Ngục Thánh

Thời tiết Băng Thổ nói chung chia thành ba mùa: mùa xuân, mùa ẩm và mùa khô. Liệt Giả thấy quá nhiêu khê. Với anh, xứ băng giá này chỉ có một màu ảm đạm lạnh ngắt. Liệt Giả khá phiến diện. Anh chưa từng thấy những khoảnh rừng lá kim xanh mướt ở Băng Hóa quốc, ngọn thác lớn xắt ánh bình minh làm hai ở Thung Lũng Tuyết Tan hay con sông chở những khối băng trắng xanh chảy quanh Đô Thạch thành. Chưa kể anh đặt chân tới phương bắc chưa lâu. “Phiến diện dẫn tới thành kiến, mà thành kiến luôn xa sự thật hơn ngu ngốc” – Thầy Tây Minh hễ có dịp lại lên lớp anh như thế. 

Nhưng nếu thấy tình cảnh của anh lúc này, thầy Tây Minh buộc phải thông cảm phần nào. Liệt Giả đang cuốc bộ trong vùng đầm lầy phía tây Băng Thổ, hai chân bì bõm lội bùn, ủng ùng ục những lớp sình, đôi lúc vô tình bươi lên xác động vật thối rữa. Đã sáu tiếng liên tục như thế. Liệt Giả cảm giác mớ bùn sình đã tràn qua giày chống thấm, ngọ ngoạy giữa các kẽ ngón chân, lầy lầy nhơm nhớp. Nửa thân dưới tệ là vậy, nửa thân trên cũng chẳng khác hơn. Đang mùa ẩm nên tuyết không đặc hẳn mà sũng nước, vừa lạnh vừa ướt, giống món đá bào mà mọi đứa trẻ con thích mê mệt. Nhưng thứ “đá bào” đang ụp xuống đầu đây, Liệt Giả mê không nổi. Chúng đọng khắp quần áo, ngấm ẩm xuống da thịt mà mỗi lần gió tràn qua lại cào cái rét buốt óc. Liệt Giả rùng mình nhớ lại chuyến đi Mù Thủy tháng trước, dưới những cơn mưa bất tận, lần đó anh như bức tượng đất sét chảy nhão. Người chết cũng ngán xứ Băng Thổ! – Liệt Giả ngán ngẩm. 

Ngay lúc này, nếu được hỏi có yêu thứ gì từ Băng Thổ không, Liệt Giả chẳng do dự mà trả lời: “Gà đùi heo!”. Thứ đó đang theo chân anh với đống hàng hóa chất đầy hai bên cánh, đôi chân to lớn bọc sừng miệt mài ủi lớp đất nhão tiến bước. Nó là dã yến – loài quái vật vốn quá quen thuộc với dân bản địa. Còn trong mắt Liệt Giả, nó chẳng khác con gà được gắn thêm hai khúc giò lợn to tổ bố. Những lúc đường bằng phẳng ít bùn hơn, Liệt Giả có thể trèo lên lưng con quái vật tạm nghỉ mệt. Dã yến khỏe, đèo thêm hai người như anh chẳng thành vấn đề, chỉ cần được hối lộ vài quả lê mọng nước là xong. Quan trọng hơn, nó chịu nghe anh càm ràm mấy chuyện vớ vẩn của loài người. Có thể trong mắt con dã yến, anh chỉ là một loài hai chân xì xồ mấy âm thanh phức tạp, chẳng giống tiếng “grù… grù…” đơn giản mà nó giao tiếp với đồng loại. Đơn giản là nó không quan tâm. Nhưng với Liệt Giả, vậy là đủ. 

Người và thú vẫn lầm lũi. Con đường phía trước ngày càng lầy lội, ngay cả dã yến cũng di chuyển khó khăn. Liệt Giả kéo dây cương giúp con quái vật tránh một hố bùn, vừa đi vừa thở:

-Mấy giờ rồi? Sao tối thế nhỉ? Mới năm giờ chiều? – Liệt Giả trố mắt nhìn đồng hồ đeo tay – “Mèo Hen” đâu nhỉ? Sao hắn chưa tới? Hay gặp chuyện rồi? 

Người ngừng bước, con dã yến dừng theo và thở phà phà khói lạnh qua lỗ mũi. Ngẫm ngợi ít phút, Liệt Giả tiếp tục hành trình, tay vỗ vỗ cái cổ xù lông của con thú:

-Mày gặp “Mèo Hen” rồi nhỉ, đùi heo? Hôm ở doanh trại, hắn là thằng thư sinh chết trôi đó… Mèo Hen đấy! Cậu ta sẽ ổn thôi. Đang trong vùng an toàn, quân đội Băng Hóa không có ở đây. Mà kể cả có, Mèo Hen sẽ thoát được. Hắn làm thế nhiều rồi. Hắn sẽ đúng hẹn thôi! Này anh bạn, nghe tao nói một chút đi chứ?! Không có tao thì mày đã vào nồi của bọn phiến quân, hiểu chửa? Tỏ lòng biết ơn coi!

Con quái vật rúc mấy tiếng rục rùi xua một lũ ruồi nhặng đậu bên tai. Dường như nó chẳng quan tâm kẻ dắt cương nói gì. Nhưng Liệt Giả cũng không lấy thế làm phiền. Im im ít phút, anh lại mở lời như thể con dã yến là bạn tâm giao của mình:

-Mày nghĩ tao cùng mấy ông bạn được về nhà không? Tao thì không. Tao cảm giác cuộc chiến tài nguyên này sẽ kéo dài vô tận. Nếu may mắn sống sót, tao sẽ kết hôn với một cô gái, có một cậu con trai, thằng nhóc sẽ trở thành chiến binh hoặc nối nghiệp thánh sứ như cha nó, và nó sẽ quay lại chiến trường này. Sẽ là một vòng tuần hoàn? Tao không thích thế. Mày không biết đâu, đùi heo; ba năm trước, tao và hai anh bạn bước vào cuộc chiến; bọn tao hứa với nhau rằng sẽ về nhà trong sáu tháng, sau đấy cả ba sẽ kết hôn cùng ngày. Chuyện vui, phải không? Nhưng hết Thượng Cổ, Đông Thổ, Kim Ngân và giờ là Băng Thổ. Ba năm rồi, đùi heo ạ! Chẳng ông vua nào chịu nhả những mỏ quang tố hết. Mấy ngày nay tao đã nghĩ vài thứ… hình như chẳng có cái gì chuyển động thẳng, tất cả đều chuyển động lệch. Cả tao, Mèo Hen, Tàu Hỏa, và mày nữa, đùi heo, tất cả đều chuyển động lệch. Bởi thứ lệch này mà Phi Thiên đánh nhau với Băng Hóa, còn tao lẫn mày chết dí ở đây.

Con dã yến trượt chân, Liệt Giả theo phản xạ đỡ lấy. Con quái vật nặng hơn ba tạ cộng thêm hàng hóa dồn xuống làm anh lún sâu vào bùn, hai tay run bần bật. Liệt Giả gắng gượng đẩy lên từng chút một. Sau rốt con dã yến đã lấy lại thăng bằng, nó cúi đầu giúp Liệt Giả có điểm tựa để thoát khỏi mớ bùn. Người và thú giúp nhau từng chút rồi tiếp tục chuyến đi. Liệt Giả thở dài:

-Nhưng cứ phàn nàn thì bao giờ mới hết chuyện? Những kẻ phàn nàn nhiều nhất thường làm ít nhất và làm không ra gì. Một đoàn người tị nạn cần chúng ta giúp đỡ. Phải khẩn trương trước khi Lực Lượng Mù Thủy tìm thấy họ…

Đương thao thao độc thoại, Liệt Giả bỗng im bặt. Ít nhiều sức lực đã bỏ rơi anh nhưng cái nhạy bén thì chưa. Anh nghe được tiếng đất bùn khẽ bì bẹp dưới những bước chân thận trọng và lẹ làng. Phải là một kẻ kinh nghiệm mới làm được như vậy trong vùng đất lầy lội hôi hám này. Nhưng không may cho kẻ đó khi Liệt Giả đang ở đây. Thánh sứ vốn nhạy cảm hơn người thường, Liệt Giả lại càng trội hơn. Anh vội lùa tay vào cái túi treo bên hông con dã yến, lôi ra pháp trượng cùng một khẩu súng. Liệt Giả có lý do để chiến đấu trong bộ dạng tức cười như thế. Ba năm chiến tranh dạy anh rằng những lúc cần kíp, một viên đạn có giá trị hơn cả tấn phép thuật. Thấy Liệt Giả tỏ vẻ nghiêm trọng, con dã yến bèn thu mình nấp sau anh như một phản xạ tự nhiên. 

Cả vùng đầm lầy im ắng, âm thanh lạ mỗi lúc tiến gần đến Liệt Giả. Anh dang rộng tay, pháp trượng xập xòe lửa điện sẵn sàng quyết chiến. Chờ mãi, chờ mãi, rồi Liệt Giả thở phào khi thấy một người mặc áo lính Phi Thiên quốc thò mặt ra từ thân cây. Trông bộ dạng nghiêm trọng quá thể của anh, gã lính nọ nhe răng cười tinh quái. Liệt Giả vỗ vỗ cái cổ xù lông của con dã yến:

-Đừng sợ, là bạn chúng ta. Mèo Hen đấy! Con mèo chết trôi đấy! Chào hỏi cậu ta đi chứ, đùi heo?

Như thường lệ, con quái vật không quan tâm lời Liệt Giả, nó chỉ cần biết nguy hiểm đã qua và thôi xù lông cánh. Trong lúc ấy, Liệt Giả bá vai bá cổ anh chàng nọ như thể lâu ngày không gặp. Họ hỏi han nhau vài câu rồi tiếp tục lên đường. Không có “xe” thồ hàng như Liệt Giả, gã Mèo Hen phải tự mình khuân vác nào ba lô nào túi, vũ khí cá nhân, túi y tế, dụng cụ – từng cân từng khối chất chồng dồn xuống thân hình mảnh khảnh thư sinh của anh ta. Nhưng gã Mèo Hen vẫn bước những bước lẹ làng mà chỉ những loài vật thính tai hoặc thánh sứ nghe thấy. Anh ta băng băng đường bùn bãi lầy, thi thoảng quay lại tếu táo với Liệt Giả. 

Có thêm người đồng hành, Liệt Giả nhẹ nhõm hơn. Không đương dưng anh kể lể chuyện giời ơi đất hỡi với “đùi heo” dù con quái vật chẳng hiểu. Bởi anh luôn cần một ai đó để đối thoại hoặc lắng nghe mình. Thứ khao khát đó luôn hiển hiện trên gương mặt Liệt Giả, anh cũng không giấu giếm nó nên đôi lúc làm phiền nhiều người. Anh biết có vài lời xì xào về mình. “Gã kỳ quặc”, “tên nhà quê”, “anh chàng ngốc”… anh biết họ gọi mình như thế. 

-Chuyện với Dạ Bích thế nào, tóc đỏ? – Gã Mèo Hen lên tiếng – Hai người đến đâu rồi?

Bị hỏi đột ngột và hỏi khó, Liệt Giả gãi đầu:


-Khó nhằn lắm! Chắc cậu không tin nổi đâu… con nhỏ đó là con nuôi của thầy Tây Minh. Đừng trố mắt thế, thật đấy! Dính phải “con thầy” rồi, ông bạn ạ!

-Thật á? Ôi Vạn Thế! – Mèo Hen ôm bụng cười ngặt nghẽo – Nhưng cô ta được đấy chứ?! Triển khai thôi, tóc đỏ. Con thầy gì chứ? Triển khai thôi, trước khi thầy Tây Minh ngăn cản!

Liệt Giả cười theo. Trong số những người quen biết, chỉ mình Mèo Hen chủ động bắt chuyện và sẵn sàng tào lao hươu vượn với anh cả ngày. Hoặc giả như anh muốn nói, Mèo Hen sẽ nghe anh thao thao bất tuyệt. Ngay cả mẹ – như Liệt Giả vẫn nhớ và yêu thương – cũng không chịu được khi anh hỏi quá nhiều. Anh quá hiếu kỳ còn mẹ thì quá bận rộn. Sau ngày mẹ mất, anh chẳng còn ai để hỏi hay trò chuyện. Cái khao khát “được nói và được lắng nghe” bị bọc lại, gói ghém cùng mớ hành lý ít ỏi theo chân anh qua nhiều nơi, nhiều vùng đất, cuối cùng là Phi Thiên quốc. Nó chỉ được mở ra cho tới ngày anh gặp Mèo Hen tại trường thiếu sinh quân. Ở một nghĩa nào đó, Mèo Hen là phiên bản cao cấp so với con “đùi heo”, không chỉ chịu nghe Liệt Giả nói mà còn đối đáp, bày trò trêu chọc anh nếu cần. 

Hoặc theo một nghĩa dễ hiểu hơn, anh gọi đó là “bạn”. 

Trời tối nhanh, đường đi bớt trơn trượt, sình lầy ít hơn nhưng cây cối ngày càng um tùm. Liệt Giả và Mèo Hen thôi nói chuyện, tập trung tìm lối đi. Hai người rẽ vào nhiều lối mòn ẩm ướt ngoằn ngoèo giữa rừng cây lá kim và tiếng kêu của bọn thú ăn đêm. Họ tách nhóm, người đi trước dẫn đường kẻ đi sau bọc hậu, cảnh giác cao độ. Ba năm chiến đấu chung, họ không cần nhiều ám hiệu hay tín hiệu để thiết lập đội hình. Mọi thứ đều là bản năng. Trong thời đại Chiến Tranh Tài Nguyên này, chiến binh không cần luyện tập bởi cái chết tìm đến họ mỗi ngày. 

Đi thêm một quãng chừng tám trăm mét, hai người dừng chân trước những ánh sáng phía sau rừng. Không giống cái ổn định của đèn điện, những mảng sáng nhập nhoạng như ánh lửa. Họ tiến đến quan sát và nhận ra đó là một đoàn tị nạn khoảng năm chục người, nam nữ già trẻ đủ cả. Họ chỉ kịp nhóm lửa sưởi ấm, còn đâu nằm vạ vật khắp con đường bùn đất, hành lý vương vãi lấm lem tựa thể vừa bị cướp bóc. Trước lúc đến đây, Liệt Giả được báo rằng đoàn tị nạn đến từ chiến trường phía bắc cách đây bốn chục cây số, họ đã chạy trốn suốt ngày đêm. Anh cùng Mèo Hen được cử đi thám thính, hỗ trợ nhu yếu phẩm và dẫn đoàn tị nạn tới vùng an toàn. 

Thấy tình hình bình thường, bọn Liệt Giả lộ diện. Vì kiệt sức, đám nạn dân chẳng thèm truy vấn những kẻ lạ mặt. Họ vội vã nhận thuốc men, quần áo, đồ vệ sinh cá nhân rồi ngấu nghiến những miếng lương khô cứng ngắc xạm xầy. Đoàn tị nạn đông, Liệt Giả hay Mèo Hen không thể mang những khẩu phần chế biến nóng sốt. Hai người phải dành chỗ cho dụng cụ y tế và quan trọng nhất là máy lọc nước. Vùng đầm lầy nhiều nước bao nhiêu, nước sạch khan hiếm bấy nhiêu và chỉ có thể lọc từ tuyết. Trong chiến tranh, khát kinh khủng hơn đói. Cũng bởi khát, nhiều người không thể kìm lòng trước những vũng nước dọc đường, để giờ bụng trương phình hoặc nôn mửa vô tội vạ. Anh chàng trước mắt Liệt Giả là thế. Gã quằn quại ôm bụng, dạ dày phính căng, mặt tím tái không còn hột máu, hỏi mới biết đã nhét vào bụng đầy tuyết lẫn nước tù đọng cạnh vũng lầy. Liệt Giả đeo găng tay y tế đoạn cho anh chàng nọ uống thuốc:

-Hơi khó một tí nhưng sẽ qua thôi. Cố gắng nôn… thở đều…

Gã nọ ôm bụng cố nôn mà không nổi. Liệt Giả đành thò tay móc học anh ta, được một lúc thì hàng đống thứ lổn nhổn cùng dịch dạ dày túa ra như suối. Liệt Giả thấy trong mớ đó còn ngọ ngoạy thứ gì như giun đỉa. Anh bụm miệng, quay đi chửi thề một tiếng rồi giúp người nọ nôn tiếp, bụng xẹp xuống mới ngừng. Xong việc, Liệt Giả lại giúp người khác với tình trạng tương tự. Phía bên kia, người đồng hành Mèo Hen đang bận rộn phẫu thuật cho người bị trúng đạn. Hai người cứ miệt mài như thế cho tới đêm muộn. 

Khi tất cả ổn định, Mèo Hen tạm nghỉ, còn Liệt Giả tiếp tục công việc của thánh sứ: cầu nguyện và ban phước. Vừa thấy đôi cánh trắng bạc xuất hiện sau lưng Liệt Giả, các nạn dân tự động vây quanh anh, tựa thể họ coi anh là cứu tinh, là đấng cứu thế. Khi cầu nguyện, người Phi Thiên và phương tây nói chung đặt tay trong lòng, miệng lầm rầm những điều răn. Ở đây khác hơn. Dù mệt lả đói khát nhưng đám người Băng Thổ đặt tay lên tim một cách mạnh mẽ, Liệt Giả cầu nguyện tới đâu, họ đọc theo đầy thành khẩn tới đó. Liệt Giả chỉ biết người Băng Thổ qua binh lính, đội đánh thuê hay những cuộc chiến sinh tử với họ. Anh ghét họ mà cũng tôn trọng họ. Nhưng tại nơi này, anh chỉ thấy những ông già, thanh niên, phụ nữ và bọn trẻ. Họ cũng là con người chẳng khác anh, chẳng khác Mèo Hen, chẳng khác thầy Tây Minh hay người Phi Thiên quốc. 

Lúc bình thường, con người định dạng bằng danh xưng, địa vị, thành tích, nghề nghiệp, quốc gia, tôn giáo… Nhưng trong chiến tranh, mọi thứ bị bóc hết, con người chỉ còn da, thịt, xương và máu. Trần trụi tới khốc liệt. 

Cầu nguyện kết thúc, Liệt Giả qua chỗ Mèo Hen và con “đùi heo”. Anh có hai tiếng nghỉ ngơi trước khi dẫn đoàn tị nạn đến nơi an toàn. Những lúc thế này, anh thường không ngủ mà trò chuyện miễn sao còn người nghe. Bởi vậy nên chẳng mấy ai hợp tác lâu dài với Liệt Giả. Một năm nay, anh hoạt động đơn độc mà không có hộ vệ. Đôi khi anh sa thải hộ vệ vì người dùng kính ngữ với anh quá nhiều, người thì thờ ơ, số khác miễn cưỡng trả lời. Anh chỉ cần ai đấy chịu lắng nghe, chỉ như vậy. Mèo Hen là một trong hai người như thế. 

Lúc này, gã lính Mèo Hen đang nấu lương khô trong cái can nhỏ. Anh ta bỏ vào vài viên kẹo mềm lẫn cứng, dùng dao găm cắt vài món cây cỏ làm gia vị rồi quậy đều cũng bằng con dao đó. Được dăm phút, gã lính mang ra một hỗn hợp đặc sệt cam đỏ tím vàng và mấy màu nữa mà Liệt Giả nhìn không ra. Vừa nâng cái can, Mèo Hen vừa giới thiệu như một nhà ẩm thực giới thiệu món ngon: 

-Mấy thằng trong đội của tôi gọi món này là “cứt bảy màu”. Mà đúng là nó giống… thôi, anh bạn, vì tấm lòng người bạn mà ăn đi!

Liệt Giả buột miệng chửi thề, cười khùng khục rồi nhận lấy. Thứ hỗn hợp thổ tả chắp vá đầy màu hóa ra ngon hơn anh tưởng. Giữa cơn mệt lả này, nó như một món ăn cao cấp nhất do đầu bếp thượng hạng nhất chế biến trong nhà hàng sang trọng nhất. Liệt Giả ăn vội, loáng cái hết sạch. Anh nhờ Mèo Hen làm thêm cho mình và cho bọn trẻ trong đoàn tị nạn. Mèo Hen bày thêm hộp, lon hay bất cứ thứ gì có thể đựng trên đống lửa. Gã lính vừa nấu vừa cười:

-Cậu vẫn tốt với người ta như thế, nhỉ? Ban nãy họ… – Mèo Hen chỉ con dao về đám tị nạn – …gọi cậu là “Uyjiluk Sukka”. Muốn hiểu không? Là “thằng con hoang chó đẻ”. Nhưng thấy cậu là thánh sứ, họ thay đổi thái độ ngay. Hay đấy chứ?

-Con người cả thôi! – Liệt Giả lắc đầu đoạn dựa lưng vào con “đùi heo” đang say ngủ – Dù gì chúng ta cũng là khách không mời. 

-Phải, thực tế chúng ta nên xéo khỏi đây càng nhanh càng tốt. – Mèo Hen đáp, tay nguậy mấy cái lon bằng dao găm – Chúng ta chống khủng bố nhưng cũng tiện tay chiếm mỏ quang tố mà đáng lẽ phải thuộc về người Băng Hóa. Hà! Thánh sứ như cậu còn được coi trọng, còn lính lác chúng tôi bị dân Băng Thổ chửi bới suốt. Nhưng chúng tôi đâu còn cách nào? Hà! Cuộc đời người lính chỉ là con dao găm, tóc đỏ à!


Mấy chiếc hộp và can sôi sùng sục. Liệt Giả bắc chúng lên tuyết cho nguội bớt, sau đem cho lũ trẻ và người già của đoàn tị nạn. Anh trở lại chỗ ngồi bên con “đùi heo” đoạn tiếp lời:

-Vì thánh sứ có giá. Ý tôi là bán được giá. Chắc cậu biết nếu phe nào tóm được một thánh sứ sẽ yêu cầu tiền chuộc, phe kia tất nhiên phải trả. Mất thánh sứ là mất toi hàng đống của nả lẫn chi phí đào tạo, chẳng nước nào muốn thế. Nhớ đầu tôi đáng giá bao nhiêu không? Bốn thùng kim cương! Thế nên những thánh sứ như tôi được ưu tiên bắt sống chứ không nên giết. Tôi không hơn cậu tí nào đâu, con mèo chết trôi, chỉ là món hàng giá trị hơn thôi. 

Mèo Hen cười:

-Cũng đúng. Nhưng nhìn khía cạnh khác, đổi chác kiểu đó chẳng phải nhân đạo hay sao?

-Cái gì nhân đạo? – Liệt Giả nhíu mày.

-Tất cả đều cần cầu nguyện, được ban phước lành. Binh lính, dân chúng, thậm chí bọn phiến quân. Con người cần giới hạn để biết đâu là thú, đâu là người. Thánh sứ làm những việc đó và chỉ thánh sứ mới biết làm. Gửi trả thánh sứ để xoa dịu chiến tranh, cái đó không nhân đạo thì cái gì mới nhân đạo?

Liệt Giả ngẩn người, tưởng chừng có khe nứt ánh sáng trong bộ óc bùng nhùng mỏi mệt của mình. Nghĩ hồi lâu, anh bật cười và thầm khen Vạn Thế khéo nặn một ông bạn hợp cạ với mình. Anh chuyển chủ đề:

-Bất Vọng thế nào? Cái tàu hỏa ấy sao rồi?

-Không tốt. – Mèo Hen đáp – Đội Kiếm Sắt mắc kẹt, bị đánh tứ phía. Họ cần viện binh nhưng Phi Thiên đang thiếu nhân lực. Cậu thấy đấy, chỉ tôi với cậu mà phải bảo vệ cả chục người. Nghe đâu Đội Kiếm Sắt mâu thuẫn nội bộ, tay thủ lĩnh đòi giữ cứ điểm còn Bất Vọng muốn rút. Cậu biết ông bạn của chúng ta rồi, hắn nể ai bao giờ? Lệnh cấp trên mà hắn bật tanh tách như tôm, đại thống lĩnh đang họp mà hắn dám chen ngang góp ý. Ờ thì sếp của hắn toàn thằng ngu, nhưng làm thế hơi quá. 

-Hồi học trường thiếu sinh quân, hắn dám chửi hiệu trưởng kia mà! – Liệt Giả cười khùng khục – Được rồi, đưa đoàn tị nạn tới nơi, chúng ta sẽ tới đó giúp hắn. Nhưng phải có lệnh điều động. Ở tiền tuyến này chỉ có mình tôi là thánh sứ, hy vọng ban quân sự sẽ lắng nghe. 

Mèo Hen bẻ bó cây khô, ném từng cọng nhỏ vào đống lửa đương tí tách:

-Đừng cố quá. Quyền quyết định vẫn thuộc về các thống lĩnh. Họ không đồng ý, cậu không được đi. 

Liệt Giả lắc đầu:

-Tôi sẽ thuyết phục họ. Tôi đã không thể cứu nhiều người. Thánh sứ phải cứu người chứ không chỉ ban phước hay lẩm bẩm cầu nguyện. Kể cả một con bò cũng có thể ban phước hay cầu nguyện nếu nó biết nói. Chúng ta không thể về nhà sớm, nhưng chúng ta phải về nhà nguyên vẹn. Cả ba chúng ta, đặc biệt là Bất Vọng. Hắn còn Cách Lan, đúng không? Hắn còn lễ cưới. 

Nghe đến đó, Mèo Hen nửa cười nửa thở dài. Anh chàng gọt vỏ mớ quả dại, ném cho Liệt Giả một ít rồi nhai nhồm nhoàm:

-Hồi trước, tôi bảo Bất Vọng cưới thì hắn cứ nhùng nhằng. Thằng nhát cáy ấy! Thời chiến tranh này ai cũng cưới sớm, chẳng hiểu hắn đợi cái gì nữa? Phụ nữ không chờ được đâu. Chiến tranh kéo dài chục năm, bộ hắn muốn Cách Lan chờ mình chục năm nữa chắc?! Nhớ lần trước Cách Lan tới thăm không? Tôi bảo Bất Vọng “thả” thoải mái cho con nhỏ sưng bụng, hoặc làm một giấy đăng ký kết hôn, cưới sau.


-Hắn làm theo chứ? – Liệt Giả hỏi. 

-Hắn không đăng ký. Tối đó hắn mượn tôi hộp bao cao su. Bốn cái dùng hết cả bốn.

Liệt Giả cười nắc nẻ, Mèo Hen gục đầu cười theo. Ngọn lửa từ chỗ họ như ấm áp hơn, ánh sáng lan rộng xua bớt cái tăm tối lạnh lẽo ngự trị vùng đầm lầy. 

Đang trò chuyện, Liệt Giả chợt dựng dậy vì những âm thanh ầm ào phía xa. Có rất nhiều tiếng bước chân gấp gáp đang hướng về nơi này. Nghĩ là bọn phiến quân, anh cùng Mèo Hen lập chốt chặn trên con đường lội bùn. Tuy không cảm nhận tốt bằng anh nhưng Mèo Hen đã cài cắm nhiều cạm bẫy. Họ đã chiến đấu thế này rất nhiều lần. 

Nhưng bọn Liệt Giả nhận ra chẳng có phiến quân nào. Trước mắt họ là dân chúng chạy nạn, đông đúc cả trăm người. Hai người lục soát đoàn tị nạn có lẫn phiến quân hay không, sau gom lại một chỗ, hỏi ra mới biết họ đến từ chiến trường cách đây một trăm cây số. Họ đã chạy cả tuần, ai nấy đói lả hoặc khát cháy cổ, số khác ói mửa bệnh tật do mất vệ sinh. Bọn Liệt Giả không được thông báo trước về đoàn người này. Cả hai kiểm kê đồ đạc quân trang, thấy thuốc men có thể giật gấu vá vai song lại không đủ lương thực – những thứ có thể ăn đã hết nhẵn. Mèo Hen gọi điện xin giúp đỡ nhưng bị từ chối, quân doanh cách đây quá xa và cũng không có phi thuyền viện trợ. Gã lính vo vê nắm tuyết, nghĩ ngợi thế nào liền quay ra con “đùi heo” phía xa. Liệt Giả nhăn trán:

-Cậu định làm gì? Không phải thế chứ?! 

-Họ kiệt sức cả rồi. – Mèo Hen nghiêng đầu sang đoàn tị nạn – Có ăn mới chạy được tiếp, hoặc không phải bỏ lại. Giờ này vào rừng săn cũng mất hàng tiếng, chúng ta không còn nhiều thời gian. 

Liệt Giả thở phù phù:

-Vậy thì vào rừng! Tìm quanh đây, có thể chúng ta sẽ tóm được thứ gì đó!

-Cậu thừa biết bọn thú không tới gần chỗ đông người thế này. Phải đi hàng cây số mới gặp.

Liệt Giả không nghe. Mèo Hen tặc lưỡi cùng anh vào rừng. Hai người không thể đi xa vì sợ phiến quân ập tới. Đúng như Mèo Hen dự báo, chẳng con thú rừng nào lảng vảng quanh đây, chúng đã rúc sâu trong những xó xỉnh của bóng tối. Liệt Giả bất giác nhớ lại ngày cứu con “đùi heo” khỏi tay bọn phiến quân. Lần đầu tiên trông thấy con quái vật, anh cười sặc sụa, chẳng nghĩ nó sẽ theo mình rong ruổi lục địa suốt ba tháng. Tại Băng Thổ, không phải Mèo Hen hay Bất Vọng, mà con quái vật tức cười ấy đồng hành với anh lâu nhất. Mọi lời nói, ca cẩm, phàn nàn, tâm sự hay chửi thề của anh, nó đều nghe cả. 

Lần tìm mãi, hai người không lần ra nổi một miếng thịt biết chuyển động nào. Chợt thấy một bóng đen nhô cao, Liệt Giả vội nhào đến nhưng thất vọng khi thấy đó chỉ một tượng đá. Tượng phủ đầy rêu xanh lẫn dây leo cuốn chặt, tạc hình một người phụ nữ mặt mày hung tợn, tay cầm dao găm. Liệt Giả soi đèn, nheo mắt nhìn:

-Thứ gì đây?

-Tôi từng thấy nó một lần. – Mèo Hen đáp – Trước khi ánh sáng Vạn Thế và Nữ Thần Tiên Tri tới đây, dân bản địa đã thờ phụng những vị tà thần của riêng họ. Tượng đó là thần Nê Mê, nữ thần báo thù. Xứ Băng Thổ đi lên bằng máu và kết thúc những nợ nần bằng máu. Bởi thế họ thờ nữ thần báo thù. 

Liệt Giả đăm đăm ngó bức tượng. Anh trông về đoàn tị nạn, lại nhìn con “đùi heo”, bất giác tư lự:

-Cậu nghĩ sao về những kẻ giết bạn bè mình? Những ông hoàng bà chúa cổ xưa thường giết bạn của họ, liệu họ được về Tụ Hồn Hải? Hay vĩnh viễn không siêu thoát và làm hồn ma ở thế giới này? Liệu nữ thần báo thù bỏ qua cho họ không?

-Tôi không chắc. – Mèo Hen đáp – Tôi không tin các tà thần cổ xưa và cũng không hẳn tin vào Nữ Thần Tiên Tri hay cây mẹ. Nhưng tôi tin con người không có nhiều lựa chọn. 

Liệt Giả lừng khừng không biết tính sao. Anh chàng Mèo Hen nói:

-Nếu cậu thấy bất tiện thì tôi sẽ làm. 

-Không, để tôi. – Liệt Giả đáp.

Nói rồi anh mượn Mèo Hen dao găm, sau chậm chạp bước khỏi rừng. Không gian leo lét ánh lửa lẫn tiếng người than khóc. Đau khổ và sầu muộn đang tập trung ở đây. Là thánh sứ, anh phải có trách nhiệm như những lời dạy bảo từ Vạn Thế. “Làm điều đúng đắn” – kẻ tốt, người xấu đều biết nói thế và kể cả con bò cũng biết nói nếu hiểu ngôn ngữ loài người. Nhưng thánh sứ khác tất cả ở chỗ nói được làm được. Suy cho cùng, “đùi heo” cũng chỉ là một con thú. Thú không đồng đẳng với loài người.


Nhưng điều đó không có nghĩa rằng “bạn” đều là con người. 

Liệt Giả không tin những vị tà thần ngoại đạo, vì chẳng thứ thần linh nào vượt qua Vạn Thế. Nhưng anh tin sự báo thù sẽ đến bằng cách này hay cách khác.

Nhiều năm sau, khi trở về từ chiến tranh, anh nhận ra một phần của mình đã chết trong rừng đầm lầy Băng Thổ. 

*

* *

Sự báo thù đã kết thúc hay chưa? Nếu nó đã đến, liệu nó còn quay lại? – Liệt Giả tự hỏi. Dãy kệ ký ức trong đầu gã vẫn ngổn ngang, những mảnh giấy vương vãi. Gã bắt gặp đâu đó hình ảnh con “đùi heo” lắc lư theo mình trên những cung đường Băng Thổ. 

Nhưng Liệt Giả chẳng còn thời gian thu dọn ký ức. Ngay trước mặt gã là cây mẹ Vạn Thế, là đỉnh cao ngự trị toàn thế giới. Dưới chân gã, các thánh sứ lẫn đại thánh sứ nằm la liệt, người bị giết, người bị bẻ cánh, người bị thiêu cháy trong ngọn lửa đen Oán Hồn Dạ Hỏa. Con đường gã đi y hệt cái cách mà người Băng Thổ giành quyền sống và tự do sau hàng thế kỷ làm nô lệ. Liệt Giả nhìn quanh. Gã không biết thánh sứ nào, họ toàn người trẻ. Nhưng gã biết vài đại thánh sứ, họ từng học chung, từng chiến đấu, từng cứu gã cũng như gã cứu họ. Những người bạn. Sẽ có vô số lời giải thích, sỉ vả hoặc phân tích tại sao gã làm như thế. Nhưng Liệt Giả biết rằng mọi sự đã bắt đầu từ cái đêm ở rừng đầm lầy Băng Thổ.

-Chỉ mỗi chúng ta thôi, tóc đỏ.

Tiếng nói vọng tới như một bàn tay kéo vai Liệt Giả. Gã ngoảnh lại và thấy người bạn năm nào. Vẫn chiếc áo khoác quân phục Tiểu Đoàn Kiếm Sắt, vẫn điếu thuốc phì phèo cháy dở trên môi mà thường gọi là “tàu hỏa”. Liệt Giả nhớ rằng sau cái đêm vượt rừng cùng đoàn tị nạn, gã cùng Mèo Hen thẳng tiến đến chiến trường cứu Bất Vọng. Họ chiến đấu cực khổ, cuối cùng ngồi cạnh nhau, chậm rãi uống bia rồi ngủ lúc nào không hay. Mọi thứ luôn kết thúc có hậu như thế. Nhưng đấy là chuyện ngày xưa. 

Liệt Giả nhìn quanh. Ngoài xác người lẫn xác phi thuyền, không gian hoàn toàn vắng lặng. Nơi này chỉ còn gã và Bất Vọng. Gã cười:

-Phải, chỉ chúng ta thôi, tàu hỏa. 

-Chỉ còn tôi và cậu. – Bất Vọng nói – Nực cười làm sao! Tôi chỉ còn cậu, cậu chỉ còn tôi. Biết gì không, tóc đỏ? Ít phút nữa, hoặc cậu hoặc tôi phải nằm lại đây. Người chết không có bạn, người sống không còn bạn. Chúng ta mất hết bạn bè rồi. 

Liệt Giả ngẩn người. Gã ngẫm nghĩ đoạn cúi đầu:

-Sau vụ này, chúng ta có thể uống bia không? 

Bất Vọng nhổ điếu thuốc đoạn rút kiếm. Kiếm dài vừa phải, lưỡi dày, trên mặt lưỡi có vài khe nhỏ rít tiếng gió mảnh, cán kiếm có thòi ra một đoạn dài như phanh tay. Liệt Giả biết rõ nó. Thanh kiếm được gọi “Côn Xe” rèn từ ống bô xả khói phi thuyền, mà mỗi lần vặn cán là một lần thanh kiếm gầm lên tiếng nổ máy đinh tai. Đám chiến binh phương bắc một thời sợ chết khiếp tiếng “xế nổ” này. Còn gã đã chiến đấu cùng Côn Xe cũng như chủ nhân của thanh kiếm hàng năm trời. Gã từng sử dụng nó, biết rõ mọi thứ về nó. Nhưng gã cũng biết Liệt Giả hiểu rõ mọi thứ về mình. 

-Có, chúng ta sẽ uống. – Bất Vọng trả lời – Chắc chắn như vậy. Chúng ta sẽ uống, sẽ nói về con mèo chết trôi. 

Khói mù đất thánh thổi tung mái tóc đỏ. Liệt Giả khịt mũi, dụi mắt rồi đáp bằng nụ cười:

-Cảm ơn cậu. Tôi thực sự cảm ơn!

Dứt lời, gã vận sức tung cánh đen lao vào người bạn. Trong một thoáng, gã cảm giác mọi thứ đang quay về cái đêm hơn ba mươi năm trước tại khu rừng đầm lầy Băng Thổ. Ngày ấy, gã từ biệt một người bạn để làm điều đúng đắn. Hôm nay, gã lặp lại câu chuyện ấy cũng vì một điều đúng đắn. 

Liệt Giả nhận ra “đùi heo” vẫn chưa nguôi giận. Con dã yến năm nào đã nhờ nữ thần báo thù ghé thăm gã một lần nữa – một lần cuối cùng.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận