Triệu Trinh mang theo một đội thân binh, cưỡi ngựa dừng trước đầm lầy Khám Trạch, nhìn khắp vùng đầm lầy không người.
Bây giờ là cuối tháng hai, băng trên đầm lầy Khám Trạch còn chưa tan, đại quân có thể thuận lợi đi qua, như vậy khoảng trung tuần đến hạ tuần tháng ba, lúc đó băng ở đầm lầy Khám Trạch tan hết thì sao? Khi đó mười vạn quân phòng thủ của Bắc Cương đóng quân tại lãnh thổ mới cách hai trăm dặm về phía bắc của đầm lầy Khám Trạch này, không phải sẽ bị cô lập ở bên ngoài sao?
Mặc dù điều kiện khí hậu tại nơi đầm lầy Khám Trạch này vô cùng khắc nghiệt, nhưng nơi này không những có rất nhiều loại dược liệu quý giá, mà còn ẩn chứa số lượng dầu đen lớn có giá trị đều không thể đo lường được. Tuy Triệu Trinh không biết loại dầu đen này có tác dụng gì, nhưng theo bản năng cảm thấy ở tương lai không xa, loại dầu đen này nhất định sẽ có đất dụng võ. Vì nguyên nhân đó, hắn mới đồng ý việc cầu hòa, chủ trương ký kết hiệp định, ghi trong hiệp ước đem biên giới Ô Thổ quốc dời đi, nhằm mục đích hoàn toàn đoạt lấy đầm lầy Khám Trạch.
Triệu Trinh cưỡi ngựa, dọc theo bờ sông Ô Giang của đầm lầy, chậm rãi tiến lên.
Làm thế nào để cải tạo đầm lầy Khám Trạch, biến đầm lầy này từ bất lợi thành có lợi, đây là vấn đề mà một tháng nay hắn luôn luôn suy nghĩ.
Sau khi trở lại nơi đóng quân, Triệu Trinh bắt đầu triệu tập tướng lĩnh cùng danh lão ở địa phương cùng thương lượng đối sách.
Kết quả thương lượng là cho sửa chữa và xây dựng một cây cầu nổi khổng lồ bắc qua đầm lầy Khám Trạch, như vậy đội quân đóng giữa tại phía bắc đầm lầy có thể liên thông Bắc Cương và đầm lầy Khám Trạch, cuối cùng biến đầm lầy Khám Trạch hoàn toàn trở thành lãnh thổ của Đại Kim.
Triệu Trinh một mặt đem chuyện này báo lên triều đình, một mặt bắt đầu điều hành thợ xây và binh lính cùng xây dựng cây cầu nổi lớn bắc qua đầm lầy Khám Trạch.
Một tháng sau, cầu nổi ở đầm lầy Khám Trạch được xây dựng thành công.
Nhìn khe sâu biến thành đường lớn, trên mặt Triệu Trinh mặc dù vẫn trầm tĩnh, nhưng trong lòng có chút kích động, hắn cũng tham gia bữa tiệc ăn mừng do đám thợ xây và binh lính cùng người dân địa phương tổ chức.
Triệu Trinh dự tính sau khi bữa tiệc chấm dứt, hắn liền trả mảnh đất này lại cho địa phương, còn mình thì dẫn đại quân khải hoàn về kinh.
Trời đã tối, nhưng vì dân chúng chưa thỏa lòng mong ước, nên vẫn nổi lửa trại, tiếp tục vừa múa vừa hát, uống rượu vung quyền, ăn mừng buổi lễ long trọng trăm năm khó gặp này.
Triệu Trinh cũng được mời vài ly rượu.
Không đợi buổi lễ long trọng kế thúc, hắn liền cưỡi ngựa mang theo thân binh chuẩn bị trở về doanh trại.
Lúc này đã cuối tháng ba, gió xuân se lạnh thổi lất phất qua khuôn mặt lửa nóng vì rượu của hắn, khiến khuôn mặt của Triệu Trinh dần dần lạnh xuống.
Vì ghét nóng, hắn sớm đã cởi tấm áo khoác màu đen bằng gấm mà Chu Tử đã may cho hắn, trên người chỉ còn mặc một bộ quần áo cưỡi ngựa màu tím và bộ trung y bên trong cũng là Chu Tử may. Bởi vì là tham gia hoạt động dân gian, thân binh bảo vệ tầng tầng lớp lớp, cho nên ngay cả mũ chiến hắn cũng không đội, áo giáp cũng không mặc.
Phía trước xuất hiện một con sông lớn, chính là sông Ô Giang, trên mặt sông rộng khoảng bốn dặm là một cái cầu nổi mới tu sửa, bên dưới cầu nổi, tuyết mới tan chảy xiết thành dòng. Sông Ô Giang chảy xuôi về hướng Đông, ầm ầm mãnh liệt chảy qua biên cảnh là núi Vân Mông Sơn của Đại Kim và Ô Thổ quốc, chảy đến cửa biển phía đông Ô Thổ quốc rồi chảy ra biển.
Cây cầu nổi bắc qua sông Ô giang này (*) cũng là do Triệu Trinh sai người xây dựng, giải quyết được rất nhiều vấn đề khó khăn cho dân chúng địa phương, ít nhất lúc qua sông cũng không cần phải đi đò ngang phiền toái nữa.
(* bản edit để là "Đình nghỉ chân bên cầu nổi", như vậy là không đúng, mình sửa lại nhé)
Nhìn cây cầu nổi được xây dựng rất chắc chắn, tâm tình Triệu Trinh rất tốt, dẫn đầu đoàn người cưỡi ngựa qua cầu.
Đồng thời lúc đó, trong hoàng cung Kim Kinh, tại hậu hoa viên của Thanh Vân điện, trong Tiểu lâu Thanh trúc, Chu Tử đang nằm trên giường đau đớn rên rỉ. Trước đó Triệu Trinh đã có lệnh cho bà đỡ trong Vương phủ ở Kim Kinh vào cung trước, giờ phút này đang vây quanh ở trước giường, không ngừng bận rộn.
Chu Bích vẫn ngồi ở đầu giường, ở bên cạnh Chu Tử, nắm tay nàng không buông. Ngân Linh cũng ở trong phòng, trông chừng Chu Tử. Lục Hà đi theo Chu Bích tiến cung lúc này đang đứng bên ngoài cửa sổ, cũng rất khẩn trương.
Khẩn trương nhất vẫn là Quý phi nương nương. Tay bà gắt gao bám lấy cây cột ở ngoại lâu, không nhúc nhích, như đang trầm tư, nhưng thật ra là đang cực kỳ khẩn trương. Trên đôi tay trắng nõn của bà, Lục Hà thấy nổi đầy gân xanh.
Giờ Tý đêm khuya ngày hai mươi tháng ba, vang lên một tiếng khóc trẻ con "Oa oa", Chu Tử thuận lợi sinh hạ một bé trai, nặng bảy cân tám lượng (3.9kg).
Đồng thời trong lúc đó, Triệu Trinh giục ngựa lên cầu, bỗng nhiên như nghe thấy một tiếng xé gió, còn chưa kịp phản ứng, trước ngực của hắn chợt nhói lên, con ngựa Ô Vân Đạp Tuyết của Triệu Trinh đang cưỡi cũng bị tên bắn trúng, chợt vọt lên, cả người lẫn ngựa đều rơi xuống sông, hắn lúc chìm lúc nổi trong dòng nước sông cuồn cuộn đen ngòm, nhanh chóng biến mất không còn dấu vết.
Ngay lúc Triệu Trinh bị trúng tên, thân binh của hắn lập tức phản ứng, một phần truy kích đám người bắn lén, một phần phi ngựa dọc theo bờ sông đuổi theo xuống hạ lưu.
...
Chu Tử ôm tiểu bảo bảo nhăn nheo đỏ hồng, trong lòng thấy như chua chua nhưng không phải là chua, có chút như ngọt nhưng không phải là ngọt, trên mắt đã sớm ươn ướt — bảo bảo có đôi mắt xếch, bộ dạng giống Triệu Trinh, lúc này đang nhắm mắt, miệng khẽ mấp máy.
Mắt Cao Quý phi cũng đã ươn ướt, bà ôm lấy tiểu bảo bảo, cười nói chuyện với bé: "Bảo bối, khuôn mặt nhỏ của con phúng phính như vậy, vậy cứ theo lời mẹ con, gọi là Bánh Bao Nhỏ đi!"
Hai mươi ngày sau, Cao Quý phi nhận được tin Triệu Trinh bị tập kích rơi xuống sông mất tích. Trong một khắc nhận được tin kia, Cao Quý phi không hề rơi lệ, đầu tiên bà kín đáo bố trí thân tín của Triệu Trinh ở kinh thành, ra lệnh cho họ lập tức lao đến Bắc Cương và phía đông Ô Thổ quốc, dùng hết mọi lực lượng tiếp tục tìm kiếm; sau đó viết thư gởi cho đám tướng lĩnh thân tín của Triệu Trinh, bảo họ ổn định lòng quân.