khi khác đi, sẩy thai có khi cũng là cái số.” Anh chỉ nói vậy. Thà cứ kiệm lời, thà cứ lẳng lặng rời bỏ tôi còn hơn bắt tôi phải nghe những lời ấy.
Tôi quyết định nghỉ việc vì không chịu nổi cảm giác nặng nề khi phải làm cùng chỗ với người đó, nhưng thực ra nếu lý do duy nhất là vậy, tôi chỉ cần chuyển bệnh viện là xong. Nhưng không đơn giản thế. Tôi trở nên hèn nhát, mất hết tự tin khi làm nghề y tá. Tôi chỉ muốn cuống cuồng bỏ chạy, rời thật xa cái nỗi ám ảnh khủng khiếp là thấy chính mình thành bệnh nhân trên bàn mổ.
Bọc thuốc mang theo đang nằm gọn trong cái túi du lịch nhỏ tôi xách bên tay phải. “Hay là mình nốc sạch thuốc,” ý nghĩ đó tiếp tục ám ảnh tôi. Lý do tôi chưa thực hiện được, hiển nhiên là vì hèn nhát. Song thật kỳ lạ, chính ý nghĩ rằng, “vẫn còn một con đường cuối cùng, là nốc sạch cả đống thuốc ngủ,” lại khiến tôi muốn trì hoãn, thêm một ngày nữa, rồi lại thêm một ngày nữa. Dạo gần đây, tôi chọn uống thuốc như là tương lai duy nhất của mình, cứ như thể đó là phương đặc biệt giúp tôi tận hưởng cuộc sống, đã trải qua như thế cũng mấy tuần rồi. Giá như tôi có thể gọi đó là tương lai.
Quá đủ rồi, phải dừng cái trò vờ vĩnh này. Tôi thấy lo lắng và sốt ruột, như một người bị bỏ lại bơ vơ ở quầy bán vé cho chuyến tàu đi xa đông nghẹt trên một đất nước xa lạ. Phải nhanh chóng quyết định ga đến, phải nhanh lên…Nhưng đến đâu thì tốt nhỉ?
Khi tôi ngẩng đầu lên, cây dương vẫn sừng sững nơi đó. Tắm mình trong nắng chiều, những chiếc lá vàng kim reo xào xạc. Không phải quá khứ, không phải tương lai, không phải trong những giấc mơ hay chuyện vờ nào đó, cây dương tồn tại thật vô cùng tận, đầu óc tôi thoáng bỗng rỗng không. Cây dương chẳng bao giờ bận tâm chuyện nó không có nơi nào để đến. Đơn giản, nó luôn ở nơi nó vẫn đứng. Và cả tôi, bây giờ tôi cũng đang đứng đây.
Tôi hít một hơi thật sâu rồi bước tiếp. Mắt không rời cây dương vẫn vẫy tay chào, y như ngày tôi tới đây lần đầu tiên.
*
* *
“Chiaki, là cháu à? Vào đi!”
Đang mặc đồ tang, nhưng cô Sasaki đón tôi rộn ràng tới mức chẳng hề có cảm giác ai đó vừa qua đời.
“Lâu lắm mới gặp, cô Sasaki.”
“Đúng là lâu thật đấy. Cháu đã lớn thế này rồi cơ à? Nhưng cô vẫn nhận ra ngay.”
Tuy đã bước sang tuổi năm mươi nhưng cô Sasaki vẫn để kiểu tóc ngắn trên vai giống như ngày nào, đuôi mắt hơi có nếp nhăn nhưng làn da không trang điểm của cô nhìn còn khá tươi tắn.
“Ở đây chẳng thay đổi gì cả, nhỉ?”
“Vâng, đúng thế thật.”
Cả cánh cổng, khu vườn, cả cảm giác âm u nơi sảnh trước và mùi hương, mọi thứ vẫn như ngày xưa. Tôi chỉ kinh ngạc vì đống giày dép mấp mé tràn ra khỏi sảnh, hình như bên trong đang rất đông người.
Ông cụ râu bạc trông có vẻ nhút nhát, người mà bà cụ gọi là “thầy tôi”, hồi trẻ đã bỏ rơi vợ con để chạy theo bà. Khi đó, một giáo viên tiểu học. Hai người không có con và bị họ hàng từ mặt, cắt đứt quan hệ. Chuyện này tôi biết ra từ lần bà cụ ngã bệnh đó, vì thế tôi cứ đinh ninh đám tang này sẽ rất lặng lẽ.
Tôi còn đang ngơ ngác đứng ở đầu sảnh trước thì cô Sasaki giục:
“Nào cháu, vào mau đi. Đều là bạn cả mà.”
Bạn là sao? Tôi bước vào, trong bụng không khỏi thắc mắc. Trong nhà, chật cứng những người là người. Ngay từ sảnh đã thấy đàn ông đàn bà ngồi trò chuyện đầy trong các phòng bếp, phòng sinh hoạt, cả trong căn phòng kiểu Nhật trước bà cụ vẫn ngủ nữa. Hầu hết đều già hơn tôi. Không ai có bộ mặt nghiêm nghị hay tỏ ra tất tưởi lo toan như thường thấy trong hoàn cảnh này. Cũng không ai than vãn hay khóc lóc. Các ô cửa sổ mở toang, toàn bộ khung cảnh tắm đẫm trong ánh sáng màu vàng kim lọt xuống qua tán lá dương đã nhuốm vàng. Mọi người ngồi đó, uống trà trong làn ánh sáng, nét mặt bình thản.
Trong phòng sinh hoạt, đổi diện với tủ quần áo màu đen, trước cái giá sách đóng cố định trên tường, một bàn thờ nhỏ mới lập, quan tài của bà cụ được để ở đó. Tôi cúng cho bà cụ vàng hương và một gói bánh đậu Đại Phúc, vừa định ghé mắt qua ô kính trên nắp quan tài để nhìn mặt bà cụ, thì một người đàn ông bước tới mở hẳn cái nắp ra. Một mùi quen thuộc phảng phất bay ra. Chính là thứ mùi tôi đã ngửi thấy khi mở cái ngăn kéo hồi nào.
“Ồ…” Tôi ngỡ ngàng.
“Cháu ngạc nhiên à, thật khó tin nhỉ?”
Người đàn ông vừa mở nắp quan tài giúp tôi mỉm cười. Ông trạc sáu mươi, mái tóc bạc trắng chải hất ra sau để lộ khuôn mặt tròn lịch thiệp.
“Vâng, cháu không nghĩ nhiều thư đến thế, quả là rất bất ngờ.”
Bà cụ nằm trong quan tài, diện bộ kimono tím nhạt rất đẹp, hàng trăm lá thư rải kín xung quanh. Người đàn ông khẽ huơ lòng bàn tay phía trên chân bà cụ.
“Thư của tôi để đây này.”
“Vậy ra…” tôi bối rối, không nói được hết câu, “cả bác nữa ạ?”
“Ừ, đúng thế.
Người đàn ông ngượng nghịu gật đầu như một cậu bé hơi yếu đuối, khuôn mặt đầy đặn khiến tôi liên tưởng tới trăng tròn.
“Thật không phải, bác quên chưa tự giới thiệu. Bác là Yamane ở Công ty Tang lễ Yamashira.”
*
* *
Tôi thực sự bất ngờ vì vẫn đinh ninh rằng chuyện đưa thư sang thế giới bên kia chỉ là trò đùa bà cụ bịa ra để an ủi một đưa trẻ con như tôi mà thôi.
Khuôn mặt bà cụ lúc này nhỏ đi rất nhiều, nhưng vầng trán vẫn rộng y như trong ký ức của tôi. Mắt bà nhắm, miệng mím chặt hình chữ V ngược, khóe mép hơi nhếch lên nom như thoáng mỉm cười. Bà cụ đang ngủ, khuôn mặt giống thủy thủ Popeye gian ác khi còn nhỏ. Tôi nhìn bà chăm chú, đột nhiên nước mắt trào ra. Mặc dù chúng tôi đã đi hoàn toàn có thể tự đến thăm bà bất cứ lúc nào kia mà…
“À, cái này là của cháu, Chiaki.”
Cô Sasaki đặt bộp lên đầu gối tôi một xấp thư khá dày. Những chữ viết của chính tôi ngày bé đập vào mắt: “Gửi: Bố - Từ: Chiaki.” Hầu hết đều là phong bao màu nâu xỉn thô kệch, bên trên cả xấp thư có một tờ phụ lục in hoa thủy tiên tôi cắt từ tạp chí. Dấu vết tôi tẩy xóa rồi viết lại tên mình cho đúng vẫn còn.
Đầu hơi choáng váng, tôi toan để xấp thư xuống chân bà cụ thì bác Yamane nhẹ nhàng cầm lên và đặt giúp tôi xuống dưới ngực bà một chút. Rồi bác lẳng lặng đóng nắp quan tài bằng một thao tác vô cùng điệu nghệ.
“Lần đầu tiên bác gặp bà cụ…”
Bác Yamane nhấp tách trà cô Sasaki đưa, bắt đầu kể chuyện.
“…là ở một đám tang. Người chết là học sinh của chồng bà cụ. Một trí thức nghèo, và gia đình khá chật vật với chi phí tang ma, bà cụ liền gọi bác ra và nói về những lá thư. Bà cụ bảo khi nào chết bà sẽ giúp bác chuyển thư cho người ở thế giới bên kia và đề nghị bác giảm giá dịch vụ. Nghe thật vô lý.”
“Lúc ấy, bà cụ có kể cho bác nghe chuyện người anh họ đã mất của bà không?” tôi xen
“Không, chuyện khác. Chuyện về người chị gái đã chết của bà ấy. Một câu chuyện cảm động.”
Thấy tôi có vẻ không hiểu, bác Yamane cười khẽ rồi kể tiếp.
“Đầu tiên, bác nghĩ bà già này nhiễu sự quá. Sau khi đứa con trai duy nhất của bác bị tai nạn chết, bác đâm ra chai lì trước những nỗi đau phải chứng kiến trong công việc này. Đã từng bất hạnh, bác cứ ngỡ mình có thể bình thản tiếp xúc với nỗi đau của người khác, nhưng không phải vậy, chuyện này thật đáng sợ. Có lần bác còn cau mày nói với một đồng nghiệp rằng người chết cũng chẳng khác gì lũ vịt trời. Thật xấu hổ, nhưng đúng là bác đã nói vậy.
Thế là bác viết thư. Không hiểu sao bác bị ý tưởng của bà cụ cuốn hút, chẳng những giảm chi phí tang lễ, bác thậm chí còn không lấy tiền. Đêm hôm đó, bác viết rất nhiều. Bác đã viết ra mọi điều bác muốn nói với con trai, về cảm giác tội lỗi, về nỗi đau đớn, cả về rất nhiều dự định bác muốn cùng con thực hiện - nếu có điều gì khiến bác thấy cay đắng thì đó chính là cảm giác dường như bác lại thấy tương lai. Bác đã viết, viết ra toàn bộ, viết cả về cái tương lai giả định mà dù đã bao lần bác cố gắng gạt đi nó vẫn cứ hiện ra - là nếu con trai bác còn sống, cả về nỗi tức giận không ghìm nổi trong lòng mình. Viết đến đó bác dừng lại, cầm một bì thư dày nặng tới đây, đưa cho bà cụ. Ba ngày ròng sau đó bác không viết gì, cảm giác đau đớn trở về, vậy là bác lại viết thư thâu đêm rồi lại đem thư tới…Chuyện này lặp đi lặp lại suốt một thời gian. Cho đến một hôm, bác nghe có tiếng nói “được rồi đấy, ổn rồi, không còn phải chịu đau đớn nữa đâu.”
Bác Yamane cúi đầu, môi mím chặt thành một đường kẻ.
“Hôm nay đến đây đều là những người được bà cụ nhận giữ hộ thư. Mọi người, đều được bà cụ giúp đỡ.”
Như bị bác Yamane thôi miên, tôi ngoảnh nhìn quanh. Đám người trò chuyện rì rầm này, có phải bà cụ đã gặp gỡ với từng người, từng người trong số họ? Ở ven đường, trong phòng chờ của bác sĩ khoa mắt, phía trước cửa hàng bánh kẹo truyền thống, trên tàu điện, ở lễ tang của một người nào đó, trên ghế công viên, trên tầng thượng khu bách hóa tổng hợp, trên cầu…với một người đang khóc, một người bộ dạng thẫn thờ, người vẻ mặt đanh lại căng thẳng, những người âu lo, những người không còn để lọt nổi vào tai cả tiếng khóc thét của con trẻ, những người sợ hãi, lẽ nào bà cụ đã nói chuyện với từng người một trong số những kẻ
Một cơn gió thổi bất ngờ làm đung đưa những nhành dương. Các phiến lá đã nhuốm vàng phấp phới dịch chuyển, và dòng ánh sáng màu vàng kim trên cao đổ xuống chợt rung rinh.
“Khi nãy, cháu bảo bà ấy kể chuyện người anh họ quá cố à?”
Giọng bác Yamane nghe thoáng nửa như một tiếng thở dài lại có chút gì như đùa. Tôi gật đầu.
“Còn với bác bà cụ lại kể chuyện chị gái ạ?”
“Đúng thế. Với mỗi người bà ấy kể một câu chuyện khác nhau.”
“Tất cả mọi người ư?”
“Ừ. Với ai cũng thế, bà ấy luôn kể một câu chuyện xảy ra với mình, nhưng mỗi câu chuyện đều về những người thân khác nhau. Người chết có khi là cha bà ấy, có khi là một cô bé cùng tuổi, có khi lại là đứa em trai mới ba tuổi đã biết đọc…”
“Vậy sao?”
“Bác đến đây từ hôm qua, đã nghe rất nhiều chuyện, chẳng chuyện nào giống chuyện nào.Giả sử, chỉ là giả sử thôi nhé, liệu có phải vì bà ấy đã trải qua quá nhiều đau khổ nên mới không thể kể chuyện thật không nhỉ?”
Liệu có phải thế không? Tôi còn chưa kịp nghĩ gì, bác Yamane đang cúi xuống đã ngẩng đầu lên bảo:
“Nhưng biết đâu bà ấy rỗi việc cũng nên. Ai chứ bà ấy thì bác nghi lắm, không chừng là vì bà ấy thích bịa đặt và thích làm người khác chú ý ấy chứ. Cháu thấy sao, có đúng bà cụ là người kiểu đó không?”
Tôi mường tượng cảnh bà cụ cười nhăn ra. “Cái nhà tang lễ ngu ngốc này nói nhảm đấy.”
“Vâng ạ, cháu cũng nghĩ thế. Bà cụ thì có thể lắm.”
Nghe thế, bác Yamane thở phào như trút được gánh nặng, bác nhoẻn cười, đôi mắt nheo nheo.
Trời càng tối, người đến viếng thăm càng đông. Cô Sasaki và tôi bận túi bụi, nào là gọi điện thoại đến quán sushi, quán rượu để đặt món, nào là thổi cơm để làm cơm nắm và pha trà. Nhưng, c và tôi, đều không so được với những bà đứng tuổi ban nãy vẫn còn thong thả uống trà, toàn những người kinh nghiệm đầy mình cả. Họ nhanh nhẹn đeo mớ tạp dề kiểu Nhật lên người, tất cả đều trắng tinh như là được giặt sạch chỉ để dành cho đúng dịp này, ngoài ra có một số cái màu đen viền ren đen chuyên dùng cho tang lễ. Họ làm việc vô cùng khéo léo, gọn gàng và ăn ý như một nhóm bạn đã kết thân với nhau hàng chục năm trời. Cô Sasaki rất kinh ngạc. “Đúng là không ai sánh được!” Cô thốt lên rồi đưa tôi cái túi xách tay lớn màu đen của bà cụ và giao nhiệm vụ quản tiền. Sau đó cô tất bật đạp xe đạp xuôi ngược vô số lần giữa siêu thị với trang viên Cây Dương, cố mua đầy đủ các thứ còn thiếu theo lệnh của các bậc đại tiền bối đáng kính: dưa muối, rong biển, hoa quả, trà, giấy vệ sinh…
Khi lễ đọc kinh qua đêm sắp kết thúc, trong nhà đã quá chật, bác Yamane mang những chiếc bàn gấp chuẩn bị từ trước ra kê ngoài vườn. Cái bếp dầu đặt ở chỗ phơi đồ cháy đỏ rực, trên bàn bày la liệt sushi, gà rán, dưa muối, cơm nắm kẹp giăm bông…Cô Sasaki và tôi quán xuyến cả bếp và vườn, hết ra rồi lại vào phục vụ rượu, người hâm nóng rượu giúp chúng tôi là ông cụ “đã sống ở khu này những bốn mươi năm”. Ông nhỏ thó, chỉ cao đến tầm vai tôi, chẳng biết vì uống nhiều rượu hay vì ám hơi nước mà da cứ bóng nhẫy lên. Ông nhìn những chai rượu đang ngâm trong nồi hấp âu yếm như nhìn những đứa cháu đang tắm trong bồn vậy. Nghe nói ông có thâm niên nhiều năm làm việc hâm rượu tại một cửa hàng truyền thống cao cấp, căn cứ vào số lượng người, đoàn khách loại nào, món ăn ra sao mà ông có thể tính toán chính xác thời điểm để rượu không bị nóng quá và khách không phải chờ. Mặc dù có vẻ chưa vừa lòng vì tôi mời rượu quá vụng, nhưng mọi người vẫn luôn miệng vui vẻ khen ngợi: “Ngon quá, rượu này đúng là tuyệt hảo.”
Dưới bầu trời sao, những vị khách đã ấm người lần lượt từng tốp ba người, năm người ra về cả. Còn khoảng mười người có tuổi ở lại sau cùng giúp chúng tôi dọn dẹp. Họ định sẽ ở cạnh bà cụ cả đêm. Nhưng trong số họ có những người đã ở đây từ hôm qua, nên cô Sasaki và tôi lên tầng hai trải khắp các phòng trống những tấm chăn họa tiết khá sặc sỡ mà cửa hàng cho thuê chăn đệm mang tới. Bây giờ chỉ còn một mình cô Sasaki sống trên tầng hai thôi.
Đứng trước căn hộ mẹ và tôi sống ngày xưa, tôi có cảm giác bất ngờ nhiều hơn là xúc động. Chúng tôi đã sống ở một nơi chật chội lẹp xẹp thế này sao? Tuy nhiên, mở cánh cửa chớp xộc xệch ra, tôi thấy cây dương vẫn đứng đó, dáng như đang ghé qua khung cửa nhìn tôi. Vậy là tôi bắt đầu thấy hiện lên những hồi ức cũ. Là dáng tôi ngồi kê cái mông nhỏ trên bệ cửa sổ; là bóng mẹ đang ghi chép trên bàn trong bếp.
“Khoảng hai năm trước, phòng này bị bỏ trống, nó cũ rồi và chẳng ai thuê nếu không sửa chữa. Năm ngoái, phòng bên cạnh - phải rồi, phòng mà bác Nishioka từng sống ấy, cháu nhớ không, khi phòng đó trống, bà cụ không muốn cho thuê mới nữa. Không chừng bà cụ biết trước rồi.”
Vừa kể chuyện cho tôi nghe, cô Sasaki vừa vất vả loay hoay không biết làm sao để trải tấm ga giường hồ quá dày cứng ngắc.
“Nơi này, bà cụ đã quyết định là sẽ dành để cho quyên góp từ thiện đấy. Cho cái hiệp hội gì đó nhỉ…hội gì của những người nghiên cứu văn học Trung Quốc ấy, ngày xưa ông nhà bà cụ đã được họ giúp đỡ nhiều. Vì vậy, khi biết người ta quyết định lập một quỹ phần thưởng mang tên ông nhà, bà cụ phấn khởi lắm.”
Rồi cô Sasaki lẩm bẩm như nói một mình, bàn tay cử động càng luống cuống hơn: “Chẳng kiếm đâu được chỗ nào sống thoải mái như chỗ này. Cô nghĩ tốt hơn hết cô nên về quê thôi…”
Nửa đêm, khi việc đã vãn hẳn, cô Sasaki và tôi pha trà nóng cùng ăn bánh đậu Đại Phúc. Những vị khách ở lại có lẽ đã quá mệt, hầu hết chẳng buồn thay đồ, cứ mặc nguyên quần áo ngủ ngon lành trong chăn. Bên quan tài là hai ông cụ vừa hồi nãy còn thầm thì trò chuyện giờ đã gà gật. Cô Sasaki và tôi ngồi đối diện nhau bên bàn trong bếp. Tất cả chỉ có ngần ấy người.
“Ôi, nhiều việc quá! Chiaki mà không đến thì cô không biết phải xoay xở thế nào nữa.”
Ăn xong cái bánh Đại Phúc, cô Sasaki uống một hơi cạn tách trà rồi châm thuốc hút, “Lo lễ tang ngày mai chắc vất vả lắm đấy.”
“Chính cô đã báo cho tất cả mọi người đến đấy ạ?”
“Cô chỉ gọi điện thoại thôi mà cũng vất lắm rồi,” cô Sasaki lắc đầu cười.
“Không phải bà cụ nhờ cô gọi, nhưng hồi còn sống bà cụ đã giúp đỡ cô rất nhiều, nên cô nghĩ, sao mình không làm việc này cho đến nơi đến chốn được chứ. Bà cụ ghi chép rất chi tiết trong một cuốn sổ địa chỉ. Về những người bà giữ hộ thư.”