Đỏ mắt trông ngóng suốt nửa tháng quả nhiên cái câu mà chị Trinh nói đã có hiệu nghiệm.
Không có tin tức thì thôi, vừa mới truyền tin tức đầu tiên về đã nghe được tin Trần Nhật Duật thất bại ở ải Mộc Ngột, lực lượng tương đương nhau nhưng binh mã của chúng lại tinh nhuệ hơn.
Lúc này mới phát hiện ra kẻ cầm đầu lại là một vị vương tử tên là A Thai, là một kẻ trẻ tuổi có tài năng thiên bẩm.
Đội quân của anh ta là những kẻ được đích thân anh ta huấn luyện, một người có thể địch được với năm mười người.
Mặc dù Trần Nhật Duật thành công lui về ải Phú Lương, nhưng hai tướng dưới trướng anh ta vì chặn hậu mà bị bọn Thát bắt được, hiện tại chỉ sợ lành ít dữ nhiều.
Tuy bước đầu có thất bại nhưng tầm một tuần sau truyền về tin cánh quân của chúng ở Chi Lăng tiến xuống Bắc Giang bị Cấm quân của Hưng Đức Hầu thuỷ bộ mai phục, dùng tên độc bắn chết rất nhiều người, lại phải lui về Chi Lăng trở lại để đợi hợp quân với Thoát Hoan.
Cha tôi đóng quân ở Vạn Kiếp vừa bày trận lớn lại vừa thủ sẵn đường lui, cốt yếu không cho hai cánh quân đó họp mặt với nhau.
Nhưng rốt cục vài ngày sau bọn chúng đã hội được quân, giống như vô cùng điềm tĩnh chờ đợi thuỷ quân của Ô Mã Nhi vượt sông Bạch Đằng tiến vào, chẳng hề tỏ vẻ gấp gáp tiến vào chiếm kinh thành như trước nữa.
Có lẽ từ thất bại của việc đánh nhanh thắng nhanh lần trước mà Thoát Hoan đã trở nên thận trọng hơn, anh ta trải lực lượng của mình ra thám thính rồi lại từng bước chậm rãi chờ đợi đến khi thời cơ chín muồi, sau đó sẽ há mồm ngoạm một cái thật lớn để chắc chắn tỉ lệ thành công là tuyệt đối.
Đêm nay con nhóc Huyền Trân cứ ê a mở mắt mãi không chịu ngủ, tôi dỗ nó mãi đâm ra nổi nóng nên tỉnh táo hẳn, lại bắt đầu nhìn lên xà nhà nghĩ ngợi.
Đến lúc này thì kẻ ở kinh đô mù mờ như tôi cũng hiểu rõ mấu chốt rõ ràng đang nằm ở chỗ liệu thuỷ quân của Trần Khánh Dư có thắng lợi giữ chân đại quân của Ô Mã Nhi hay không, đội quân này khả năng rất cao là chở một lượng lớn quân lương để tiếp tế cho quân bộ.
Nếu như chiến thắng thì gần như đã giành thắng lợi một nửa, còn nếu như thua thì tình thế của cha tôi ở Vạn Kiếp lại càng thêm chật vật, khả năng cao kinh thành phải tiến hành sơ tán.
Đang mông lung suy tính, phía cửa sổ bỗng nhiên vang lên tiếng sột soạt.
Cả người tôi vốn nhạy cảm ngay lập tức liền cảm thấy căng thẳng, tay với lấy cây đao ngắn ở phía đầu giường, cẩn thận rút nhẹ nhàng ra khỏi vỏ.
Ánh đao vừa loáng, tôi đã nhanh như cắt từ phía đầu giường phóng hai cái tới bên cửa sổ đá tung cánh cửa lao ra ngoài, bất thình lình đè người nọ xuống dưới đất khiến cho đối phương không có nổi một giây để phản ứng.
Lúc này tôi phải thầm khen chính mình vừa mới sinh xong ba tháng đã hồi phục được sự nhanh nhẹn dẻo dai, vẫn còn chưa hết ngày ở cữ đã minh mẫn phát hiện ra có điều gian trá.
Hoá ra vì vậy mà con nhóc nhà tôi đến giờ vẫn không chịu ngủ, có lẽ chính nó cũng cảm thấy bất thường.
Giờ mới phát hiện ra bên dưới là một người đàn ông vừa ngoài ba mươi, trên mặt vẫn còn bùn đất và máu quện lại thành vệt, khiến tôi nhất thời không thể nhận ra được ngũ quan.
Có điều bộ quần áo trên người lại vô cùng quen mắt, đấy không phải là người của Hoài Văn Quân chứ còn ai?
Có vẻ như lần đầu tiên thấy tôi trong bộ dáng này nên anh ta có chút thất thần.
Bây giờ tôi mới để ý tới bản thân đang mặc một bộ trung y màu trắng, đai lưng cột hờ, mái tóc dài quá thắt lưng tuỳ ý xoã tung như muốn quết đất.
Có điều thanh đao đặt trên cổ của anh ta cũng không phải vật trang trí, người đó thoáng ngẩn người xong lại bắt đầu tỏ ra kinh sợ.
Tôi chỉ vừa chau mày, anh ta đã nhỏ giọng lắp bắp:
"Tướng quân..không..phu nhân, xin người hãy cứu Hoài Văn quân!"
Giọng điệu anh ta vừa thành khẩn vừa run rẩy.
Tôi lạnh toát cả sống lưng, lúc này mới nhớ ra vội từ trên người anh ta đứng dậy.
Trông kỹ thì quả nhiên người này chính là Tô Thức.
Tôi đứng thẳng lưng nhìn xuống anh ta.
Bóng trăng trên đỉnh đầu soi xuống rõ bộ dạng mệt mỏi, trên người cũng không ít vết máu đã khô lại chẳng biết là của địch hay của anh ta.
Nhưng nhìn những vết đao kiếm chém rách quần áo, có vẻ anh ta cũng không phải hoàn toàn lành lặn, đúng kiểu vừa bước ra khỏi chiến trường.
Thấy tôi đã bình tĩnh lại Tô Thức vội quỳ lên, chắp tay kính cẩn thưa:
"Trong Hoài Văn quân có nội gián, vốn dĩ lúc ở cửa Ngọc Sơn chỉ tiên phong đánh chặn để nắm tình hình, ai ngờ trong lúc ấy có vài kẻ đã lẻn sang thuyền địch rồi đánh tới cứ điểm của Nhân Huệ Vương ở Vân Đồn.
Thuỷ binh ở Vân Đồn bị đánh ở chỗ hiểm rất nhanh liền thất bại, quân ta chết nhiều, Nhân Huệ Vương phải ra lệnh rút lui.
Cũng may Nhân Huệ vương nhanh chân, bọn chúng cũng không đuổi giết mà chỉ đi thẳng sông Bạch Đằng trở vào Vạn Kiếp!"
"Có gì mà may?" – Tôi quát.
Bên dưới bỗng im bặt.
Tôi khẽ hít sâu một hơi, nếu như bọn chúng trở vào Vạn Kiếp thì chắc hẳn cha tôi sắp phải gặp khó khăn chất chồng.
Nhưng nếu như hôm nay mà chúng không trở vào Vạn Kiếp thì kẻ gặp hiểm cảnh lại là vua tôi Trần Khâm ở Vân Đồn.
Thật nực cười, Hoài Văn Quân ấy vậy mà lại có nội gián.
Tôi nghĩ xong thì cố gắng lấy lại bình tĩnh, lại hỏi:
"Vậy tại sao các người lại biết là do nội gián?"
Tô Thức vội tâu:
"Lúc lui quân Hoài Văn hầu đã phát hiện ra có vài kẻ mặc quân phục của Hoài Văn quân ở trên thuyền giặc, nhưng bọn chúng lại rất lạ mặt, đáng tiếc mấy người bọn tôi từ đầu tới cuối vẫn không nhận ra."
Trần Quốc Toản, nếu như là Trần Quốc Toản nói, thì chín phần là thật rồi.
"Toàn bộ Hoài Văn quân đều bị trói lại chờ chém, nếu không phải do Hoài Văn hầu khẩn xin quan gia nương tay để đợi tra rõ thì bọn chúng tôi đã bị chém lâu rồi.
Hoài Văn hầu nói vốn dĩ là không có biện pháp để thanh minh, lần này là vì biết quan gia sẽ niệm tình Hoài Văn quân có công lao nên khoan dung cho thêm thời gian, thật ra không phải là cách.
Mong phu nhân niệm tình chúng tôi một lòng vì nước mà ban ơn, Hoài Văn quân không bao giờ dám hai lòng."
Đúng là Hoài Văn quân không có hai lòng, nhưng sự sơ suất vốn là thứ không thể nào để xảy ra trong hoàn cảnh này được.
Phạm vào quân pháp, ngoài lấy cái chết ra để tạ tội thì thật sự không còn giải pháp nào khác.
Tuy biết là vậy, chính bản thân tôi lại không hề cam lòng, Hoài Văn quân đã từng dùng một ngàn quân ít ỏi chiến thắng hết trận này tới trận khác.
Đây là những người đã từng lăn lộn trên chiến trường, vào sinh ra tử cùng với tôi, và được tôi từng bước huấn luyện thành một đội quân sắc nhọn sẵn sàng vung gươm vào kẻ thù.
Tôi quay gót, phía sau lại vang lên tiếng người kia khẩn thiết:
"Đây là nửa miếng quân lệnh mà Hoài Văn hầu trả lại cho người, mong người suy nghĩ lại."
Miếng gỗ khảm chữ vàng loé lên phía sau lưng tôi, tôi bỗng nhớ ngày trước chính Trần Quốc Toản đã vung kiếm chém đôi thứ này rồi trao cho tôi một nửa, đã từng rất nhiều lần trong hiểm cảnh tôi nắm chặt lấy nó làm động lực.
Sau khi cuộc chiến năm đó kết thúc tôi cũng trả lại cho cậu ta.
Tôi bất giác nhìn vào trong phòng thấy Huyền Trân vẫn nằm huơ tay múa chân loạn xạ mãi mà vẫn không khóc, đáy lòng bỗng chốc nặng nề.
Tôi thở dài một hơi, xoay người cầm lấy nửa miếng quân lệnh.
Ánh mắt của Tô Thức loé lên vui mừng, tôi trầm giọng:
"Một lần này thôi, khi cuộc chiến kết thúc các người chỉ có một chủ tướng là Hoài Văn hầu!"
Không biết kịp không nhưng tôi hy vọng là mình có thể làm được.
Tôi trở vào nhà trao lại hai đứa trẻ cho Thuỵ Hương, dặn dò sau khi tôi đi khỏi hãy giao chúng cho chị Trinh chăm sóc.
Thuỵ Hương bèn khóc thút thít, tôi lại cười bảo mình vốn có số vất vả.
Tôi vốn ngây thơ nghĩ rằng Trần Quốc Toản đã là kẻ truyền tin về sớm nhất, ai ngờ vừa mới bước ra khỏi cửa đã bị cảnh tượng trước mắt làm cho giật mình.
Xung quanh cửa cung đèn đuốc sáng choang, lính tráng gươm áo chỉnh tề đứng hàng hàng lớp lớp giống như biết trước ý định của tôi vậy.
Mấy người này tôi chẳng hề xa lạ, đây là cấm vệ quân bảo vệ an ninh của Cấm thành, người nào người nấy đều sức lực to lớn, hễ nhận nhiệm vụ gì là liều chết không thôi.
Tôi một mạch bước vào trong, lại ôm Huyền Trân từ trên tay Thuỵ Hương bước ra, tức thì Cấm vệ quân như tường đồng vách sắt cũng nhìn nhau nao núng chẳng biết tôi muốn làm gì.
Tôi bước ra cửa quỳ xuống, tay nâng Huyền Trân lên cao, lớn giọng khẩn khoản:
"Mong hoàng hậu thương xót, cưu mang đứa bé này!"
Lặp lại hai ba lần thì dập đầu một cái, Thuỵ Hương lúc này hồn vía lên mây, cũng khóc lóc quỳ xuống bên cạnh tôi với tay định đón lấy đứa nhỏ.
Tôi lại làm như không thấy, vẫn tiếp tục vừa nói vừa dập đầu, lát sau thằng bé Quốc Chẩn cũng hay tin chạy tới quỳ xuống bên cạnh tôi khóc lóc không thua kém gì Thuỵ Hương.
Áng chừng hai khắc phía xa bỗng có ánh đèn tới gần, binh lính tự động dạt ra hai bên, từ đằng trước bước tới là một đoàn xa giá.
Tôi cúi đầu, thấy trước mặt mình là đôi mũi hài thêu rồng bốn móng, dù đã đoán trước được nhưng vẫn không nén nổi run rẩy.
Bên trên đỉnh đầu vang lên tiếng thở dài:
"Ta cứ tưởng mình đã nhanh lắm rồi, ai ngờ vẫn là chậm một bước.
Đứng dậy đi, trẻ con không có tội, sao phải bắt nó chịu khổ vì mình?"
Tôi ngẩng đầu, nước mắt lưng tròng.
Đây đúng là Thượng hoàng từ Thiên Trường trở về, bên cạnh lại còn gương mặt cười cười gợi đòn của Trần Thì Kiến, hoá ra là do anh ta hộ tống Thượng hoàng về kinh.
Chị Trinh bước đến bên cạnh đỡ lấy tôi, thật ra tôi biết ngay từ đầu đây là lệnh của Thượng hoàng nhưng chị Trinh vốn dĩ mềm yếu thấy tôi chịu khổ há không nói giúp tôi một hai câu.
Quả nhiên chị ta đã đưa Thượng hoàng tới đây.
Còn Trần Thì Kiến và Thượng hoàng trở về, nhắm chừng là phía chiến trường tình thế không ổn chuẩn bị di tản dân chúng rời khỏi kinh đô.
Người trước mặt không giận mà uy khiến tôi không dám ngẩng đầu, chỉ cúi mặt bất đắc dĩ nói:
"Bẩm Thượng hoàng, Hoài Văn quân là vô tội."
"Bao nhiêu người đã chết vì chúng, chẳng lẽ con còn không thấy sao?"
"Mong người niệm tình Hoài Văn quân công nhiều hơn tội mà cho con một cơ hội.
Nếu như con tới kịp lúc, con dám dùng tính mạng đảm bảo đưa họ lập chiến công cho quân ta!"
Thượng hoàng nhẹ giọng nói:
"Tính mạng của con bây giờ cũng không phải của một mình con nữa!"
Trong lòng tôi thất vọng tràn trề, bỗng nhiên Thượng hoàng lại phất tay:
"Thôi đi kẻo không kịp!"
Tôi vừa mừng vừa sợ nhìn chị Trinh, chị ta đón lấy con bé Huyền Trân mỉm cười với tôi.
Lúc này binh lính hai bên cũng nghe lệnh rời khỏi, chỉ còn lại một toán quân nho nhỏ khoảng chục người hộ tống tôi.
Tôi cảm động quỳ xuống tạ ơn, sau đó đợi tất cả đều rời khỏi cung Quân Hoa thì trầm ngâm ngoảnh lại nhìn tất cả, cuối cùng leo lên con ngựa chiến quen thuộc của mình đã được chuẩn bị sẵn cùng với người lính của Hoài Văn quân ngược gió lên đường.
Tháng Mười Hai, hoa đào hai bên sườn đồi đã bắt đầu hé nụ, chúng tôi đi từ lúc giữa đêm đến khi mặt trời vừa ló dạng soi rõ cảnh sắc của mùa xuân thì cũng vừa tới nơi.
Từ trên sườn đồi cao xa xa trông xuống đã thấy những chiến thuyền to lớn hùng vĩ đậu san sát, lại nhìn rõ hơn quả nhiên thấy Hoài Văn Quân đang quỳ trước một người mặc giáp minh quang sáng choang.
Trong lòng tôi lạnh lẽo, đó không phải là Trần Khâm thì còn ai.
Tô Thức thúc ngựa đuổi kịp tôi, lớn giọng nói:
"Ngày hôm qua vẫn còn bận rộn lui quân nên chưa thể tra xét rõ ràng, Hoài Văn Hầu biết rõ lợi hại nên mới ngay lập tức sai tôi đi tìm phu nhân, quả nhiên sáng nay Hoài Văn quân đã bị đưa ra xử trí!"
Tôi lạnh mặt:
"Nói vậy việc Hoài Văn quân bị định tội và bao giờ xét xử chỉ là do Trần Quốc Toản suy đoán thôi ư? Nói gì mà xin với xỏ, e là chính cậu ta cũng không có khả năng đó đâu.
Phiền phức!"
Tô Thức hiểu ý của tôi, hổ thẹn đáp:
"Tuy chỉ là suy đoán nhưng thật sự đã xảy ra, Hoài Văn hầu đã đúng, mà chúng ta cũng vừa kịp!"
Tôi không thèm trả lời anh ta, vô thức thúc ngựa nhanh hơn một chút.
Trần Quốc Toản này ấy vậy mà lại giở trò này với tôi, tính mạng của Hoài Văn quân vốn dĩ chỉ như chỉ mành treo chuông, dù tôi thật sự đi cầu xin giúp thì khả năng thành công chỉ có một phần trong mười phần, cậu ta đúng là thà để tôi chịu khổ và khó xử cũng không thể bỏ mặt Hoài Văn quân được..