Ngôi Làng Cổ Mộ FULL


“Nhịn ăn đến chết???” Tôi choáng váng.
“Đúng…nghe nói là như vậy.

Họ sẽ tắm rửa sạch sẽ, ăn một bữa cuối cùng thật ngon rồi sau đó sẽ ngừng ăn, ngồi hoặc nằm im cho tới khi qua đời..Họ quan niệm rằng như thế sẽ thoát khỏi những ham muốn trần tục, gột rửa thân thể, sẵn sàng nhập cõi niết bàn…”
“Vậy thì…họ an nghỉ ở đây?” Tôi hỏi tiếp.
“Đúng, nghe nói ở dưới ngôi làng còn có một hầm bộ được xây để bảo quản thi thể của những người nhập tục Santhara…Sau khi tục này dần lan rộng ra mọi người xung quanh thì chính quyền địa phương đã cố gắng can thiệp vào, chủ yếu là để chiếm đất.

Lúc đó ông sư thầy người Ấn Độ đã hoàn thành tục lệ này, được bảo quản ướp khô và đặt thờ trong căn hầm mộ đó.

Thế nhưng khi chính quyền phát hiện ra, họ yêu cầu hỏa táng tất cả những người từng hoàn thành tục lệ này để không ai biết được nó nữa….Thế rồi, họ nhặt được một viên xá lị sau khi hỏa táng, cháu ạ…”
“Vậy là còn một viên xá lị.

Vậy thì nó do ai bảo quản ạ?”
“Hừm… người dân xin về để ở trong hầm mộ ấy.

Lúc khai quật hầm mộ đó, các chủ đầu tư định mang viên xá lị về ngôi chùa nào đó để bảo quản rồi phá hầm mộ đi xây khu vui chơi,..thế nhưng…”
“Thế nhưng sao ạ?” Tôi sốt ruột hỏi.
“Thế nhưng không ai lại gần được viên xá lị đó, gần như đều bị bật ra.

Đội công nhân được giao nhiệm vụ khai quật và phá bỏ hầm mộ đó đều gặp tai nạn hoặc xui xẻo sau này, bị thương ngay trên công trường…Thế nên không có một ai dám làm nữa.

Có những người còn nói họ nhìn thấy rất nhiều người ở trong hầm mộ đó.

Có người lại nói có những giọng nói hằn học bên tai, bóng ma của một con người giận dữ hù dọa họ,..Chủ đầu tư xét hầm mộ đó không ảnh hưởng quá nhiều tới nền móng của ngôi làng nên quyết định không xây phá nó nữa, chỉ ngụy trang lối vào thôi…”
“Lối vào đó ở đâu ạ?”
“Có một cái giếng giả…được xây ở sau ngọn núi của ngôi làng này.

Giếng đó là giếng cạn, chính là lối vào của khu hầm mộ.

Dưới lòng đất của ngôi làng này có một mạch nước ngầm, thế nên họ mới đặt tên là làng Thổ Hà…tức là trong đất có nước đó.”
Tôi gật gật đầu.

Có vẻ như lời nguyền của ngôi làng này là do những tên chủ đầu tư khôn khéo, giảo hoạt, bất chấp mọi thứ để kiếm lời gây ra.

Họ đã xúc phạm đến sự an nghỉ của những vị thiền sư đang khát khao tìm tới sự siêu thoát tuyệt đối.

Con đường tới nơi họ cần đã bị cắt đứt khiến họ oán giận khôn nguôi, phải tìm cách đòi lại công bằng.

Điều tôi cần làm lúc này là đưa họ tới nơi họ cần…
Tôi rời khỏi nhà ông trưởng làng ngay sau đó.

Chúng tôi lại tìm đường ra khỏi ngôi làng kinh khủng này.

Sương mù vẫn quây quanh chúng tôi kín đặc.

Tôi vẫn nhìn đường qua ánh đèn lập lòe trong ngọn đèn bão, tay trái nắm chặt cái Mai mà dẫn đi.

Khi gần ra khỏi ngôi làng, tôi nhìn thấy một bóng đen ở khúc quanh phía trước.

Mùi tử khí lại bắt đầu bốc lên tanh tưởi.

Quả thực ở trong ngôi làng này có quá nhiều điểu hiểm ác.

Lối đi ra khỏi làng duy nhất đã bị chặn bởi bóng đen đó.
Không còn cách nào khác tôi đành bước từng bước một đến khúc quanh đó, đối mặt với bóng hình đó.

Chìm sâu trong chiếc mũ choàng rách rưới là một khuôn mặt mờ ảo trong sương.

Tôi quay sang dặn Mai: “Con quay sang chỗ khác đi, cái này để sư phụ giải quyết.” Nghe thấy tôi nói thế, Mai bèn lùi lại, không dám trái lời…
Bóng ma đó hỏi khẽ: “Cô có biết đường về nhà không?”
Thứ này là thứ gì?
Tôi lại lấy thứ bột đỏ ra bôi lên mắt rồi từ từ nhìn về phía người đàn ông đó.

Bên trong vẻ ngoài rách rưới đó là một linh hồn khô héo đói rách đang cuộn mình sâu lại dưới lớp vỏ.


Một con mắt nhễu máu đục ngầu vươn ra từ hốc mắt của hồn ma đó đang chạy loạn lên bên ngoài lớp da thịt
Tôi cảm thấy lợm giọng.
Hồn ma đó vươn cánh tay thối rữa ra tìm về phía tôi, con mắt kia vẫn chạy đảo điên lên.

Tôi nhắm mắt, hít một hơi thật sâu, rồi khẽ đáp:
“Có.”
Bất chợt bóng ma đó tan ra.

Một lực ép thật mạnh phía sau lưng và vai tôi khiến tôi lảo đảo.

Sống lưng tôi lanh toát.

Có thứ gì đó vừa chuyển sang phía tôi…Bất chợt nước mắt tôi tuôn xuống không ngừng được.

Tiếng khóc nức nở vang lên từ trong lồng ngực thảm thiết.
Cái Mai hé mắt nhìn tôi rồi cầm lấy cánh tay tôi khẽ lay: “Sao tự nhiên sư phụ lại khóc ạ?”
Tôi chỉ nức nở lên từng cơn không dứt.

Tôi cố nén cơn thổn thức rồi lẩm nhẩm đọc chú đồng thời hứa hẹn: ” Xong việc tôi sẽ giúp đỡ anh về nhà!”
Sau khi nói thế cơn xót xa đang dâng lên trong ngực tôi mới tạm dừng lại.

Tôi hít sâu để lấy lại hơi.

Tại sao hồn ma này lại có một nỗi buồn sâu thẳm tới vậy?’
Mai mở to mắt nhìn tôi, bất chợt nó rúm vào: “Sư phụ,…người đàn ông này là…sao có người đàn ông đứng sau lưng sư phụ vậy?”
Tôi cũng cảm thấy tóc gáy dựng hết cả lên, nhưng tôi vẫn cố mỉm cười trấn an Mai: “Người ta cần giúp, người ta mới theo mình.

Đi thôi con…”
Thế là chúng tôi kết thúc chuyến đi thăm làng Thổ Hà đầy kỳ quái.
Sáng hôm sau, tôi điện lại cho Hoài rồi hẹn cô bé tới găp bệnh viện ở nơi em gái Hoài nằm.

Sau khi ăn sáng gần nhà nghỉ xong xuôi, hai thầy trò lóc cóc bắt taxi lên bệnh viện theo địa chỉ.
Tôi lên phòng, thấy có mỗi Hoài đang ngồi ở đó.

Khổ thân con bé quá.

Bố thì vừa mất, em gái lại như vậy, tất cả mọi chuyện dồn hết lên cô bé, mẹ còn bận đi kiếm tiền.
Tôi lại gần hỏi thăm và an ủi cô bé, có mang theo chút đồ ăn, đồ dùng sinh hoạt.
Cô bé xinh xắn có mái tóc hơi cháy màu nâu, đôi mắt đượm buồn nói cảm ơn tôi.
Tôi lại gần bắt mạch cô bé con nằm im lìm trên giường.

Chân nó đã lạnh ngắt, da trắng bệch.

Không ổn rồi, đây là dấu hiệu của những người sắp ra đi, dữ nhiều phần, tiên lượng xấu.
“Cô cần tìm xem nguyên nhân ở đâu, nhưng nếu là do em gái cháu đã từng sống ở ngôi làng kia thì…dễ là…”
Tôi bảo Mai và Hoài đi xin 1 chậu nước và phích nước sôi, hòa nước vào trong chiếc chậu sao cho nước nóng hơi già.

Tôi rút từ trong túi ra một lọ tinh dầu màu tím trong, hòa vào trong chậu nước nóng già đó.

Màu tím lẩn vẩn trong nước mau chóng tan ra thành một dung dịch trong suốt không màu.

Đoạn tôi lấy chiếc khăn lau người mà mẹ Hoài và Hoài vẫn dùng để lau người cho Nhi, ngâm vào trong chậu nước đó tầm 5 phút.

Sau khi ngâm xong, tôi gấp vuông chiếc khăn lại.

Nó vẫn còn hơi nóng rẫy.
Tôi nhờ Hoài giúp cùng nâng cổ con bé Nhi lên rồi đặt chiếc khăn vuông dưới gáy nó, sau đó lại hạ đầu nó xuống nằm như bình thường.
Tôi đi ra đi vào trong gian phòng bệnh để chờ đơi kết quả,
Một lúc sau tôi rút chiếc khăn ở dưới gáy cô bé ra.

Ở trên khăn có những vạch mờ mờ hiện lên và còn duy nhất một vạch đậm nhất ở trên khăn.

Thế thì đúng quả thực như tôi nghĩ…
Tôi thốt lên: “Xong nhé, Hoài, bình thường em cháu có hay chơi một mình không? Có ai giám sát nó không??”

“Có chứ ạ..nhà cháu không có thời gian để mà bao quát được hết mọi việc trong cuộc sống của em.”
“Thế thì..chắc chắn em cháu đã chơi với vong âm, làm hao tốn dương khí khá nhiều.

Thêm vào đó là ở trong làng, chắc cháu cũng biết rồi, có một đoàn người đang lôi kéo linh hồn của những đứa trẻ.

Và em cháu không phải ngoại lệ.

Đây là Bùa hỏi vía đó, nếu như cô đoán không nhầm, mà có lẽ là cô không nhầm thật, em cháu bị bắt mất 8 vía rồi, còn mỗi 1 vía, hiện lên trên chiếc khăn này thôi…”
Cô bé Hoài ngơ ngác sau câu nói của tôi.

Nó hỏi: “Cô ơi, thế giờ phải làm thế nào ạ…”
“Bây giờ cần diệt đoàn người kia mới tìm lại được vía cho em cháu.

Có phải nó hay nói mơ rằng có đoàn người gọi nó đi phải không? Bọn họ định bắt con bé đó…”
Hoài thở dài rồi gật gật đầu.

Cô bé bắt đầu kể cho tôi nghe về những giấc mơ của nó, về người bạn tên Thương và những bóng người dồn ép nó trong giấc mơ.
“Cô bé đó…đang cố bảo vệ cháu…” tôi đáp sau khi Hoài kể xong chuyện.
Hoài bắt đầu khóc, nước mắt tuôn lã chã.

“Cháu không biết phải làm gì cả…”
Tôi xoa lưng cô bé: “Cô sẽ giúp, yên tâm.

Nhưng cháu có dám làm những điều cô bảo không?”
“Điều gì ạ?”
“Bây giờ, người họ cần nhất là cháu.

Cháu là điều mà con người nợ họ suốt 16 năm nay.

Họ đã chờ đợi và coi cháu như là của họ từ lâu rồi.

Chính vì thế nên…chỉ có cháu mới tiếp cận được họ…Khi xoa dịu được đoàn sư đó, thì những vong hồn vất vưởng kia, chỉ cần làm lễ cầu siêu cho họ là được…”
“Cháu tiếp cận kiểu gì ạ?” Cô bé nói bằng giọng nghẹn ngào.
“Thời gian cũng gấp rồi, nếu như có thể thì mai bắt đầu luôn.

Cháu đi cùng cô, còn bé Nhi, đành nhờ mẹ cháu vậy…”
Tôi nói cho Hoài biết về chiếc giếng cạn sau ngôi làng.

Cô bé gật đầu: “Cháu biết chỗ đó…nhưng chẳng lẽ phải leo xuống ạ?”
Sáng sớm hôm sau, tôi lại tìm tới nhà ông trưởng làng.

Tôi xin phép họp lại người dân vào buổi trưa để tìm sự giúp đỡ.

Có lẽ họ phải chuẩn bị tinh thần để di dời đi chỗ khác.
Đúng 11 giờ trưa, ông trưởng làng đã tụ hợp được gần như đông đủ đại diện những hộ dân trong làng lại ở nhà văn hóa.

Tôi phổ biến về ý định của tôi, đưa Hoài xuống để lấy viên xá lị lên, đem đi hỏa táng, chấm dứt lời nguyền ở trong làng.

Tuy nhiên, một khi lời nguyền biến mất, oán khí biến mất thì có lẽ ngôi làng cũng sẽ không còn nguyên vẹn.

Dân làng nghe thế thì la ó.

Hơn nửa người dân nói họ chẳng còn chỗ nào để đi.

Một số người lại bảo nên giải quyết triệt để vấn đề, nhưng sao lại không giữ được ngôi nhà cho họ…
“Đó là cách duy nhất rồi ạ…” Tôi nói “Bé Hoài cũng đã đồng ý.

Nếu như 16 năm trước mọi người không dồn ép cô bé thì đến giờ cô bé cũng không phải lặn lội nguy hiểm như thế.

Nhưng cũng phải cảm ơn mọi người vì nếu như không có chuyện đó thì giờ cũng không có lối thoát nào khác!”
Mọi người xì xầm: “Cô đang trách khéo chúng tôi đấy à…”

‘Giờ cháu rất cần một số người giúp đỡ cô bé xuống dưới hầm mộ đó…”
“Ai mà dám xuống chứ!” Một người đàn ông kêu lên “Lại gần cái thứ đó, nó quật chết như chơi, chúng tôi sợ lắm, không dám tham gia đâu, cô đồng à!”.

Mọi người xung quanh gật gù đồng ý.
Tôi tiếp tục kêu gọi sự giúp đỡ bởi tôi biết rằng, 3 người phụ nữ chân yếu tay mềm như tôi, Hoài và Mai khó lòng mà lặn lội xuống dưới đó một mình được.

Chờ đợi mãi, một cánh tay giơ lên: “Tôi giúp được…”- người đàn ông cất tiếng giọng trầm trầm.

Mọi người chỉ im lặng nhìn theo.

“Tôi ở trong đội cảnh vệ của làng, tôi có thể giúp được, tôi muốn chấm dứt cơn ác mộng này, tôi đã mất một đứa nhỏ, tôi không muốn ai phải chịu nỗi đâu như tôi nữa…”
Tôi gật đầu cảm ơn người đàn ông.
Ông trưởng làng cũng nói: “Là trưởng làng, đương nhiên tôi phải có trách nhiệm.

Chú sẽ giúp đỡ cháu.”
“Còn ai nữa không ạ?”
Từ ngoài cửa ra vào cất lên một giọng nói: “Cháu giúp.”
Mọi người quay lưng ra phía sau để tìm xem ai cất tiếng.

Đó là một thanh niên gầy gò, tóc đen hơi dài, đang mặc bộ quần áo học sinh, lưng đeo chiếc balo trông cũ cũ.
“Hiếu, còn mẹ cháu thì sao? Nếu cháu có mệnh hệ gì…?”
“Mẹ cháu…không đi họp được, bà có dặn cháu nhớ phải giúp đỡ mọi người.

bố cháu cũng từng đi lạc trong sương mù, nếu như có thể tìm thấy bố, mẹ cháu cũng bằng lòng, bà không mong gì hơn!”.

Người thanh niên tên Hiếu nói.

“Mới cả, cháu không thể để mấy người phụ nữ làm việc nguy hiểm này 1 mình.”
“Cảm ơn Hiếu nhé!” Tôi nói “Vì thời gian cấp bách, có lẽ xâm xẩm chiều mai nay cháu sẽ bắt đầu hoạt động luôn.

Cháu cũng mới bấm ngày, mai mới là ngày thích hợp.

Cháu mong mọi người trong ngày hôm nay thu xếp đồ đạc cần thiết mang ra ngoài.

Ngày mai mọi người đừng ai ở trong làng nữa..”
Đám đông dù vẫn không vừa lòng nhưng cũng im lặng rời đi.

Tôi thở dài đầy lo âu.

Chỉ còn những người nhận giúp đỡ ở lại.
“Mai cháu với Hoài định xuống đáy giếng, mong mọi người tìm cách đưa cháu với Hoài xuống một cách thuận lợi…” Tôi nói với ông trưởng làng và người đàn ông kia.
“Chú tên là Lâm, chào cô đồng!” Người đàn ông chìa tay ra
“Cháu là Loan ạ! Rất cảm ơn chú đã nhận lời giúp!” Tôi nắm lấy bàn tay thô ráp của ông.
“Cháu cũng sẽ cố gắng hết sức.” Hiếu nói.

Tôi gật đầu cảm kích.
“Vậy hẹn mọi người mai nhé.”
Tối hôm đó, tại nhà nghỉ trong thành phố, tôi đóng cửa luyện phép cả tối.

Tôi cần chuẩn bị kĩ càng cho trận chiến vào ngày mai.

Dùng phấn phép vẽ vòng bế quan trên nền nhà, tôi thắp lên 7 ngọn nến như thầy tôi đã dạy, ngồi vào đó để thiền luyện.
Cả tối thấy tôi im lìm, cái Mai chẳng dám làm phiền, chỉ ngồi đọc mấy cuốn sách thuyết.
Chiều ngày hôm sau, tôi sắp xếp đầy đủ đồ đạc vào trong chiếc túi to quen thuộc rồi tới bệnh viện để đón Hoài.

Tới nơi, tôi thấy mắt cô bé đỏ hoe.
‘Sao thế cháu?”
“Hôm nay em cháu phải thở bình oxi rồi, không biết có trụ được đến mai không?”
“Yên tâm đi…cố gắng sẽ được.

Hạn nhà cháu không phải trùng tang, không lo.

Chỉ tiếc là bố cháu mạng chưa tận mà đã đi rồi…Thôi, về làng nhé.”
Chúng tôi bắt chiếc taxi đi về làng trong bóng chiều đang dần xuống.
Bước dần về phía ngôi làng, bầu không khí tĩnh lặng đến lạ thường.

Cảnh vật ngôi làng lúc này trông hoang tàn không còn sức sống.

Những căn nhà đã được dọn ra, không còn ai ở lại.
Ông trưởng làng và 2 người khác đã đợi chúng tôi ở ngọn núi sau làng.

Hoài dẫn tôi đi.
Vừa gặp nhau, cái Hoài đã nói: “Ơ, Hiếu, sao cậu cũng ở đây?”
“Hai đứa quen nhau à?” Tôi hỏi.
“Vâng, bạn cùng lớp của cháu đó…”

“Tớ rảnh nên giúp đó…” Hiếu cười hiền
“Chúng ta bắt đầu nhé…”.
Ông trưởng làng dẫn chúng tôi, cả thảy là 5 người theo sau, đi vào trong khe nứt của ngọn núi sau làng.

Phía bên kia ngọn núi, cảnh vật thơ mộng và yên bình.

Tuy nhiên tôi biết rằng ẩn trong sự thanh bình này, luôn rình rập những thứ ghê rợn.
Họ đã dựng sẵn cho tôi một đàn lễ lớn ngoài trời, ngay cạnh cái giếng cổ ở giữa.

Ở trên đàn lễ bày rất nhiều đồ ăn thịnh soạn, xôi vò, thủ lợn,…Ở dưới đất nằm la liệt những chiếc mâm trên đó có bỏng oản, bánh kẹo và quần áo giấy.
“Chú đã chuẩn bị đồ lễ chúng sinh, cháu xem ổn chưa?”
Tôi gật đầu.

“Thế là được rồi chú ạ.”
Ở trên miệng giếng có một sợi dây cáp thòng xuống dưới, đầu kia nối vào một thân cây gần đó.
“Chú đã cột dây cáp vào một thân cây chắc rễ rồi, lát nữa đến lúc thì mấy đứa cứ leo xuống, trên này các chú sẽ lo liệu.

Tôi gật đầu.
Tôi rút ra thanh kiếm cổ trong bao.

Kiếm này được sư phụ của thầy tôi truyền cho.

Ông mới mất 5 năm về trước, ông biết trước được ngày ra đi của mình nên đi rất thanh thản.

Cả cuộc đời ông làm phép cứu nhân độ thế, diệt trừ ma quỷ.

Cũng từ sau cái chết của thầy tôi, tôi mới có được cái duyên diện kiến ông.

Kiếm phép này ông mượn của một người bạn, ông có dặn tới khi nào tôi thật giỏi, có được riêng vật phép của riêng mình thì đem trả lại cho gia đình người bạn thân kia.

Tôi vuốt lưỡi kiếm sắc.

Mong là tối nay mọi chuyện suôn sẻ.

Muốn gặp người âm, phải đợi đến tối…
Lúc 5h30 chiều, mặt trời bắt đầu tắt những tia nắng cuối cùng.

Sương mù từ trên núi bắt đầu hạ dần xuống, không khí chợt lạnh buốt.

15 phút sau, chúng tôi chỉ còn có thể nhìn thấy mặt nhau lờ mờ.

Tôi lại thắp ngọn đèn bão của tôi lên.

Ở đây đông quá.

Người thì ít mà ma thì nhiều.

Tôi nhìn thấy rất nhiều trẻ con chạy chơi xung quanh.

Những người phụ nữ tóc dài ngồi bên bờ suốt thác, chải tóc và hát những bài hát âm vang ghê rợn.

Cái Mai cứ bịt tai, rúm vào.
“Xuống thôi.” Tôi nói.

“Mai, con ở trên này giúp, để sư phụ và chị Hoài xuống thôi…”
“Sư phụ nhớ cẩn thận nhé” Cái Mai mếu máo.
Tôi quở nó: “Mếu máo cái gì! Xui xẻo đó con.

Lạc quan lên.”
“Vâng ạ…”
“Để cháu đi cùng.” Hiếu nói với tôi “Ở trên này 3 người, xuống dưới 3 người thì tốt hơn, nhỡ chẳng may dưới đó cần việc gì nặng nhọc.

Ở dưới đó không có sóng điện thoại đâu…”
Tôi hơi ngập ngừng.

“Cháu không phải Hoài, xuống đó nguy hiểm lắm.

Cháu nên ở trên này.”
“Không sao đâu, cháu đi được.” Hiếu nói quả quyết quá tôi không biết từ chối sao.
Thế là ông trưởng làng và ông Lâm đeo vào người chúng tôi bộ đại bảo vệ, dạy qua cả cách tháo, buộc rồi chuẩn bị hạ từng người xuống.

Tôi sẽ xuống trước, theo sau là Hoài và Hiếu.
Đứng trên thành giếng nhìn xuống, tôi chỉ thấy một địa ngục đen ngòm đang vẫy gọi..


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui