Mặc dù hiểu quá rõ bà góa còn chừa điều gì chưa nói, lý trí của Amanda mách bảo cho cô hay những lời cảnh báo đó thật buồn cười. Đã từ lâu rồi cô hiểu rằng mình không phải loại người phụ nữ mà đàn ông muốn. Tất cả những gì mà gã theo đuôi cô khát khao là sự giàu có của cha cô. Vì vậy ngày hôm sau, lúc anh hầu dừng bước trong chuyến đi dạo để chào cô, Amanda không thấy hại gì khi lôi kéo anh ta vào cuộc nói chuyện.
Cô nhanh chóng biết được anh ta đã từng là một chiến binh và dành nhiều thời gian phục vụ ở Trung Ấn. Anh thết cô một vài giai thoại trong quân đội và cô thấy anh vừa hóm hỉnh lại vừa am tường Ấn Độ một cách đáng ngạc nhiên.
Khi anh tới gặp cô ở lan can ngày hôm sau, cuộc đàm đạo tiếp tục tại nơi chúng bị bỏ lại. Mỗi ngày sau đó họ gặp nhau ở cùng một nơi, cùng một thời điểm và nói chuyện. Đến cuối một tuần lễ, các cuộc nói chuyện nửa tiếng mỗi lần đã được kéo dài thành một tiếng, và thậm chí thời gian bắt đầu trở nên quá ngắn ngủi.
Anh Brentick thông minh và rất thú vị, song cô cũng đã gặp rất nhiều đàn ông thông minh và thú vị. Sự khác biệt ở chỗ anh có vẻ cũng thấy cô như vậy. Khi cô sa đà vào triết học Hin đu, một trong những chủ đề yêu thích của cô, anh có vẻ bị mê hoặc. Anh hỏi những câu hỏi thông minh, hiểu biết và không bao giờ e dè tranh luận nếu như anh nghi ngờ quan điểm của cô. Amanda đã quen với những cái nhìn trống rỗng hay, tệ hơn, sự hạ cố thích thú với các niềm say mê phi Anh quốc và không nữ tính của cô.
Cô thấy anh Brentick không chỉ đơn giản là vượt bậc so với những anh hầu thông thường mà còn là một kiểu đàn ông nổi trội, hiếm hoi. Quan trọng hơn, cô cảm thấy như mình tìm được một người bạn. Đến hết nửa tuần trăng, cô thấy như thể họ đã là bạn bè từ trước tới giờ.
Amanda đang trên đường đi lên boong trên thì cánh cửa ca bin nhà Bullerhams bật mở, và bà Bullerham nặng nề tựa lên cây can, ì ạch lách qua. Đầu óc còn đang ở đẩu đâu nên Amanda không chú ý thấy thân hình phì nộn đó hiện ra cho tới khi bà xuất hiện trước mặt cô. Thế là cô vội dừng lại, lỡ một cuộc đụng độ chỉ còn cách vài inch nữa.
“Đây không phải là một cuộc chạy đua nhá,” Bà Bullerham nói bằng chất giọng oang oang, “dù người ta không được yêu cầu phải nhắc nhở cô rằng các quý cô thì không chạy. Thế mẹ cô không nói cho cô biết là như thế là không đoan trang sao?” Bà tiếp tục oang oang khi đi xa hơn trong hành lang và do đó chắn lấy nó. “Mà tôi quên mất. Mẹ cô đã thiếu trang bị để có thể trông nom giáo dục cô.”
Gương mặt Amanda đanh lại và tim cô bắt đầu đập loạn với sự đau đớn và tức giận, nhưng cô không nói một lời nào, chỉ đợi cho người đàn bà đáng ghét đi khuất.
“Tôi, dĩ nhiên là để ý tới tình trạng rắc rối của cô,” giọng nói nặng nề tiếp tục. “Cô cũng không hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về sự dốt nát của mình. Tôi hi vọng bà Gales sẽ rót một lời vào tai cô, nhưng bà ta, rõ ràng, không rảnh ranh gì với ông thuyền trưởng. Tôi đã giữ mồm giữ miệng vì lòng trắc ẩn. Nhưng nó sẽ không làm được gì.”
“Tôi thường thấy là việc giữ mồm miệng làm được rất tốt.” Amanda trả lời chặt chẽ.
“Cô thật là xấc xược, tiểu thư à, như tôi đã nhận xét lúc trước.”
“Vậy tôi không hiểu sao bà lại muốn nói chuyện với tôi.”
“Nghĩa vụ to tát hơn cảm xúc cá nhân. Như trong trường hợp của cô,” bà Bullerham quát ầm ầm. “Anh trai cô là một quý tộc và một quan toàn. Dù cho mẹ cô là ai, dòng máu cao qúy cũng chảy trong huyết quản của cô. Ngay cả khi cô không biết tôn trọng bản thân, cô cũng phải nghĩ đến gia đình mình.”
“Tôi sẽ đánh giá cao, thưa bà,” Amanda nói, “nếu bà đứng sang bền và cho phép tôi tiếp tục đi,”
“Để cô có thể vội vàng tới nơi hẹn hò? Cô sợ người hầu sẽ xoáy mất ả thị tì nếu cô bỏ phí à?” lời cay độc đáp lại. “Cô không có tự trọng sao?”
“Thưa bà, thật quá lắm để phải đáp lại sự thiếu hiểu biết như vậy,” Amanda quay đi.
Một bàn tay to béo giữ chặt cánh tay cô. “Đừng có làm con ngốc, cô gái ạ. Cô không xinh đẹp, nhưng cô không phải quá tuyệt vọng như thế. Chắc chắn là không muốn những người khác suy luận rằng mình quá đói khát sự chú ý của đàn ông đến mức phải hạ mình ve vãn với những người hầu chứ? Cô sẽ thành trò cười cho thiên hạ mất.”
Amanda đưa tay lên gỡ lỏng những ngón tay to béo, rồi giật cánh tay mình ra. “Tôi tin là bà nói xong rồi.”
“Chưa đâu, Tiểu thư Láo xược ạ - không phải -”
“A, bà Bullerham,” một giọng nói điềm đạm cung kính can thiệp. “Bà có muốn sự trợ giúp trèo lên các bậc không?” Amanda quay đầu sang và mặt cô nóng bừng khi thấy anh Brentick đang sải chân về phía họ.
Ánh sáng trong đôi mắt xanh lơ của anh dường như lấp lánh qua hành lang mờ tối. “Hay là bà muốn” anh tiếp tục với giọng điệu báo điềm gở hơn khi lại gần, “quay lại ca bin để nghỉ?” Bà Bullerham mở miệng. Anh Brentick bước một bước gần hơn. Bà Bullerham ngậm miệng, quay lại và hấp tấp vào trong ca bin.
Rồi tia nhìn xanh lơ sáng rực ấy chiếu lên Amanda, và tim cô dường như bị ghì chặt trong một nắm tay nhỏ và cứng. Cô không thể thở được. “Cô Cavencourt, liệu tôi có thể mời cô lên trên để giải thoát chính cô khỏi cơn oán thán đang đốt cháy lưỡi mình không?”[11]
[11] Philip lấy lại nguyên lời Amanda khi trước, lúc cô lỡ miệng nói rằng anh tán tỉnh ở chương 6.
Anh ta đã nghe thấy. Thứ đang bị đốt cháy là khuôn mặt cô. “Có vẻ như quỷ thần cũng làm cho những cái lưỡi đù đờ hoạt động,” anh Brentick nói khi họ tới lan can. “Bà Bullerham có bản năng của một tên giết người thực sự.”
“Sẽ là ga lăng hơn nếu anh giả vờ không nghe thấy thứ gì,” Amanda nói, cố nặn một nụ cười.
“Tôi nghĩ đó là sự hèn nhát. Tôi ghê tởm chính mình vì đã không xen vào sớm hơn, nhưng tôi bị kẹt giữa hai làn đạn, cô thấy đấy.” Cô đã quá bị tổn thương, hoang mang và nhục nhã để gặp bất cứ thứ gì lúc đó, và nụ cười của cô giống như một gương mặt méo mó gớm ghiếc. Nhìn sang chỗ khác, cô hít thật sâu luồng khí trời trong lành mằn mặn.
“Lúc đầu tôi đã nghĩ nếu mình hăm hở tới giúp cô thì nó sẽ làm mọi chuyện tồi tệ hơn,” anh tiếp tục. “Tôi không nhận ra sự xuất hiện của mình là không cần thiết để làm nên điều đó.”
“Nếu anh không thể ga lăng,” cô nói, “thì xin anh đừng có tử tế nữa,” Cô nuốt họng, và quay người lại bắt gặp cái nhìn cảm thông của anh. “Phải thế không? Những người khác nghĩ thế phải không?”
“Như cô đã nói với tôi hồi trước, cô Cavencourt, đầu óc bà ấy bị đầu độc. Tất cả toàn là nọc độc.” Cô lắc đầu. “Không, và đó là phần tệ hại nhất của bà ấy. Tuy có nọc độc, nhưng luôn luôn có sự thật trong những lời bà ấy nói. Điều làm mọi người nổi giận là bà ấy đã đủ vô tình để nói đến nó. Đó là thứ những người khác nghĩ phải không? Rằng tôi đã quá tuyệt vọng-”
“Tại sao lại không ai khác ngoài một mụ bò cái già mắc chứng khó tiêu và luôn sầu khổ nghĩ về những điều như thế? Đầu óc bà ấy cũng bệnh như lá gan trời đánh thánh vật của bà thôi,” anh giận dữ đáp.
“Anh có nghĩ thế không?” cô hỏi.
Anh nhìn chằm chằm vào cô một lúc đầy hoài nghi, rồi trước sự bối rối của cô, anh mỉm cười. “Nếu cô lượng thứ cho sự xấc xược này, thì thưa cô – cô có bị điên không vậy?”
“Ý anh là sao?”
“Bà ấy nói cô đang mong chờ cơ hội cuối cùng,” anh trả lời với sự kiên nhẫn quá mức thường để dành cho những người yếu thần kinh. “Dù những người khác vặn vẹo ‘sự thật’ bà ấy có lẽ đã thốt ra, cô không thể quá nháo nhào vì bị gọi thế.”
Amanda nhìn anh vô cảm. Anh trả lại cái nhìn đó. “Cô không phải,” anh nói “Điều đó là không thể. Hãy cố gắng tập hợp trí thông minh của mình đi.”
“Ước gì anh tập hợp trí khôn của anh ấy, anh Brentick. Tôi chắc chắn đang chờ cơ hội cuối cùng rồi. Tôi đã hai mươi sáu tuổi.”
“Và?”
Cô đỏ mặt. “Và – và tôi có một chiếc gương soi.”
“Nếu cô không thể nhìn vào nó với tâm trạng bình thường, tôi không thể hình dung nổi nó có gì tốt cho cô.”
Mắt cô nheo lại. “Tôi hi vọng anh đang không cố gắng thuyết phục tôi rằng tôi là dạng phụ nữ quyến rũ nguy hiểm.”
“Tôi không đoán điều đó, thưa cô.”
“Nếu đó là ý niệm của anh làm thế nào để khuây khỏa lòng tự trọng bị tổn hại của tôi, tôi phải chỉ ra rằng anh cũng đã bị lột mặt nạ.” Khi cô bắt gặp cái nhìn không hề biểu lộ gì của anh, một sự nghi ngờ khác dấy lên. “Anh không – anh không tán tỉnh tôi nữa, và giả vờ là mình không đấy chứ?”
Mắt anh mở rất to. “Tôi không mơ về điều đó, thưa cô.”
“Tôi hi vọng là không. Anh đã hứa là anh sẽ không làm chuyện đó.”
“Nếu trí nhớ tôi còn tốt, thì tôi đã nói tôi không được.”
“Vậy thì anh không được,” cô nói, càng bối rối thêm theo một cách hoàn toàn khác. “Điều đó làm cho tôi rất – rất không thoải mái.”
“Tôi đau đớn để ý đến điều đó, thưa cô. Điều đó thật là khiêu khích.” Giọng anh đầy buồn phiền, nhưng có một con quỷ đang nhảy múa trong đôi mắt xanh.
Cô đáp lời con quỷ. “Ôi, tôi gần như quên mất. Chẳng nghi ngờ gì việc anh sợ kỹ năng của mình sẽ bị han gỉ vì không sử dụng.”
“Đó không phải điều làm tôi bận tâm,” anh nói. Anh dừng lại một lúc. “Tôi nhận thấy một tâm hồn độc lập thú vị bất ngờ bị nạt bởi những lời phát biểu lầm lạc của một con tê giác bại não. Tôi làm tất cả những gì trong khả năng khiêm tốn của mình để làm cô xao lãng, còn cô không hề chú ý. Thay vào đó, đôi mắt đẹp của cô cứ phóng cái nhìn ra xung quanh, như thể cô là một loài săn mồi vậy. Nó thật là khiêu khích.”
Cô hớp lấy hơi thở. “Cái gì của tôi?”
“Tất nhiên thật là vô ích khi nhắc cô nhớ rằng đôi mắt của cô rất đẹp, bởi vì cô rất phi lý. Thị tì của cô chắc có lẽ đã nói với cô cả trăm lần, chưa kể đến sắc đẹp của cô, nhưng tất cả những lời nói hiểu biết ấy đã bị nhấn chìm bởi tiếng eng éc ồn ào của con lợn nái đó.”
Không. Anh ta không thực sự nghĩ rằng cô... không, chắc chắn là không. Anh ta nói ra bởi vì tử tế, bởi vì anh ta thấy tội nghiệp cô và cảm thấy phải vuốt cho mượt mà mớ lông vũ xơ xác của cô. Hay đó chỉ là thói quen. Tôi dám nói anh ta trút sự tàn phá lên các cô hầu.
“Anh có trút sự tàn phá lên các cô hầu của những quý bà không?” cô hỏi.
“Gì cơ?”
“Đó là lý do bà Bullerham phàn nàn rằng đây là một cuộc hẹn hò, anh biết đấy. Bởi vì anh rất đẹp trai,” cô dạn dĩ nói. Cô được tưởng thưởng. Chiếc mặt nạ bảo đảm bị rung động. Cô đã làm anh luống cuống. “Và cũng, có lẽ bởi vì có một con quỷ trong mắt anh, anh Brentick ạ.”
Sự bối rối của anh chỉ trong tích tắc, và anh nở một nụ cười nhe nanh chó sói. Răng anh mới trắng làm sao, sáng lấp lánh trên khuôn mặt gầy, rám nắng.
“Sự thử thách gần đây đã hâm nóng trí tưởng tượng của cô,” anh nói. “Bà ta làm cho cô thấy ác quỷ ở khắp nơi.”
“Không, không phải ác quỷ,” cô trả lời thấu đáo. “Krishna thì đúng hơn. Anh có biết về các vị thần Hin đu không.”
“Tôi biết một vài trong hàng ngàn cái tên, mặc dù tôi hiếm khi nhớ đúng chúng.” anh nói, rõ ràng là bị bối rối bởi sự đột ngột chuyển hướng trong câu chuyện.
“Anh ở Ấn Độ bao lâu rồi?” cô hỏi.
Philip ở lại gần một tiếng bên cạnh cô. Họ chưa bao giờ trò chuyện lâu đến thế. Quan trọng hơn, đây là lần đầu tiên câu chuyện mạo muội tiến gần đến các vấn đề cá nhân, và những gì anh đã biết gây hoang mang và khó xử. Anh chưa từng trải qua sự nghi ngờ vụn vặt, nhưng trong những tuần qua, chúng cứ phồng lên thành những phần đáng kể. Hôm nay anh lắng nghe cô, nhìn gương mặt đầy biểu cảm của cô và tự hỏi liệu có thể chăng chuyện cô không hay biết thứ gì, không biết mối liên hệ nào giữa anh và gã đàn ông đã ăn cướp của cô.
Anh cân nhắc lại bằng cớ sau khi cô đi, một lần nữa. Một là cô đã không để cho Jessup chết. Hơn nữa, sau bốn tháng, Philip vẫn còn sống. Để loại trừ anh mà không gây sự nghi ngờ nào sẽ khó khăn, công nhận. Song chuyện đó không phải ngoài khả năng tên Ấn Độ quỷ quyệt.
Nhưng không có gì. Ngay cả một tia le lói nhận ra cũng không có. Điều đó dẫn đến một số cách giải thích. Ví dụ, Padji chắc hẳn đã bám theo cô Cavencourt cho mục đích riêng của hắn. Tên Ấn Độ có lẽ đã lợi dụng bản chất tốt bụng của cô và thuyết phục cô mang hắn tới nước Anh.
Hắn có vài lý do để làm việc đó. Một lý do xuất sắc là sự sợ hãi cơn giận của Rani khi bà biết chuyện mất cắp, mặc dù không cần phải dẫn anh ta đi mãi tới nước Anh. Một lý do khác, đặc trưng hơn, là lời thề trả đũa kẻ thù đích thực của Rani, Hedgrave.
Philip biết Nàng Công chúa cười không đáng giá tới năm mười nghìn bảng, chưa kể đến nhiều nghìn được thêm vào trước đó để chi trả cho việc lấy lại bức tượng. Anh nhận ra rằng sự xuất hiện của Chim ưng không hơn gì một công cụ đắt tiền trong một trò chơi khó chịu: hai đứa trẻ hằn học cãi nhau về một món đồ chơi mà đứa này chỉ muốn chọc tức đứa kia. Anh có lẽ đã không quá sốc khi phát hiện ra trò chơi lại trở nên chết chóc như vậy.
Trong trường hợp đó, cô Cavencourt có lẽ không như anh nghĩ lúc đầu là một môn đệ xảo quyệt của Rani Simhi độc ác. Cô có lẽ chỉ là một công cụ khác, nhưng là một kẻ vô tội. Hay đó chỉ đơn giản là vì bây giờ anh muốn tin như thế, bởi vì anh bị bẫy quá lâu trên con tàu đáng nguyền rủa này? Đã bao nhiêu tháng dài kiêng khem làm méo mó lý trí của anh? Liệu anh đã bào chữa cho cô đơn giản là vì anh khao khát cô? Lố bịch làm sao. Anh không cần phải thích cô để muốn ngủ với cô – hay với bất kỳ người đàn bà nào khác.
Nhưng cô đã dùng lý trí chơi trò tàn phá ngay từ đầu phải không? Cô khuấy động anh khi anh tấn công cô ở Calcutta đêm đó và thấy mình vật lộn với một con mèo cái. Tuy nhiên mãi tới gần đây, khi hiểu cô nhiều hơn, sự kiện đó quay lại ám ảnh những giấc mơ của anh: tiếng vải lụa sột soạt và tiếng leng keng của những chiếc vòng đeo tay bằng vàng thanh mảnh... mùi hoắc hương trộn với khói... bóng tối... và sự vật lộn dữ dội với một thân hình mảnh dẻ, ấm áp mềm mại và có những đường cong thật êm ái.
Anh đã nghĩ cô là người bản xứ, cho tới khi cô rủa anh bằng những lời thật có học và mạnh mẽ kia. Anh mỉm cười giễu cợt. Tính cách chẳng nữ tính gì cũng khuấy động anh nốt. Lướt thoáng trong anh có một sự thôi thúc hoàn toàn điên rồ là quay trở lại, tham gia cùng trận chiến với cô... và chinh phục.
Tuy nhiên, chuyện đó đã là bốn tháng trước. Bây giờ thì? Bây giờ, anh thầm công nhận mà chẳng mảy may giễu cợt rằng, cô đã khiến anh phát điên lên.
* * *
Mặc kệ bà Bullerham, ngày hôm sau cô Cavencourt lại đứng nói chuyện với Philip tại thời điểm và nơi chốn thường lệ.
“Anh nói anh trốn đi làm lính,” cô nhận xét, “Nhưng anh chưa bao giờ kể tại sao mình lại bỏ trốn, hay là hay trốn khỏi cái gì.”
Khi anh lưỡng lự, cái nhìn sốt sắng của cô vụt qua. “Hay là câu hỏi quá riêng tư? Roderick bảo rằng tôi luôn luôn hỏi những câu khó xử, và đó là một lý do mà tôi – Nhưng anh biết đấy, anh ấy là cố vấn pháp luật và không bao giờ muốn kể bất cứ thứ gì cho ai.”
“Là thói quen,” Philip nói. “Những người trong ngành luật phải thận trọng trước các vấn đề của khách hàng, bí mật trở thành một lối sống. Tuy nhiên trường hợp của tôi không có bí mật gì. Tôi bỏ trốn vì cha con tôi không có chung cái nhìn về tương lai của tôi. Ông ấy hậu thuẫn và giáo dục tôi tiếp bước ông thành một thầy giáo. Thậm chí ông còn gửi tôi tới trường công. Ông có vài giấc mơ rằng một ngày kia tôi có thể leo lên những vị trí ngất ngưởng ở trường đại học.”
“Từ những gì tôi thấy về kiến thức của anh, anh Brentick, có thể nói rằng đó là một cái đích hoàn toàn tới được.”
“Cha tôi có những phương pháp không thể sai lầm để đảm bảo sự siêng năng và vâng lời. ‘Tra tấn chẳng hạn. Tra tấn rất hiệu quả,’ ông cứ làm thinh mà thêm vào. Những biện pháp đó được thi hành từ đầu và liên tục để đảm bảo hiệu quả, ngay cả khi tôi đi học xa và không còn chịu sự cai trị độc nhất vô nhị của ông nữa. Tôi đã chú tâm đến việc học hành của mình. Song, đến khi mười tám tuổi, tôi thấy rằng mình không thể vâng lời ông lâu hơn nữa.”
Ba có tính hài hước tai ác, cô thấy đấy. Đó là lý do tại sao quý ngài Felkoner đã cấm tiệt binh nghiệp mà người con trai út của ông mong mỏi nhất. Cũng cùng tính oái oăm như vậy, Tước gia đã chọn Nhà thờ. Cậu Philip không thể chữa nổi nên chờ đợi thêm vài năm dùi mài kinh sử mà anh cực kỳ ghét nữa. Sau đó sẽ là những tháng ngày buồn tẻ bất tận, những công việc vô nghĩa và đạo đức giả cứ chậm rãi từ từ nhỏ giọt, những năm đầy sự khuôn phép tỏn mọn mà chẳng bù đắp nổi cho những hoạt động thể chất sung mãn. Hiển nhiên quý ngài Felkoner đã muốn con trai mình được bao bọc vĩnh viễn, và sống cuộc đời văn phòng lặng lẽ như tờ sẽ rất là dễ chịu, xin cám ơn.
Thấy vẻ cau có của mình phản chiếu trong đôi mắt băn khoăn, Philip nhanh chóng dịu nét mặt. “Không hẳn là không bình thường,” anh nói nhẹ nhàng. “Tuổi trẻ với cái đầu nóng hàng ngày vẫn trốn đi làm lính hay thủy thủ. Tôi đã may mắn. Tôi tới Ấn Độ, và người sĩ quan trẻ tôi phục vụ đã cho tôi tất cả những cuộc thám hiểm và sự kích động mà trái tim non dại của tôi có thể ước thấy.”
“Anh đã may mắn sống sót,” cô ủ rũ nói. “Ấn Độ không phải là nơi có khí hậu tốt nhất cho người châu u. Ngay cả cha mẹ tôi, những người đã ở đó nhiều năm trước cũng không sống nổi trong chuyến đi thứ hai.”
Anh nhớ ra vài điều bà Bullerham đã nói. “Sốt ư?” anh hỏi.
“Tôi ngờ là mẹ tôi đã lâm bệnh trọng trước khi bà kịp lên tàu.” cô đáp. “Tôi nghĩ nước Anh đã-” Cô dừng lại và rồi tiếp tục bằng chất giọng sôi nổi hơn, “Vâng, bệnh sốt đã cướp bà đi trước. Rồi trong tháng sau, cha tôi cũng đi theo.”
“Tôi rất tiếc. Chuyện đó ắt phải rất kinh khủng với cô, đặc biệt là tại một đất nước xa lạ, cách xa bạn bè và người thân của mình.”
“Tôi còn Roderick.” Cô lặng thinh một lát. Khi cô cất tiếng trở lại, chỉ có âm rung nhè nhẹ làm lộ cô. “Liệu anh có sốc quá không, nếu tôi nói với anh đó là một sự giải thoát?”
“Không.”
“Tôi đã được giải thoát,” cô tiếp tục đều đều hơn, “bởi vì tôi không phải lo lắng gì hơn nữa. Tôi không phải tự hỏi mình sẽ làm gì, hay cảm thấy vô vọng bởi vì tôi sẽ không bao giờ tìm thấy câu trả lời. Chẳng có thể làm được điều gì. Cha tôi quay trở lại Ấn Độ bởi ông đã bị phá sản, và cần Roderick chăm sóc chúng tôi. Ba đã bị ngã quỵ, anh thấy đấy, và không thể vực dậy được.”
Hai mắt cô long lanh. Khi Philip nhìn bàn tay mảnh khảnh của cô đưa lên gạt giọt nước mắt, có cái gì đó quặn lại trong anh.
“Đó là ý bà Bullerham định ám chỉ về sự thiếu dạy bảo đúng phép cho tôi,” cô tiếp tục. “Cha mẹ tôi đã bị ngã quỵ. Thực sự là họ không còn sống nữa. Họ giống như một đôi búp bê hay cười được đặt trên giá.”
Đóng vai người hầu thực sự là khó chịu đến phát điên lên được. Đáng ra anh phải ôm cô trong vòng tay và để cô khóc cho dịu nổi đau đi. Anh thực sự ước gì mình có thể lao xuống ca bin của bà Bullerham và bóp cổ bà ta. Câu này nối tiếp câu kia, bà ta cắt và rạch. Thậm chí bà ta còn thăm dò được một vết thương rất cũ nhưng vẫn dễ bị đau. Chúa ơi, cược là bà ta cùng quý ngài Felkoner làm một đôi rất xứng.
“Cô Cavencourt,” Philip dịu dàng nói.
Cô gạt một giọt nước mắt nữa và nhìn anh.
“Chúng ta có nên làm một kiến nghị không nhỉ?” anh hỏi. “Để cho bà Bullerham xuống hầm tàu ấy? Đó được coi là một liệu pháp chữa trị không thể nào hơn cho những lời phàn nàn về chứng tiêu hóa.”
Một nụ cười sũng nước tưởng thưởng anh.
“Ước gì nét mặt anh không giàu cảm thông đến thế,” cô nói. “Tôi không phải là một cái bình tưới nước, tôi hiếm khi khóc trừ phi nổi cơn tức giận cực kỳ.”
“Tôi nghĩ cô đã nổi cơn tức giận. Cô có quyền mà. Đó không phải là một âm tiết mà người đàn bà ấy lỡ thốt ra mà nó chủ tính để gây thương tích, đầy độc ác. Bà ta xứng đáng với lá gan như vậy. Tôi hi vọng bà ấy nghẹn thở vì nó.”
“Thật không rộng lượng chút nào.”
“Tôi không phải là một người đàn ông rộng lượng. Hơn nữa, tôi nhận ra-[12], tôi cũng gặp quá đủ ở Ấn Độ rồi, người bản địa và những người khác.” Quá nóng vội. Anh lại để lỡ lời. Philip sửa lại. “Chúng ta không nên bàn tán về những chủ đề buồn chán đó nữa. Cô đã hứa giúp tôi xếp loại một số vị thần lớn của người Hin đu. Hãy chăm chú vào các thần linh, phải không, và chuyển giao bà Bullerham của thế giới này cho-”
“Chốn tăm tối,” cô nhanh chóng bổ sung. Và rồi, với sự nhẹ nhõm của anh, cô phá lên cười.