II.
17 tháng bảy 1894.
Khởi hành lúc 8 giờ 30. Ra khỏi ba dặm chỉ là những cây kế Nga. Những người cắt lúa với mùa lúa mì èo uột. Vào ranh giới hạt Miner lúc 2 giờ. Hạ trại bên một dòng suối cạn nhưng đủ lo cho lũ ngựa. Lúa cao khoảng 8 inch may ra sẽ đạt nổi sản lượng một giạ rưỡi mỗi mẫu. Trời nóng.
18 tháng bảy.
Nhiều nông dân cắt lúa làm cỏ khô. Lúc 11 giờ 30, chúng tôi rời khỏi Howard một dặm về phía đông. Trồng trọt ở đây còn đỡ. Kéo lết tới mùa tới là việc đã xong hết, không còn lo lắng về thu hoạch trong mùa này. Tuy nhiên mùa vụ vẫn tệ hại chưa từng thấy. Cỏ không mọc nổi. Lúa cao chừng 3 inch héo úa và chết khô.
Đi ngang đường sắt Tây Bắc R.R lúc 2 giờ 25. Vào ranh giới hạt McCook lúc 5 giờ, cho xe chạy thêm hai dặm rưỡi và hạ trại. Trong buổi chiều có một đợt bão bụi nhỏ và chúng tôi phải kéo xe chụm chung lại vì không thể thấy rõ những gì đang xảy ra. Gió nam nóng hực đổi thành gió bắc lạnh lẽo, cả hai thứ đều gay. Dù vậy, nhiệt lượng kế trong xe đứng ở 102 độ.
19 tháng bảy.
Ban đêm trời đổ mưa nhưng không có gió. Không vật gì trong thùng xe bị ướt ngoại trừ một tấm mền phủ lưng ngựa. Chúng tôi rán thịt gà làm thức ăn điểm tâm và khởi hành lúc 9 giờ 15. Thời tiết lạnh và dễ chịu, gió thổi từ phía bắc và bụi lắng dưới mưa. Những khu rừng nhỏ rậm rạp và có vẻ rất tươi tốt nhưng nông dân đang cắt lúa phơi làm cỏ khô.
Chúng tôi kiếm được điểm cắm trại vừa ý trong một hẻm núi khuất gió và khuất mọi tầm nhìn.
Bữa tối đã được nấu nướng và ăn xong. Khi chúng tôi đang rửa chén đĩa, một người đàn ông đi tới và nói ông ta là chủ một khu đất và thấy chúng tôi cần chỗ nghỉ nên tới làm rộn. Vì ông ta sống ngay phía bên kia đồi nên chúng tôi nghĩ là chúng tôi có thể di chuyển qua con đường và tới ở yên ổn tại đó. Thế là chúng tôi đóng ngựa vào xe lái đi. Đây là một nơi hạ trại rất tốt. Buổi tối có thêm hai người đàn ông tới chuyện trò. Nhiệt lượng kế đứng ở 92 độ.
Bà Cooley và tôi đi vào một ngôi nhà để mua sữa. Ngôi nhà xúm xít đầy trẻ con và heo, tất cả đều lem luốc y hệt nhau.
20 tháng bảy.
Khởi hành lúc 1 giờ 10. Một con ngựa của gia đình Cooley bị cứa đứt một vết nhỏ trên chân do vướng phải hàng rào kẽm gai.
Chúng tôi rời khỏiBridgewaternửa dặm về phía đông. Ông Cooley lái xe vào thị trấn nhưng tất cả chúng tôi tiếp tục đi về phía nam và đến một khu lúa mạch đầu tiên tương đối có giá đang được cắt. Từ khi rời De Smet lúc này chúng tôi mới thấy thu hoạch nhưng lúa không tốt lắm.
Chúng tôi cho ngựa uống nước tại một giếng nước công cộng chạy bằng cánh quạt gió ngay bên đường. Nước trên khắp hạt McCook đều tốt. Các giếng có độ sâu trung bình chừng một trăm hai mươi bộ và gần như giếng nào cũng có cánh quạt gió. Đây là một hạt ổn định. Khắp hạt McCook, năm nay là năm mất mùa đầu tiên kể từ mười sáu năm qua. Có rất nhiều rừng cây nhỏ, những ngôi nhà xinh xắn, những vựa lúa lớn và rất nhiều dây leo, nhưng chúng tôi không thấy có nhiều bò dù có một xưởng sản xuất bơ và phomai tạiBridgewater. Mọi người nói mùa lúa quá xấu nhưng đây là mùa lúa tốt nhất mà chúng tôi được thấy lần đầu trong năm.
Vào địa phận hạtHutchinsonlúc 10 giờ. Ở đây người ta đang cắt cỏ để phơi khô. Chúng tôi đi ngang một đống đá khổng lồ đã được dọn sạch khỏi một khu đất. Thấy một số lúa mì khá tốt. Ông Cooley bắt kịp chúng tôi lúc 12 giờ khi chúng tôi tới một khu định cư của người Nga. Ông ấy không kiếm nổi lúa mì hoặc thực phẩm gì ởBridgewatermặc dù có ba nhà máy xay trong thị trấn.
Khu định cư người Nga là những căn nhà, những lán kho xây bằng gạch sống, những khu chuồng gà và những đống than trữ để đốt. Nhà đều lui xa khỏi đường cái và hầu hết đều dựng thật dài, một đầu là nhà ở còn đầu kia là lán kho. Chúng tôi ngưng trước một nhà để kiếm nước. Ở đó có một gã ngớ ngẩn, một người đàn ông, một kẻ khủng khiếp.
Chúng tôi có thể thấy rừng cây dọc sông Jim nằm cách bên phải chúng tôi chỉ sáu dặm nhưng xa tới mười tám dặm ở phía trước mặt. Đây là một vùng dễ thương, nhưng lại có một người Nga nói “Chẳng có gì tốt cho năm nay, chẳng có gì tốt cho năm ngoái.” Chúng tôi mang nước lên xe và hạ trại không có nước tại một nơi rất tốt ngoại trừ việc thiếu hụt trên. Nhiệt lượng kế trong xe ghi 100 độ.
Đường đi gần như hoàn toàn bằng phẳng suốt hai ngày, chỉ thỉnh thoảng có một hẻm núi nhỏ, không có đồi. Đất ở đấy giá từ hai nghìn năm trăm đô la tới ba nghìn đô la cho một khu một trăm sáu mươi mẫu.
21 tháng bảy.
Chúng tôi tưởng là đương nhiên khởi hành sớm, nhưng lại có sự cố. Hết bánh mì nên chúng tôi phải nướng bánh quy và làm nước sốt với món thịt gà nấu trong đêm trước tưới lên bánh quy rồi đặt tên là bánh thịt gà hấp. Khi đóng ngựa vào xe, chúng tôi dùng con ngựa Pet và nó phóng đi.
Manly đã bỏ cương cho con ngựa con Pet nhỏ nên nó không thể chạy theo mẹ. Tôi kêu “oa” cho xe dừng lại và tiến về phía con ngựa con. Ngay khi nhìn thấy tôi đi tới, nó vùng chạy. Tôi không thể chụp nó lại. Ông Cooley cưỡi một con ngựa giống da đỏ rượt theo nó và khi sấn lên nổi để chặn ngang đầu nó thì nó đã chạy một đoạn khá xa. Nó sắp đi tớiMissourikhông chờ chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi khởi hành vào lúc 8 giờ 20.
Chúng tôi di chuyển dần dần về phía bờ sông chỉ còn cách chúng tôi năm dặm về phía tây bắc. Dọc theo bờ sông rừng cây rậm rạp. Ở đây mùa vụ đã thu hoạch xong và đang bắt đầu cày đất.
Đúng 10 giờ 30, những bờ đất phía bên kia sông Jim đã nằm trong tầm mắt.
Chúng tôi vào địa phận hạt Yankton lúc 12 giờ và lúc này, 2 giờ 15, chúng tôi đang ở trên bình nguyên sông Jim. Mặt đất phẳng lì như mặt nền nhà với một vài khu ruộng lúa chen giữa các đồng cỏ.
Chúng tôi nhìn thấy lần đầu tiên những hàng cây mọc tự nhiên hai bên đường và cũng là những bụi cây nhỏ.
Khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi nhìn thấy một khu một trăm sáu mươi mẫu trồng lúa nằm một bên đường và một khu khác tám mươi mẫu ở mé đường bên kia.
Chúng tôi hạ trại bên sông Jim dưới những cây lớn gần một nhà máy xay chạy bằng sức nước.
Đây là một địa điểm rất dễ chịu. Chúng tôi ở không xa một gia đình hoặc một khu định cư người Nga.
Họ hình như là một gia đình nhưng Manly nói anh đếm được ba mươi sáu đứa trẻ đủ các cỡ tuổi còn ông Cooley nói có cả thảy năm mươi đứa nhỏ dưới mười lăm tuổi. Tất cả bọn họ kéo tới chỗ chúng tôi hạ trại, đứng bao quanh ngắm chúng tôi.
Người đàn ông có vẻ là thủ lĩnh của bộ lạc, hoặc cộng đồng hoặc là một thứ gì đó, nói họ tới đây từ năm năm trước và lúc này họ đã có mười bảy lô đất. Họ có nhiều đàn gia súc, những con ngựa rất tốt và ba trăm con ngỗng.
Vào lúc hoàng hôn, một đứa con trai mang tới một con cá lớn và hỏi chúng tôi có muốn mua không. Những người đang ông đã đi hết nên tôi và Emma Cooley không biết định giá con cá bao nhiêu.
Cậu bé nói chúng tôi có thể trả cho cậu ta một dime nhưng Emma và tôi không thể moi đâu ra một dime. Chúng tôi chịu thua khi những người đàn ông trở lại và mua con cá. Vài phút sau cậu bé lại tới với hai con cá nhỏ hơn, đòi được trả mười lăm xu, nhưng cuối cùng chịu bán với giá mười xu.
Ban đêm chúng tôi ngủ trong tiếng nước chảy xuôi. Manly đập chết một con rắn vào chiều hôm đó.
Chủ nhật 22 tháng bảy.
Sáng nay tất cả chúng tôi đều đi tắm. Ông Cooley cùng lũ trẻ kéo nhau xuống sông.Paul và George quấn dây quanh người và tập bơi. Rose đi với bà Cooley cũng có một sợi dây quanh người do tôi giữ đầu dây. Cô bé ra tới chỗ nước sâu ngang người, lội nước loanh quanh rồi ngồi xuống cho nước dâng lên tới cằm. Suốt ngày những người Nga, gồm cả người lớn và con nít, không ngừng đeo theo chúng tôi. Họ không thể nói chuyện và chỉ hiểu rất ít. Họ khá tử tế, mang tới tặng cho chúng tôi sữa và một thùng lớn bánh quy. Bánh quy của họ xốp và rất ngon. Chúng tôi có cảm giác như đã quen biết với họ, nói cho họ biết tên của từng người trong chúng tôi và hỏi tên của họ rồi để họ ngồi đung đưa trên võng và trên những chiếc ghế. Họ hết sức tò mò, muốn xem xét mọi thứ rồi bàn tán với nhau.
Họ mời chúng tôi tới thăm nhà họ và Manly cùng đi với tôi. Họ chỉ cho chúng tôi những con ngỗng và những người đàn bà vắt sữa bò đang vắt sữa. Những người này giống hệt như trong những bức hình vẽ các cô gái vắt sữa và các nông dân Đức và Nga. Tóc họ vàng óng, chải thật mượt xuống hai bên má rồi kết bím thả lỏng phía sau và mỗi người đều buộc khăn ở trên đầu. Tất cả đều mặc cùng kiểu áo đầm. Đó là những chiếc áo dài bằng thứ vải màu xanh, không có ống tay nhưng những chiếc sơ mi màu trắng phía trong của họ lại có những ống tay thật dài. Đám đàn ông đều để râu quai nón dài và hoe vàng. Những người này đều mặc áo choàng màu xanh dương dài gần tới đầu gối với đai lưng buộc quanh eo. Tất cả đều lễ độ, tươi cười hình như đang cố cho thấy họ rất mừng vì chúng tôi tới thăm. Họ cho thêm chúng tôi một thùng sữa tươi còn ấm và Manly tặng lại họ một mồi lửa. Một người đàn ông có vẻ đã Mỹ hóa được Manly chậm rãi chỉ dẫn về chiếc mồi lửa không thể bị cháy và ông ta nói ông ta hiểu. Nhưng ông ta không tin nó lại không bị cháy cho tới khi Manly thử cho thấy.
Khi chúng tôi sắp đi, một người đàn bà tới mở phần áo phía trước ngực lôi ra một bọc bánh quy đang áp ngay trên làn da trần của bà và tặng cho tôi. Người đàn ông nhắc tôi nên cất vào trong áo nhưng tôi buộc lại trong chiếc khăn tay sạch của Manly. Người đàn ông nói không dễ nướng bánh quy với những người đang di chuyển. Đáng tiếc là phải hoang phí bánh quy nhưng chúng tôi không thể ăn được.
Những người Nga có một con chó cực lớn. Nó cao hơn thắt lưng tôi và đầu nó y hệt đầu một con chó sói nhưng to hơn. Tai nó được xén tỉa để giống như tai chó sói và lông nó toàn bộ màu nâu sáng. Nó rất dễ thương, cọ người vào Rose và tôi và chúng tôi vòng tay ôm quanh cổ nó. Có một con chó con giống nó như đúc và Manly vật nài mua nhưng họ không chịu bán.
Họ có những nhà kho rất đẹp, những máng lúa lớn và một chiếc cối xay gió. Đất đai của họ chạy dọc bờ sông. Mỗi người trồng trọt trên đất riêng của mình nhưng lợi tức được gom chung lại hết.
Chúng tôi đã qua một ngàychủnhật thoải mái nhất và được nghỉ ngơi.Paul leo lên lưng con Pet nhỏ và con ngựa con không bận tâm về chuyện này, nó khá ngoan ngoãn.
23 tháng bảy.
Chúng tôi khởi hành lúc 8 giờ. Thấy ghét phải rời khỏi chỗ hạ trại có vẻ như đã là nhà của mình. Chúng tôi qua sông James và chừng hai mươi phút sau đã tới đỉnh của những bờ dốc thẳng đứng phía bên kia. Tất cả chúng tôi đều dừng lại nhìn ngược về quang cảnh phía sau và tôi ao ước mình có được bàn tay của một họa sĩ hay khối óc của một thi sĩ hoặc có khả năng kể lại bằng những đoạn văn xuôi khúc chiết cảnh sắc tuyệt vời như thế nào. Nếu tôi là người da đỏ, tôi sẽ lột da đầu thêm nhiều người da trắng nữa trước khi rời bỏ nơi này.
Chúng tôi có thể nhìn thấy dòng sông uốn vòng dưới thung lũng với mặt nước rạng ngời qua những hàng cây lớn mọc trên bờ. Bên kia dòng sông, những vách đất vươn cao trần trụi nâu cháy trên màu xanh mượt mà của cây cỏ và mặt nước lấp lánh. Phía bên này cũng lại những vách đất giống các đợt sóng khổng lồ màu nâu dâng lên hỗn độn.
Phía bên này sông James, chúng tôi đi ngang những cánh đồng lúa cao tám bộ. Dọc các vệ đường là những cây bông gòn lớn cỡ 10 inch và cao tới ba mươi lăm, bốn mươi bộ. Nhưng tất cả hình như đều cháy xém và trơ trụi sau những vùng đất chúng tôi hạ trại.
Đã 10 giờ. Nhiệt độ là 101 độ trong bóng mát và không khí ngột ngạt.
Lúc 11 giờ, còn cách Yankton chín dặm, chúng tôi ngừng lại bên một cối xay gió cho ngựa uống nước. Ông chủ của căn nhà nói với chúng tôi là ông phải tốn năm nghìn đô la suốt ba năm trong thập kỉ 80 không có nhà.
Không xa Yankton, chúng tôi băng qua một trảng đất khô với những vách đất trơ trụi ở hai bên. Khắp nơi chỉ có những tảng đá và những cụm cỏ lúa khô giống như những đống cát lớn trôi dạt dồn tụ lại.
Chúng tôi tới Yankton lúc 4 giờ. Xe chạy ngang một dưỡng trí viện. Những tòa nhà trông khá đẹp được dựng ở giữa một trang trại lớn với nhiều mẫu bắp và khoai tây. Manly muốn ngưng lại vào dưỡng trí viện nhưng tôi không chịu nên chúng tôi tiếp tục đi. Chúng tôi đi ngang trường Cao đẳng Yankton cũng là những tòa nhà khá đẹp.
Nhưng tôi vô cùng thất vọng khi vào Yankton với quang cảnh của một vùng bùn đất. Chúng tôi lái xe chạy khắp thị trấn tìm mua một chút lương thực cho lũ ngựa, qua khắp các nhà máy xay, các kho hàng, cuối cùng chỉ mua nổi vỏn vẹn hai bao hạt vụn và khắp thị trấn không có nổi một miếng cao dán. Trong các cửa hàng bán thực phẩm không có rau tươi và cũng chẳng có một thứ trái cây nào. Sẽ là một ân huệ lớn cho Yankton nếu cửa hàng Carpenter chuyển tới đây hoặc các người dân ở thị trấn này được tới De Smet để kiếm những thứ cần dùng. Thị trấn có hai vựa lúa, hai hoặc ba nhà máy xay, sáu kho thực phẩm, nhưng chúng tôi chỉ kiếm nổi số thức ăn mang theo khoảng hai túi xách.
Tôi không phải đụng tới túi tiền dù đã bỏ rất nhiều thời gian lùng mua thực phẩm khắp thị trấn đến nỗi ông Cooley qua phà trước. Bà Cooley vàPaul qua sông rồi phà quay lại đón ông Cooley. 6 giờ, đúng lúc phà sắp rời bến trở lại đón chúng tôi đang đợi ở mé sông bên này thì một cơn bão nổi lên.
Không có mưa mà chỉ có gió và bụi.
Chúng tôi phải quay mặt ra phía sông ẩn sau xe để tránh bị gió thổi đi. Gió nhấc bổng bánh xe sau lên hai lần trước khi Manly cột chặt vào cọc. Người lái phà không dám qua sông trong lúc đang có bão. Ông ta chờ ở phía bên kia cho tới khi bão tan và chúng tôi sợ rằng ông ta không chịu qua trong đêm đó. Nhưng ông ta đã qua.(1)
(1) Khi những bánh sau của cỗ xe nhấc lên tựa hồ xe lăn nhào xuống sông, cha tôi nhảy ra ngoài, đặt dây cương vào tay mẹ tôi. Trong lúc mẹ tôi nắm dây cương và trấn an lũ ngựa đang căng thẳng, tôi vươn cổ ra ngoài tấm vải che bên cạnh xe để nhìn xem cha tôi đang làm gì. Ông đang đóng những cây cọc buộc sâu vào trong đất rồi dùng dây buộc chặt bánh xe vào đó. Ngay sau chúng tôi là một cỗ xe phủ kín mít và sau cỗ xe đó là một cỗ xe khác rồi một cỗ xe khác nữa. Xa hút tầm nhìn của tôi, các cỗ xe nối đuôi nhau đứng thành một hàng dài. Sau một cỗ xe là một cỗ xe khác và phía sau những cỗ xe nhưng ở trên cao là nửa vùng trời phủ trong lớp sóng bụi màu vàng đang cuồn cuộn kéo tới. Mẹ tôi nói với tôi: “Đó là cái nhìn cuối cùng của con hướng về Dakota đó.”
Khúc sôngMissourimà chúng tôi băng qua rộng khoảng một dặm và rất nhiều bùn lầy. Tôi không hề thắc mắc về việc chỗ này có tên là Vũng Bùn Lớn và khi nhìn thấy bụi đất bị gió cuốn xuống đó, tôi đã nghĩ không có gì ngạc nhiên khi chỗ này đầy bùn. SôngMissourichẳng có gì đẹp như sông Jim.
Pet không bối rối chút nào ở trên phà mà chỉ kéo xe lên một cách ngoan ngoãn rồi đứng yên tối đa trước khi lặng lẽ kéo xe rời khỏi phà. Con ngựa con Pet nhỏ thong thả lên phà và đứng im bên cạnh mẹ như một con chuột.
Đi khỏi sông chừng một dặm, chúng tôi hạ trại. Nhiệt độ là 98 độ.
24 tháng bảy.
Ông Cooley dậy sớm đi câu nhưng chẳng được gì. Tất cả chúng tôi đều mệt nhoài vì đêm trước thứ khuya nên mãi 9 giờ mới khởi hành nổi. Do đi lạc đường chúng tôi phải quay về bờ sông để bắt đầu khởi hành trở lại. Chúng tôi đi theo sông một đoạn đường ngắn và có thể nhìn xuống một khoảng bốn năm dặm trên mặt nước trong dòng sông. Đó là một quang cảnh thật tuyệt dù rằng cảnh sắc trên bờ chẳng có gì đáng kể. Điều gì khiến mặt nước luôn gây xúc động cho người ta như vậy? Tôi chưa từng được thấy một dòng sông hay một mặt hồ lớn nhưng tôi nghĩ là tôi vô cùng thích thú được nhìn thấy một vùng chỉ có nước và thích thú được nhìn mặt nước qua mọi đổi thay của nó.
Hai bờ sôngMissouriđang bị xói mòn và trút đất lở xuống nước. Một khúc đường đã trụt hết và trên dòng sông là những khoảng đất bằng. Trước khi tới sát các vách đất, chúng tôi nhìn thấy một loạt hai mươi tư đống cỏ khô và việc cắt cỏ chỉ mới bắt đầu. Bốn chiếc máy cắt cỏ đang hoạt động. Giá cỏ khô ở Yankton là chín đô la một tấn.
Rồi, chúng tôi đã tới các bờ vách. Trên bờ sông bên kia, các vách đất giống như bị xén bởi một nhát dao nhấn thẳng từ trên xuống. Trên mặt vách không có một cọng cỏ. Dọc theo chân bờ vách, cây lớn đang vươn lên thành một hàng rào chắn gió nam. Mận, nho, lí chua đen, cỏ ba lá ngọt mọc hoang trong thung lũng. Cỏ ba lá cao tới tám bộ. Và, chúng tôi đã nhìn thấy những cây sồi đầu tiên.
Chúng tôi đang đi qua những vách đất, những ngọn đồi trơ trụi, không có nhà cửa, đồng lúa, cây lớn và một ngọn cỏ. Manly nói không bao lâu nữa anh có thể làm chủ toàn bộ vùngNebraska, nếu có thể rào bọc lại. Xét qua những gì được nhìn thấy, vùng này vẫn có thể là một bãi chăn nuôi nếu không nuôi nhiều gia súc quá. Nhưng trước mắt tôi thì vùng này chẳng có gì, chẳng có gì ở đây cả.
Chúng tôi gặp những cỗ xe thùng đang đi về hướng bắc. Manly nói chuyện với hai người đàn ông đang đi từKansastớiNamDakota. Họ nói tạiKansaskhông còn gì.
Nhưng lũ gà mái đang đẻ trứng. Nhiệt độ là 110 độ.
25 tháng bảy.
Chúng tôi nghỉ đêm giữa những ngọn đồiNebraska, dưới một trũng đất thấp, không nhìn thấy một mái nhà. Buổi sáng, tôi thích ngắm những ngọn đồi nhưng không có gì quyến rũ trong sự đơn điệu của chúng.
Chúng tôi khởi hành lúc 7 giờ 35. Buổi sáng se lạnh dễ chịu. Qua Hartington lúc 8 giờ 30. Thị trấn này khá đẹp, tôi thích ở đây hơn hẳn Yankton dù nó nhỏ hơn. 12 giờ 30 quaColeridge, một nơi không khá gì. Gió đang thổi và bụi bay mù mịt.Chuyện trò về những con đường đất nên tại Dakota.
Cho tới lúc này, tôi chưa hề nhìn thấy những con đường như thế. Càng thấy rõ Nebraskahơn, tôi càng không thích vùng này. Suốt ngày chúng tôi leo trèo trên những vách đất.
Ngay phía namColeridge có hai mươi hai gia đình sẽ lên đường điMissouritrong vòng sáu tuần tới, dù vùng này rất thưa người định cư. Một người đàn ông nói là ông ta đã sống tại đây sáu năm nhưng chưa lấy một lần được mùa nào.
Chúng tôi hạ trại bên con suối cách thị trấn Beldon một dặm về phía đông nhưng vẫn nhìn thấy thị trấn. Không có ngay cả một bụi cây để ngắm. Manly bận làm các việc vặt nên ông Cooley đi câu. Ông ấy câu được mười một con cá. Nhiệt độ là 109 độ.
Người đàn ông ở gần chỗ chúng tôi hạ trại đang làm cho một người ở thị trấn Sioux là chủ cả thảy ba nghìn mẫu đất ở đây trong đó có năm trăm mẫu bãi chăn nuôi và hai trăm năm mươi mẫu đồng cỏ.