Từ dạo ấy, tôi không trèo lên mái nhà nữa. Nhưng Mây vẫn leo, thả những con chim giấy cho bay tứ tán, xem cái hạt đã nảy mầm hay chưa.
Khi Custas ra đi, gã khờ ấy cho chúng tôi một hạt giống, giương to con mắt lồi bảo rằng đó là đậu thần đấy. Nếu có đủ nắng và nước và chăm sóc cẩn thận nó sẽ nảy mầm cho xem, và vươn cao thật cao về phía đỉnh của bầu trời. Gã dùng hay hươ hươ miêu tả, nói với cái giọng chắc nịch như con nít kể chuyện có ông tiên. Gã đi rồi, tôi không thèm cái hạt, liền trèo lên khoang trên, thảy nó cho Mây rồi hất hàm:
-Mày trồng đi!
-Sao là tao? – Nó hỏi.
-Tao không muốn trồng.
-Để nó đâu? – Mây nheo mắt ngắm nghía cái hạt đen thùi, nhăn nheo.
-Đâu cũng được.
-Mái nhà héng!
-Tuỳ cưng!
Mây lấy một cái ly nhựa – loại dùng uống nước – hốt ba nắm đất từ cái chậu quế của nó bỏ vào, vùi cái hạt xuống và tưới ít nước. Sau đó Mây theo đường thang, trèo lên mái nhà, và đặt cái ly đất xuống thanh xà chúng tôi vẫn hay ngồi lên ngắm sao ngắm trời, sát bên cái miệng ống khói.
Tôi im ở tầng dưới, cố gắng không để ý gì đến cái hạt, hoặc xem nó sống chết ra sao. Tôi mở máy hát om sòm những bài tiết tấu mạnh. Nhưng giọng Mây còn lớn hơn tiếng nhạc. Vào tầm giữa trưa hay lúc trời xế tàn, nó trèo ra ngoài thang, xuống ngang cửa sổ chỗ tôi, thò đầu vô hét to khủng khiếp về tình hình cái hạt.
Một tháng nay, câu duy nhất nó thông báo với tôi là: “Chưa lên mày ơi!!”
~
Nơi chúng tôi ở là một thể chắp vá, như được nâng đỡ bởi phép màu. Một cái ống khói bằng gạch và đất nung cao thật cao, đâm ra từ lòng đất, vượt trên hẳn những mái lều tạm cư lô xô. Từ miệng ống nhìn xuống đất phát chóng mặt. Tuốt trên miệng có ba cái khoang bằng gỗ và kẽm xếp chồng lên nhau, gắn liền vào thân ống bằng những sợi cáp bằng nhôm và thừng vòng quanh thân và sít chặt ở những mối nối. Bên dưới tầng thấp nhất có ba cái chạc chống để đỡ. Trước cuộc di dân, nghe nói ba cái khoang ấy thường có lũ bồ câu, vịt trời và cò trú ngụ. Trên nóc mái gắn một cái ống nhòm để quan sát phía xa xa kia, những cuộc xung đột sắc tộc diễn ra dữ dội bên kia hàng rào đánh mốc. Cái ống khói đóng vai trò như một tháp canh của quân phòng vệ tự lập. Người ta gắn một cái thang sắt và một cái bánh ròng rọc nhỏ để làm phương tiện lên xuống. Còn bên dưới lòng đất là một nhà máy than mỏ đã tắt ngúm từ lâu.
Khi chúng tôi đến, tất cả những nhà tạm cư cho dân tị nạn đều đã chật cứng. Ba đứa chúng tôi rời bỏ miền đất cũ và đến đây không hề định trước và đều muốn có chỗ trú chân. Chúng tôi được chỉ nhìn lên cái ống khói và ba cái khoang ngất ngưởng bên trên cả lưng chừng, biết rằng đấy là chỗ cuối cùng chúng tôi có thể nằm xuống ngủ một giấc bình an.
Không cần bảo nhau thành lời, tôi, Mây và Custas tranh nhau trèo lên cái thang sắt, lưng đeo ba lô. Mây chiếm khoang cao nhất, lên đến đó thì nó gần như ngất xỉu. Tôi được khoang kế. Còn Custas, do mãi loay hoay với cái túi đàn nên đành ở dưới hai đứa tôi. Ban đầu, ba cái khoang giống như chuồng chim thứ thiệt, nghĩa là đầy rơm rạ, vỏ trứng vỡ, xương xẩu lông cánh và mùi phân thum thủm. Nhưng có cửa sổ để gió lùa vào lồng lộng, vậy là đủ.
Đêm đầu tiên ngủ trong “nhà”, tôi mở mắt thao láo nghe tiếng lục đục mãi của Mây bên trên và tiếng búng dây đàn của Custas bên dưới. Có tiếng máy bay và tên lửa đạn đạo khe khẽ lướt qua trời nổi nhiều gió.
Chúng tôi bắt đầu sống kế cận nhau ở một nơi kỳ quặc như thế. Cũng hơn nửa năm. Rồi tự dưng, như sao băng vừa rụng cái rầm xuống đất, Custas bảo rằng gã sẽ đi.