Lúc đến nơi thì trời đã quá trưa, nắng như đổ lửa dội xuống đỉnh đầu, nhìn từ phía bờ sông nơi dừng ngựa chỉ thấy cột khói nghi ngút khuất sau núi Tràng Kênh, có lẽ là đang cháy dữ dội.
Tôi và Trần Khâm ngự trên đoàn thuyền chiến mạnh nhất của cha tôi lúc này mới lao vào trận chiến, không thể nói rõ là may mắn hay quá may mắn, tôi lại được tận mắt nhìn thấy trận chiến mang tầm cỡ vĩ đại thế này.
Nước sông Bạch Đằng đục ngầu, khắp mặt sông như trở thành một biển lửa.
Có những chiếc tàu chiến nghiêng ngả hơn một nửa nằm ngập trong nước, dưới mặt sông nhắm chừng cũng không ít tàu chìm, không thể đếm rõ rốt cục có bao nhiêu người đã rơi xuống nước bỏ mạng.
Tên lửa vẫn ùn ùn bắn qua liên tục, bao vây thuyền địch không một kẻ hở, thuyền lớn lại không cách nào di chuyển được trong bãi cọc giống như những con cá kình nằm phơi thây trên biển bất lực chịu chết.
Cột buồm phần lớn bị cháy, bị tên bắn rách, bị đao kiếm chặt phăng.
Dưới sông quân ta cũng theo thuyền nhỏ luồn lách trèo lên đánh giết đốt phá, mà bãi cọc giống như càng lúc càng nhô cao, khiến cho không ít thuyền to tiếp tục lật úp.
Quân Thát càng lúng túng nước sông lại càng thêm đỏ ngầu, tôi mơ hồ có thể nghe được tiếng quát nạt của tướng địch.
Tôi không hiểu bọn chúng nói gì, có thể là trấn an, cũng có thể là đe dọa, nhưng chỉ có mấy người bọn tôi biết được là bọn chúng sẽ chẳng có ai tiếp viện nữa, càng lúc càng đi tới kết cục không thể quay đầu.
Thoát Hoan, anh ta đã thật sự bỏ rơi bọn họ rồi.
Lòng bàn tay tôi lạnh toát.
Bên dưới khi binh lính thấy đoàn chiến thuyền hùng mạnh của cha tôi xuất hiện giống như càng đánh càng hăng, càng thêm phấn chấn, liên tục hô to Quan gia, Quốc công, Thượng hoàng, lại gằn từng tiếng hô Sát Thát rồi dũng mãnh chém giết, tên lửa cùng lúc bắn vào như mưa.
Chỉ cần có kẻ nào dám phá vòng vây, ngay tức khắc giống như rơi vào cửa tử.
Nghe nói trước khi bọn tôi đến một vài cánh quân đã bỏ chạy lên bờ sông hòng tìm đường trốn thoát, nhưng tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, toàn bộ xung quanh đây cơ hồ đã giống như mạng nhện, đâu đâu cũng là bẫy rập được giăng ra.
Trận chiến này khiến tôi tưởng như là mình đang nắm quyền sinh sát trước ngàn vạn sinh linh bên dưới.
Cùng một biểu cảm với tôi, Trần Khâm cũng chỉ mặc giáp đứng khoanh tay nhìn sắc trời dần tàn.
Tôi bỗng dưng nhớ tới ngày đó anh ta đang ngồi trong hồ Thuỷ Tinh câu cá, lúc nhìn thấy lũ cá đang đớp khí trong chậu ánh mắt anh ta cũng giống như thế này.
Tựa hồ không muốn, nhưng lại không thể chống lại quy luật của tự nhiên.
Lúc này Trần Khâm ra hiệu cho một binh lính dâng lên cung tên, giống như ngày thường chỉ tay tôi cười bảo đằng kia có một khóm hoa cúc đẹp, hay trời hôm nay phá lệ trong xanh, anh ta bình thản nói:
"Em nhìn xem người đó có phải là tên tướng đã phá lăng tẩm họ ta hay không?"
Tôi nheo mắt nhìn, xa đến mức chỉ thấy thấp thoáng dáng người to lớn quá cỡ của gã, nhưng chỉ cần như vậy cũng đủ để xác định kẻ đó chính là Ô Mã Nhi.
Trong suốt quãng thời gian chinh chiến nói thực thì tôi cũng chưa hề cận mặt đối chiến với gã gần nào, nhưng về sự hung hăng gian ác thì nghe đến mức đầy tai.
Thấy tôi gật đầu, Trần Khâm lại vừa nói vừa kéo căng dây cung, làm động tác nhắm bắn:
"Kẻ này không những thuộc giới quý tộc, lại còn anh dũng thiện chiến, gan dạ và thao lược, nếu như không "vì nước quên mình" trong trận chiến này thì sợ là phải trả y về nước để đẹp tình bang giao, tránh khỏi nạn đổ máu."
Trần Khâm đứng thẳng làm động tác nhắm bắn, một vài sợi tóc mai bên thái dương nhẹ bay, ánh mắt sắc bén của anh ta nhìn thẳng vào họ Ô vừa toát ra sự bình tĩnh lại giống như căm hận thấu xương.
Mày Trần Khâm khẽ chau lại, sau đó tôi nghe một tiếng rít kéo dài, mũi tên xé gió lao về phía thuyền địch.
Ô Mã Nhi trúng tên nhưng chỉ ngả lăn ra thuyền, ấy vậy mà lại khiến cho một tên tướng khác vô tôi vạ mất đà rơi tõm xuống nước.
Sau đó thì thấy Trần Quốc Toản đã sai người dùng câu liêm móc lên trói lại, từ phía xa như thế tôi cũng có thể cảm thấy cậu ta đang nhếch môi đắc ý, sảng khoái mà cười to.
Với tốc độ này nếu như là trúng phải da thịt thông thường cũng phải xuyên qua một nửa mũi tên, nếu như là trúng phải giáp sắt vậy thì chí ít cũng phải xuyên qua giáp cắm sâu vào bên trong da thịt.
Một mũi tên làm cho kẻ như tôi phải mở mang tầm mắt, có cảm giác trước giờ mình chỉ là người múa rìu qua mắt thợ.
Trần Khâm đưa cung cho binh lính đang đứng hầu, lại nhẹ giọng giải thích với tôi:
"Cái thứ tên độc này chẳng phải tốt lành gì, ngày trước em có nghe qua chuyện Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để tránh mưa tên hay không?"
Sống lưng tôi ớn lạnh một trận, lắp bắp nói:
"Vậy..
vậy tại sao trước giờ không thấy chàng dùng?"
Trần Khâm vuốt cái cằm trơn láng, cười cười:
"Loại độc này tuy ghê gớm nhưng lại không chết ngay, dùng trực tiếp rất là phí phạm.
Với cả đồ tốt thường không có nhiều!"
Lúc này tôi bỗng nhiên có một chút đồng cảm với Thoát Hoan.
Rốt cuộc đến giờ Dậu thì toàn bộ tướng giặc bị bắt, hơn bốn trăm thuyền chiến về tay, địch chết mấy vạn không rõ chỉ biết còn lại không tới hai vạn bị bắt làm tù binh.
Thượng hoàng sai đem họ Ô lên thuyền rót cho gã một chén rượu ấm, bây giờ tôi mới nhìn rõ được dung mạo hung ác của gã ta, chỉ thầm mắng một câu "tâm sinh tướng".
Cho dù là đang bị mũi tên đâm qua bả vai, máu tuôn ròng ròng, Ô Mã Nhi vẫn giãy giụa chửi bới luôn miệng.
Thượng hoàng bình thản không nói gì, tiếp tục để hắn ở trước mặt mình làm trò.
Sau khi thắng lợi ở sông Bạch Đằng cũng vừa nghe tin Thoát Hoan đã thu dọn binh mã rời khỏi biên giới Đại Việt.
Về việc này sau đó tôi có nghe Trần Nhật Duật kể lại rằng bọn chúng đã chật vật như thế nào, binh lính thì đói ăn lâu ngày còn phải lao vào nhau mà đánh bừa đánh đại, bị thương cũng phải buộc vết thương lại mà đánh, thậm chí tên tướng giặc bị trúng ba mũi tên độc khiến đầu cổ sưng vù không rõ sống chết.
Mạc Đĩnh Chi lại thở dài:
"Tuy là bọn chúng lâm vào mỏi mệt nhưng số lượng lại hơn quân ta rất nhiều, cũng may nhờ thầy sáu bày phản gián kế.
Bọn chúng bị gián điệp ta mua chuộc như người đi trong sương, lờ mờ cứ tưởng quân ta còn đông đảo, nào đâu biết thật ra thì phần lớn đều đi theo Quốc công rồi.
Bọn Thát kia sợ đông sợ tây trối chết rút về, bị tấn công cũng không dám đánh trả."
Tôi liếc cái người bày kế đằng kia, cảm thấy vẻ mặt anh ta còn mờ mịt hơn đám người đi trong sương từ miệng Mạc Đĩnh Chi thốt ra bèn tò mò hỏi:
"Nhưng ban đầu không phải thầy em gặp bất lợi lớn sao, làm sao lại đổi nguy thành an thế?"
Ánh mắt Mạc Đĩnh Chi liền nổi lên hứng thú, sáng quắc như con cú hoạt động về đêm:
"Chuyện này phải kể đến.."
Vừa nói đến đó, ánh mắt mơ màng của Trần Nhật Duật ngay lập tức bắn qua, Mạc Đĩnh Chi giật thót cả người, lại ấp úng cười qua loa:
"Chuyện này thật ra rất dài, hôm nào rảnh rỗi em lại kể tiếp!"
Nói xong thì như con sóc chạy mất, tôi ngồi đối diện với không khí tĩnh mịch buồn chán xung quanh Trần Nhật Duật cũng chịu không nổi rời khỏi, lúc trở về mới nhớ ra hình như là mình đang đi bắt cá.
Phen này phải mách lẻo với Trần Khâm rằng chú của anh ta đã ăn trắng mặc trơn lại còn hay giở trò trộm vặt.
À còn chuyện hay ho của chú ta trong miệng Mạc Đĩnh Chi thì tôi vẫn còn chưa bỏ qua đâu.
Sau khi khải hoàn trở về, việc đầu tiên tôi có thể nghĩ đến chính là quay trở lại chiến trường trước đó để đưa An Tư và Trần Thông an táng đàng hoàng.
Tôi từng nghe qua tích xưa về hai người yêu nhau nhưng không đến được với nhau, rốt cuộc khi chết biến thành đôi cành trúc, đôi chim quấn quýt bên nhau, đêm đêm lại vang lên tiếng kêu "khắc" "khoải", nguyện sống làm chim liền cánh, chết làm cây liền cành.
Cho dù An Tư và Trần Thông khi còn sống phải chịu cảnh ly tán, nhưng đến lúc chết đi họ đã được quay trở về bên nhau.
Tôi trộm nghĩ, không biết ngày đó hai người bọn họ có giống như truyền thuyết về họ Chúc và họ Lương thời Đông Tấn ở phương Bắc mà tôi hay đọc, cùng xuống nấm mồ rồi hóa thành đôi bướm bay lượn hay không.
Suy nghĩ lạc quan nhưng đến lúc đưa xác họ lên thấy cả hai vẫn nắm chặt tay nhau không rời, tôi cuối cùng cũng không nén được cảm xúc, chỉ biết chúc đầu vào ngực Trần Khâm khóc ướt một mảng áo bào.
Khóc thỏa thích một trận, lúc bình tĩnh lại chỉ cảm thấy trong đầu là một khoảng trống trải..