26 tháng bảy.
Ông Cooley lại đi câu sáng nay và câu được hai con cá. Chúng tôi lên đường lúc 8 giờ 40. Tại đây mưa nhiều và mùa màng khá tốt cho cả bắp, lúa mì, lúa mạch. Nhưng quá ba dặm về phía tây lại không có gì hết. Giá đất ở đây là hai mươi lăm đô la một mẫu.
Gặp một đoàn di dân vào buổi trưa. Họ đang đi về phía bắc. Nhiệt lượng kế chỉ 110 độ trong bóng mát.
Buổi trưa chúng tôi gặp một gia đình di dân gồm một người đàn ông, một phụ nữ và hai đứa nhỏ. Họ đã tớiMissourivà đang quay lại. Họ rời khỏi hạt Moody, Dakota ngày 8 tháng 5 và tới hạtTaney,Missouri. Họ chỉ ở đó được mười ngày và quay về nên luôn di chuyển kể từ đó. Họ bảo dù có được toàn bộ đất đai vùngMissouricũng không thể sống tại đó.
- Có gì lạ đâu, tại đó khó tìm nổi một căn nhà có cửa sổ, tất cả chỉ là những lỗ hổng và rất nhiều phụ nữ chưa từng thấy đường sắt hoặc cây đàn dương cầm.
Còn đất đai thì lổn nhổn đá khủng khiếp. Họ nghĩ là họ sẽ dừng lại hạt Cedar, Nebraska.
Đang buổi trưa nên các cánh đồng đều xơ xác, toàn vùng khô cằn không khác Dakota. Ngang qua Winside vào khoảng 4 giờ chiều. Đường đi nhiều đồi dốc một cách dễ sợ và ông Cooley mong là chúng tôi tiếp tục đi xa hơn về miền tây tới tậnColumbusthay vì tới Schuyler.
Qua vùng suối Humbug và hạ trại gần ngôi nhà đầu tiên ở hướng nam. Dân ở đây là người Đức, rất dễ chịu, đem sữa ra cho chúng tôi. Suối Humbug và Winside là những cái tên rất quen thuộc, nhưng họ đánh vần là Windside. Suốt ngày chúng tôi đối mặt với thứ nóng dữ dội.
27 tháng bảy.
Khởi hành lúc 8 giờ 15. Chúng tôi đã qua hạt Cedar và sắp qua hạtWayne,Nebraska. Chúng tôi không thể nói khi nào sẽ tới địa hạt như khi còn ở Dakota vì đường đi ở đây không chú trọng đến ranh giới các khu nhà mà chạy lòng vòng lên xuống quanh những ngọn đồi.
Đất màu ở hạtWaynemịn tốt, không phải đất sét mà giống như phủ bằng đất sét. Những người ở đây nói rằng đây là thứ đất trồng tốt nhất để chịu đựng khô hạn.
Vượt ranh giới vào hạtStantonlúc 9 giờ. Có những bãi chăn nuôi lớn và những vùng đồng lúa được rào kín xung quanh. Một đàn gia súc mập mạp hiện ra trước mắt. Những cánh đồng lúa kéo dài ba dặm và sâu hút tầm nhìn. Có một vài khu rừng nhỏ. Gió thổi mạnh nhưng sáng nay trời mát.
Lúc 10 giờ 20, chúng tôi nhìn thấy một vườn táo.
Những ngọn đồi phủ kín lúa mì, nối tiếp nhiều mẫu theo tầm mắt. Rất nhiều rừng cây nhỏ.
Gần như tất cả dân cư tại đây là người Đức. Một người tặng Manly hai trái táo ngắt từ trên cây trồng của ông ta. Ông ta có một vườn táo lớn với những cây táo chi chít trái.
Đã qua ngôi nhà của người chủ năm trăm bốn mươi mẫu đất và ba trăm con heo.
Hơi xa hơn một chút là một trang trại năm mươi mẫu. Người chủ có bốn trăm năm mươi con heo và chỉ có năm mươi giạ lúa cũ. Ông ta nói nếu nội hai mươi tư giờ tới mà không có mưa thì các bông lúa của mùa tới sẽ héo và ông ta sẽ không còn một hạt thóc nào. Trước mắt chúng tôi lúa khá tốt nhưng chúng tôi nghĩ rằng các nông dân biết rõ ở đây thế nào. Lúa mì của họ năm ngoái bán với giá ba mươi hai xu và hiện nay giá vẫn ba mươi hai xu.
Chúng tôi tới thung lũngElkhornlúc 1 giờ 45 và đây là một vùng đất bằng phẳng khá đẹp với nhiều rừng cây nhỏ, những ngôi nhà xinh xắn cùng một khu rừng tự nhiên dọc theo bờ sông.
Một toán di dân tới sau chúng tôi và mỗi phút tôi chờ nghe những điều như thường lệ. Các ông từ đâu tới? Các ông sẽ đi đâu? Mùa vụ của các ông ra sao? Lần này không bao giờ - ít khi là mãi mãi thất bại.
Tìm thấy một trái bắp dài 10 inch, chu vi 7 inch rưỡi.
Ba giờ chiều tớiStanton. Thị trấn có vẻ khá đẹp với những khu xây cất lớn xinh xắn, những ngôi nhà rộng rãi thoáng sạch. Ở đây hầu hết vẫn là người Đức. Những bảng hiệu Đức trên các cửa hàng và những bản văn bằng tiếng Đức tại các nhà thờ. Lúa mì sẽ thu khoảng từ mười sáu tới hai mươi giạ mỗi mẫu.
Bắp đã chết khô dưới gió nóng. Hôm qua là 126 độ trong bóng mát ở đây,Stanton.
Qua sôngElkhorntrên một cây cầu. Đi xa thêm chừng vài dặm chúng tôi hạ trại bên cạnh đường dưới bóng vài cây lớn. Có một toán người buôn bán ngựa bên bờ sông và chúng tôi không muốn hạ trại gần họ.
28 tháng bảy.
Sáng nay chúng tôi giặt đồ, nói cho đúng thì bà Cooley giặt đồ và tôi giặt bốn bộ quần áo. Tôi đã giặt hầu hết đồ dơ trong giỏ nên không còn nhiều đồ giặt. Những người ở xung quanh gửi cho chúng tôi một thùng sữa lạnh do họ ngâm để làm kem và mới được lấy ra khỏi nước ngâm.
Đồ giặt đã khô nên chúng tôi bắt đầu đi cho tới quá giờ ăn trưa. Đường đi thật kinh hoàng với lũ ngựa. Đi được chừng ba dặm thì chúng tôi lạc mất con chó của ông Cooley. Ông Cooley muốn tiếp tục đi nhưng bà Cooley không chịu. Cuối cùng đã có quyết định là ông ấy quay lại tìm con chó còn tất cả cứ tiếp tục đi.
Chúng tôi theo một con đường bờ không còn phải lên đồi xuống dốc nữa mà cứ theo dọc các bờ ruộng vượt qua hết mẫu này tới mẫu khác. Chúng tôi không nhìn thấy ông Cooley ở đâu cho tới giờ hạ trại nhưng chúng tôi hạ trại ngay bên đường đi trên đồng cỏ. Chỉ cần vượt qua hàng rào là có thứ cỏ thật tốt cho ngựa ăn.
Chúng tôi đưa ngựa đi uống nước và buộc vào cọc xong thì ông Cooley vượt qua một ngọn đồi từ phía nam về tới nơi. Một ông già lang thang đã xuất hiện, ngăn không cho ông vượt qua cánh đồng như chúng tôi nên ông phải đi vòng quanh những ngọn đồi để trở về. Ông đã tìm thấy con chó tại nơi chúng tôi hạ trại đêm trước.
Ở đây, lúa mạch và lúa mì khá tốt, bắp không xấu lắm, nhưng dĩ nhiên vẫn cần có mưa nên mọi người đều chán nản, bực bội và keo kiệt.
Cũng có ở đây những cây dâu tây dại và những con rắn đuôi chuông cực độc.
Chủ nhật 29 tháng bảy.
Nấu nướng bữa điểm tâm, tắm rửa và nằm quanh quẩn dưới bóng của mấy cỗ xe. Nhiệt độ là 96 độ. Nghỉ trọm ngày và đi ngủ sớm.
30 tháng bảy.
Khởi hành đúng 8 giờ và hai mươi phút sau vào địa phận hạtColfax. Lúc 10 giờ đi ngang Leigh, một thị trấn nhỏ sinh động. Mùa màng cũng vậy nhưng đường xá ở đây không phải lên đồi xuống dốc.
Chúng tôi hạ trại trong rừng, bên bờ suối Shell. Một địa điểm thật tuyệt, đẹp hơn cả nơi chúng tôi hạ trại bên bờ sông Jim. Bà Cooley cùng tôi và mấy đứa nhỏ đi lội nước. Bờ thẳng đứng tới nỗi chúng tôi phải dựa chắc vào nhau để đẩy và kéo nhau lên. Chúng tôi lội và chơi đùa trong làn nước mắt rượi. Rose ngồi bệt trong nước, té tát! Chúng tôi tìm được hai con trai lớn.
31 tháng bảy.
Trong đêm gió thổi dữ dội. Chúng tôi cảm ơn vì có được những cây lớn che bớt gió. Chắc ở đâu đó có mưa vì mực nước suối dâng cao thêm 8 inch.
Khởi hành lúc 9 giờ. Chúng tôi đi trong thung lũng bên dòng suối trên một con đường bằng phẳng khá đẹp.
Buổi trưa tới gần Schuyler. Tất cả đường đi đều bằng phẳng. Tại đây chúng tôi ráp lại bánh xe nên 3 giờ mới ra đi. Tôi gặp một người phụ nữ rất hay. Bà ta lái chiếc xe độc mã và lên tiếng hỏi chúng tôi đi đường có nóng không. Tôi thấy thích bà ta và chúng tôi nói chuyện một hồi lâu. Chồng bà ta sở hữu một nông trại lớn ở phía bắc Schuyler nhưng trong ba tuần nữa, họ sẽ đi về miềnWest Indies. Họ là người Gia Nã Đại, nhưng chồng bà ta ởWest Indieskhi còn là một cậu bé và họ đã sống ở đó nửa đời người.
Họ ngỡ là thích sống ở đây nhưng đã thấy không đúng như thế nên họ lại cho mướn trang trại và bà ta cho rằng vợ chồng bà ta sẽ sống tại West Indieskhi họ về tới đó. Bà ta nói cuộc sống ở đó rất buồn nản nhưng dễ chịu, mọi công việc đều do gia nhân làm. Bà ta biết hết về Dakota và những điều bà ta biết đều thực tế. Bà ta là một người lớn tuổi và tôi nghĩ là người Tô-Cách-Lan.
Đất phía nam Schuyler cách sôngPlattekhoảng hai dặm là đất cát. Chúng tôi qua sôngPlattetrên một cây cầu dài nửa dặm dồn cao ở chính giữa khiến chúng tôi phải lên xuống như qua một ngọn đồi. Sông đầy những thanh cản cát để giữ cho dòng nước chảy.
Qua bên kia sông nửa dặm, chúng tôi hạ trại trong một rừng liễu. Gia đình Cooley la cà trong thị trấn cho tới khi chúng tôi dựng trại xong vẫn chưa tới. Manly và tôi vội vã ăn bữa tối rồi để Rose trông chừng trại trong lúc chúng tôi “trút bụi” trả lại dòng sông vì tôi có thể lội nước khi trời còn sáng.
Nước trong, ấm. Cát cũng ấm và trượt nhẹ. Chúng trượt dưới bàn chân tôi khi tôi lội nước và tiếp tục trượt khi tôi dừng lại. Thật thú vị khi tôi đứng im cho cát phủ đầy các bàn chân. Khi Manly nhắc đã “trút bụi” thì chúng tôi lại “xúc cát” về.
Trên đường quay về, chúng tôi thấy một con rắn và hai con cóc lớn. Chúng tôi đi vào một bãi chăn nuôi và thấy một vài cây lớn. Cát trôi khỏi những cây này cho tới khi gốc cây lộ ra cao hơn đầu tôi với chiếc rễ xương xẩu, trần trụi. Tôi có thể đi qua giữa những chiếc rễ này và chỉ cần hơi cúi xuống một chút.
1 tháng tám.
Trong đêm có mưa nhỏ. Khởi hành lúc 8 giờ 40 và đường bằng phẳng cho tới buổi trưa nhưng suốt buổi chiều thì lên xuống đồi một cách dễ sợ. Chúng tôi hạ trại bên suối Oak trong một khu rừng thưa, giữa những cây sồi, một điểm hạ trại dễ chịu nhất.
2 tháng tám.
Khởi hành trễ vì một con ngựa khập khiễng, con ngựa của ông Cooley. Họ phải chăm sóc bàn chân đau cho nó. Chúng tôi gặp một toán lưu động đang thu thuế đường sắt. Hạ trại sớm, chỉ cách suối Oak một khoảng đường ngắn.
3 tháng tám.
Khởi hành lúc 9 giờ. Đường rất dễ đi cho tớiLincoln, thủ phủ bangNebraskavà là một thành phố lớn đẹp. Từ khách sạn đầu tiên tới trụ sở bưu điện cách xa hai dặm. Tòa Thị chính hạt và trụ sở Viện Dân biểu là những tòa nhà lớn và nhà giam cũng vậy. Chúng tôi thấy hai người tù mặc quần áo kẻ sọc đứng ngoài cửa trong vòng tường bao. Một cỗ xe chất đầy những chiếc thùng mới nằm bên mé đường ở gần họ và tôi nghĩ đây là những thứ do tù nhân làm ra. Một bức tường đá cao bao quanh nhiều tòa nhà và nối liền phía sau của tòa nhà chính. Bên trong vòng tường có nhiều khu nhà nhỏ hơn giống như những xưởng máy và một tòa nhà giống như lò đúc.
Tám cỗ xe di dân kéo theo ba cỗ xe của chúng tôi xuyên qua nhiều đường phố trong thành phố. Tại Lincoln có những đường phố dành cho loại xe có động cơ. Pet và Pet nhỏ không sợ những chiếc xe này nhưng lũ ngựa của bà Cooley kinh hoảng phóng lên bờ đường khiến cỗ xe do bà điều khiển suýt bị lật. May là mọi chuyện đều ổn cả.(2)
(2) Paul không được phép điều khiển xe qua các thị trấn và những nơi nguy hiểm khác. Lúc đó, mẹ của cậu ta điều khiển xe và cậu ta không có trách nhiệm gì. Cậu ta đã bị coi rẻ và tôi cảm thấy nóng mặt do cách đối xử bất công ấy. Suốt phần đường còn lại, cậu ta đã điều khiển xe một cách hoàn hảo. George đi cùng xe với cậu ta, nhưng Paul chịu trách nhiệm về cỗ xe và lũ ngựa.
Hôm nay chúng tôi đã vượt qua mười một lạch suối hoặc vượt qua một lạch suối mười một lần, tôi không biết rõ và chúng tôi qua hồ Salt ở phía tây bắcLincoln. Chúng tôi hạ trại cách nhà giam cỡ một dặm đường. Nhiệt độ là 74 độ.
4 tháng tám.
Lên đường lúc 7 giờ 45, đường bằng phẳng rất đẹp và các nông trại đều có hàng rào bằng ván. Chúng tôi theo đường dây thép tới Beatrice, rồi không theo đường sắt mà đi ngang vùng nông thôn.
Chúng tôi đi ngang hồ Salt Nhỏ và hồ Salt Lớn. Ở đây vườn táo cũng thường gặp như nhà cửa.
Manly đổi một mồi lửa lấy một giở đầy táo lớn chín. Mận cũng gần như chín hết. Trước mắt chúng tôi, mùa màng có vẻ tuyệt vời nhưng mọi người đều nói với Manly rằng họ rất nghèo khổ và chưa kể đến chuyện không sản xuất được lúa gạo. Chúng tôi đã đi ngang những đồng lúa mạch tốt nhất mà Manly từng được nhìn thấy.
Đoạn đường dài mệt nhọc đưa tới một điểm hạ trại tốt và khi chúng tôi tìm thấy tại đó một dòng suối cạn không có cỏ mà chỉ có những khóm cối xay mọc trên cát. Hạ trại ở mé ngoài thị trấn.
Chủ nhật, 5 tháng tám.
Giống nhưchủnhật trước. Nhìn thấy năm cỗ xe của di dân. Bị mất chiếc nhiệt lượng kế.
6 tháng tám.
Khởi hành 8 giờ 30 và tới Bratrice vào buổi trưa. Tất cả bắp đều khô và không có bông. Lúa mì và lúa mạch đã thu hoạc xong và khá nhiều đất đã được cày.
Beatrice không lớn bằngLincoln, nhưng tôi nghĩ đây là một thị trấn khá đẹp. Chúng tôi thấy tòa nhà hành chính rất đẹp.
Suốt ngày đi đường thật tuyệt. Chúng tôi qua sông Blue ngay phía nam Beatrice, qua vùngBlue Springslúc 5 giờ chiều và lại qua sông Blue. Không thấy rõ thành phố vì chúng tôi lái xe đi ở phía ngoài từ hướng bắc xuống phía đông ngang qua một nhà máy xay chạy bằng sức nước. Một khúc sông hết sức đẹp chảy bên phía đông thành phố. Tôi không kể tới những vườn táo nữa vì ở đây có quá nhiều vườn táo.
Chúng tôi thấy tám mẫu táo giống cao chừng 12 inch gần vùngBlue Springs. Hôm nay, khá mát mẻ, nhưng hơi nhiều gió một chút.
7 tháng tám.
Lên đường lúc 7 giờ 30, chúng tôi qua ranh giới vào địa hạtKansasđúng 10 giờ 28 phút 15 giây. Dựa theo những gì chúng tôi nhìn và nghe thấy, miền đông namNebraskalà một vùng quê khá tốt, nhưng toàn thể thì vẫn “chẳng có gì tốt.” Tôi không thíchNebraska.
Đi ngang Suối Deer lúc 11 giờ. Khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi tới Marysville, khu trang trại lớn của hạtMarshalltrên bờ sông Blue. Tại đây có một nhà máy xay chạy bằng thủy lực với khả năng ba trăm thùng một ngày. Chúng tôi thấy rất nhiều ngôi nhà xinh xắn và hai tòa dinh thự nguy nga trong thị trấn. Bao quanh một tòa dinh thự này là một bức tường gạch cao năm bộ, dầy và kiên cố. Mỗi bên cổng chính có một con sư tử lớn bằng đá xám trong tư thế thu mình sắp phóng nhảy và mỗi bên cổng phụ có một con chó lớn cũng bằng đá xám đang nằm.
Phía bên kia Marysville, chúng tôi nhìn thấy một mẫu khoai lang với những dày khoai đầy lá xanh sậm bò kín mặt đất.
Hôm nay chúng tôi đã cho xe chạy hai mươi bảy dặm và hạ trại gần một ngôi nhà có hai người đàn ông đang uống rượu. Họ bị mất những cái bánh xe, muốn đổi chác ngựa... Manly đã có thời gian tống khứ họ đi không khó khăn lắm.
8 tháng tám.
Khởi hành lúc 8 giờ 30. Không lâu sau đã qua suối Little Elm, suối Big Elm và chạy xuyên những khu rừng du, sồi, tần bì, hồ đào, mao lương, óc chó thật đẹp. Nho, mận, lí mọc hoang đầy rẫy và có đủ mọi thứ tầm xuân và hoa hồng dại. Một cảnh tượng nhìn đã mắt.
Lại qua sông Blue, con sông quyến rũ, với dòng nước luôn mát rượi và trong vắt. Chúng tôi qua sông trên một cây cầu. Cầy này dài khoảng ba trăm bộ.Irvinglà một thị trấn nhỏ xíu, nhưng có một Hí Viện mái tròn giống như một nồi hơi.
Rồi chúng tôi lại qua sông Blue. Mỗi lần chúng tôi qua con sông này, nó lại như dễ thương hơn lần trước. Đất đã cải thiện ở đây giá từ mười lăm đến hai mươi lăm đô la một mẫu. Có thể mua một khu đất tám mươi mẫu trong thung lũng Blue đã được chuẩn bị tốt với giá ba nghìn đô la. Đất thấp đều là đất trồng tốt. Các vách đều có đá.
Chúng tôi hạ trại gần Springs Side, một cái tên thật hay. Mọi phía đều có những dòng suối. Tôi lấy nước từ một dòng suối chảy tràn trên đá cứng, mước mát và sạch.
9 tháng tám.
Khởi hành lúc 8 giờ 30. Đường đá và lên đồi xuống dốc khủng khiếp. Chúng tôi thấy một trại sữa xây bằng đá với một dòng suối chảy qua, một điều kì diệu. Đất tại hạtPottawatomie giá bốn đô la một mẫu.
Hạ trại bên mé Westmoreland, khu trung tâm của hạt. Vào giờ ăn tối, chúng tôi có khách, mấy người đàn ông, hai phụ nữ và một đám trẻ nhỏ. Họ là người sinh sống tại miền nam đang trên đường di chuyển lên miền bắc và hạ trại ở gần chúng tôi. Có lẽ họ tớiNebraskahoặc Dakota để kiếm việc làm.
10 tháng tám.
Khởi hành 8 giờ 30 và qua một vùng nông thôn khô kiệt nhất mà chúng tôi nhìn thấy từ khi rời khỏi Dakota. Chạy ngangLouisville, đi thêm ba dặm và hạ trại trên bờ sông Vermille mà một số người còn gọi làsuối Stony.
11 tháng tám.
Hôm nay không đơn điệu như thường lệ. Ba cỗ xe di dân vượt qua chúng tôi chạy về hướng nam và một cỗ xe chạy về hướng bắc. Manly và ông Cooley thay phiên hỏi chuyện mọi người. Năm cỗ xe đang đi về phíaMissourihoặcArkansas, một cỗ xe hướng tớiArkansas, một cỗ xe khác tới vùngIndian Territory.
Chúng tôi kiếm được chỗ hạ trại tốt trên một gò đất cao bên cạnh sông. Tôi cưỡi Pet nhỏ một lúc, trên chiếc lưng trần của nó, không đi đâu - nó đang được thả cho ăn cỏ. Hai di dân tới nói chuyện với tôi, một thanh niên và mẹ của anh ta ngồi trên cỗ xe của họ. Họ đã quen sống tạiMissourimới đi tớiColoradovà lúc này đang trên đường quay trở lạiMissouri.
13 tháng tám.
Xe chạy qua St.Mary’s. Một thị trấn dễ chịu nhưng xa lạ, hoàn toàn mang đặc tính phương nam và Thiên Chúa giáo. Có một ngôi nhà thờ lớn tuyệt đẹp với những khối đá cẩm thạch trắng muốt trên các khuôn cửa ra vào và hai bức tượng Đức Mẹ và Chúa hài đồng bằng cẩm thạch ở trong sân. Các ngôi nhà đều gọn gàng và xinh xắn. Một thị trấn phong quang.
Chúng tôi lái xe lên đỉnh một vách đất nhỏ trông xuống sôngKansasvà ở đó, trên trũng đất thấp, chúng tôi thấy những cánh đồng bắp trải dài tới hết tầm nhìn. Manly nói anh nghĩ có đến hàng ngàn mẫu đất trồng ở trước mắt.
Theo cách của chúng tôi, Manly tới một nhà trại đổi một mồi lửa lấy một ít bắp tươi về nấu bữa tối và chúng tôi được mời ở lại dùng bữa trưa và đưa ngựa của chúng tôi vào kho chuồng cho ăn no. Người phụ nữ đã ngưng làm việc để tiếp đón tôi. Người và cảnh ở đây đều hết sức dễ thương. Dĩ nhiên chúng tôi không thể ở lại. Chúng tôi không thể tiếp đãi họ để đáp lễ và chúng tôi phải tớiMissouricho kịp ổn định trước mùa đông.
Buổi trưa chúng tôi qua Rossville, một vùng nhỏ nhưng khi chúng tôi đi ngang một nhà ga thì xe lửa tới. Đầu máy xe lửa khiến Prince hoảng sợ và nó đâm vào hàng rào kẽm gai. Nó lao thẳng qua hàng rào, nhảy tới, đụng đứt một dây phơi quần áo rồi chạy ngược lại hàng rào. Nó ngưng lại khi Manly nói:
- Oa, Prince.
Và, Manly giúp nó gỡ ra khỏi dây kẽm gai. Nó chỉ bị một vết cắt dài khoảng một inch do kẽm gai xóc vào. Thật kì lạ khi nó vượt qua tình trạng đó như thế.
Dưa hấu đã chín và ê hề. Manly và ông Cooley mua những trái lớn với giá năm xu. Chúng tôi ngưng lại dưới bóng cây bên đường và tất cả đều mặc sức ăn dưa hấu.
Chúng tôi đi ngang căn cứ Kingsley ở cách thành phốKansas,Missouritám mươi dặm về phía tây và cáchDenver,Coloradonăm trăm năm mươi tám dặm về phía đông. Qua hồ Silver. Hồ ở phía nam thị trấn dài bốn dặm, rộng nửa dặm với nhiều cây lớn bao quanh. Có một địa điểm cho mướn thuyền.
Chúng tôi hạ trại trong sân một trường học. Có một hàng rào cây bao quanh và một ống bơm gần ngôi nhà, thêm một cây ngô đồng. Hai gia đình dừng xe lại lấy nước. Họ đã tớiMissourivà đang trên đường trở về nhà để giải quyết tài sản tạiNebraska, rồi sẽ quay trở lạiMissouri.
Bụi khủng khiếp. Chúng tôi hít bụi suốt ngày và mọi thứ đều đầy bụi phủ.
14 tháng tám.
Khởi hành lúc 8 giờ 30. Bụi trên đường dày từ ba tới năm inch và gió thổi không ngừng ở phía sau khiến chúng tôi luôn bị bụi bao phủ. Dọc đường là những hàng rào cam Osage cao hai mươi hoặc ba mươi bộ mọc khít nhau. Cây đều xù xì gai. Trái của chúng giống như trái cam thường nhưng ăn không ngon và cũng không dùng làm gì được hết.
Chúng tôi dừng lại ăn bữa trưa ở cáchTopekachừng một dặm rồi cho xe chạy thẳng vào thành phố. Có rất nhiều người da màu sống xung quanh thành phố. ỞTopekaBắc, xe chở khách là xe điện còn ởTopekaNamlà xe động cơ.