Người Khắc Bia Mộ

“Khe Sanh, ngày…
Thúy Minh dấu ái,
Kể cũng đã hơn một tháng kể từ ngày anh rời xóm nhỏ. Nhưng anh không không còn nhớ rõ hôm nay là ngày mấy. Ở đây không có lịch, và những công việc cũng làm bọn anh bận rộn và hao mòn dần trí nhớ. Anh cũng mong rằng Minh không nỡ trách anh vì sao không viết thư ngay. Chắc Minh mong lắm? Hôm nay vừa mới cho đào xong hố cá nhân, anh viết vội thư về cho ba anh và cho Minh. Thư chắc sẽ không có lớp lang và chữ viết chắc không được đẹp. Anh đang kê giấy lên ba lô để viết đây.
Ở Sài Gòn chắc Minh và gia đình cậu Phương vẫn thường? Anh cầu mong như vậy. Riêng anh, ở đây, trong một thung lũng đêm lạnh cắt da, ngày nóng cháy cỏ. Chỉ có thế, không có gì đẹp để ca ngợi. Chưa có lệnh đi Hạ Lào. Bọn anh còn dừng ở đây để chờ tiếp tế. Có thể còn lâu nữa mới đi, mà cũng có thể tối nay anh sẽ lên đường.
Hôm ở nhà, mồng năm Tết, anh về hậu cứ nhưng chưa đi ngay. Nhớ Minh và nhớ nhà ghê gớm nhưng anh không về được. Nghỉ vài ngày rồi anh mới lên đường. Ngày đi, anh thấy ai cũng có vẻ buồn, vì lần này đi hơi xa xứ, Minh nhỉ! Hạ Lào, tên một vùng đất đầy núi non. Nó sẽ không có nhiều đồng lúa như ở miền nam mình hay là ở Căm-Bốt. Nhưng dù nơi đó có hiểm trở đến đâu, trong anh vẫn luôn luôn có một cái tên cao quý và dịu hiền, sẽ giúp anh có nhiều niềm tin tưởng và hy vọng.
Ở Huế, ra Quảng Trị, Đông Hà, đoàn quân anh ra Cùa, rồi mới đến Khe Sanh. Những ngày tiến quân đầy gian khổ. Nhưng anh biết khi vượt qua biên giới còn gian khổ hơn. Ở đây, những đêm khuya nằm nghe tiếng đại bác vang vọng đầy thung lũng, thấy nhớ thật nhớ những ngày vui ở Sài Gòn. Anh không được ăn Tết trọn vẹn hết tháng giêng như anh đã mong. Dù sao, anh vẫn cảm thấy mình đang có một niềm hạnh phúc. Nhờ Minh, Minh đã đến, tạo cho anh một niềm vui.
Thư anh viết chưa hết ý. Anh còn muốn viết thật nhiều. Nhưng đã có lệnh vang trong máy. Anh phải ra sắp xếp cho các tiểu đội đi gác. Anh dừng vậy. Ngày mai hay mốt sẽ có chuyến tiếp tế. Hy vọng thư của anh được đến tay Minh sớm. Chúc Minh ngoan và vui nhiều, học giỏi.
Anh,
Đỗ”
**
“Khe Sanh, ngày …
Thúy Minh dấu ái,
Anh lại viết thư cho Minh đây. Hôm nay trung đội anh được rảnh rang một chút, vì chỉ còn ngồi chờ lệnh sang Hạ Lào. Đêm đang xuống lạnh cắt da. Chữ viết của anh chắc cũng run rẩy, khó đọc lắm hỉ? Ở Sài Gòn nớ Minh đang làm gì? Giờ này có còn thức chong đèn học bài? Minh đã sửa soạn thi đệ nhị lục cá nguyệt chưa? Không biết anh có kịp về để ăn khao mừng cô Tú kép?
Ngày hôm nay có một chuyện thật buồn cười, để anh kể Minh nghe. Sáng sớm tiểu đội của Lâm đi gác về, cho anh hay rằng có một thứ cây gì thoảng mùi rất thơm. Lâm thì cứ cho đó là cây trầm. Anh, từ thuở bé, có biết cây trầm ra sao, nói với Lâm: ”Nếu là trầm, cho phép em cứ chặt bỏ vào ba lô, mai mốt về bán có lời lắm”. Hắn làm thật, đẽo khúc ra cất vào bao kỹ càng. Hắn đinh ninh về nhà chuyến này sẽ kiếm được tiền đi học. Buổi trưa, Lâm đem mấy khúc cây ra hít mãi. Mà thật, loại cây gì lạ ghê, thơm y hệt mùi gỗ trầm. Anh cũng tin thật.
Đến chiều, Lâm nấu cơm. Khổ nỗi, trời mới mưa xong làm cây cối ướt hết, nhen lửa hoài không đỏ. Lâm đành bấm bụng lấy vài khúc “trầm” ra đốt. Minh biết chuyện gì xảy ra không? Mấy khúc cây cháy rừng rực, khói bốc lên ùn ùn đen ngòm. Mặt mũi anh và Lâm thành người da đen hết. Gỗ trầm cháy âm ỉ, khói trắng và mùi thơm chứ đâu có như vậy. Hai anh em nhìn nhau, vừa cười vừa khóc vì khói vào làm cay mắt quá. Bao gỗ trầm sau đó được Lâm trút ra hết để… nấu cơm.
Anh kể chuyện lẩm cẩm quá hở Minh? Chẳng có chuyện gì đáng kể hết ngoài những tiếng súng ì ầm. Ban đêm nghe Lâm thổi khẩu cầm cho Thiều hát, anh thấy buồn chi lạ. Hôm qua có đụng trận nhỏ. Thế mà dưới thung lũng đã có mấy tấm poncho bó lại để cạnh bên nhau. Ngày xưa chiến sĩ da ngựa bọc thây, bây chừ cũng chẳng khác gì, Minh hỉ!
Đã có lệnh tiến quân. Sáng mai anh sẽ qua biên giới.
Máy bay tiếp tế đã đến rồi. Anh chưa nói được chi với Minh hết. Đành phải ngưng ở đây. Gửi về Minh niềm thương chân thành của anh.
Đỗ”
Hai lá thư đến tay Minh cùng một lúc. Nghĩa là chúng đã được đem về bằng cùng một chuyến tiếp tế. Có dấu hiệu vội vàng nơi nét chữ trên phong bì và trên dấu keo dán của bức thư thứ nhì. Như thế là chắc chắn Đỗ đã qua Hạ Lào. Mùa xuân chưa qua hết nhưng đã mất rất nhiều ý nghĩa. Tết qua lặng lẽ và không khí trĩu nặng những nhớ nhung. Báo chí sôi động theo dõi những bước tiến của các đơn vị hành quân. Sắc diện bình thản của thành phố dường như cũng xao động với những biến chuyển ở tận vùng biên giới địa đầu. Có tiếng bàn tán trong lớp về tin chiến sự. Có lời lo âu quay quắt của những bà mẹ. Có tin chiến thắng Tchépone. Có tin người hùng Nguyễn Văn Đương tự sát trên đồi 31. Và một hôm bỗng thấy xuất hiện những vành khăn trắng trong sân trường.
**
Minh đứng lặng người trước cổng nhà Đỗ. Không dám lên tiếng gọi, dù Minh đã thấy bác Liêu ngồi trong sân. Nắng lên buồn tênh nơi thềm nhà. Nắng của những ngày cuối tháng ba, đủ soi tỏ mái tóc của bác Liêu màu bạc xám. Bác đang đục, đẽo, khắc gì lên một tấm đá. Xung quanh bác, có nhiều tấm đá giống một khuôn như thế. Minh se lòng. Những tấm đá trông như những tấm bia mộ. Bác Liêu đang làm gì thế?
Giây lâu sau, Minh e dè lên tiếng:
- Thưa bác… Thưa bác, con mới qua.
Bác Liêu gỡ kính trắng, nheo mắt nhìn. Bác đã nhận ra Minh.
- Cháu Minh đó à? Vô đi cháu, bác để cổng hờ.
Minh đẩy nhẹ cánh cổng, bước vào. Bác Liêu lại mang kính vào, cầm cây đục lên tay, hỏi:
- Có việc chi không cháu?
- Dạ… con qua thăm bác
- Rứa thôi hả?
Minh ấp úng:
- Dạ… con muốn hỏi thăm bác, bác có nhận được thư của anh Đỗ không?
- Không, cũng hơn một tuần rồi cháu, bác không có nhận được thư hắn. Bác chỉ nhận vỏn vẹn có hai cái thư, hắn viết ở mô hè?...Ở…
- Ở Khe Sanh phải không bác?
- Ờ ờ, đúng rồi đó. Hắn có viết thư cho cháu phải không?
- Dạ.
Minh cúi đầu. Một nỗi vui hiện lên cùng trong một nỗi buồn. Bác Liêu hỏi tiếp:
- Rồi hắn có viết cho cháu cái mô nữa không?
- Thưa bác, con cũng cả hơn tuần nay không có tin tức gì hết.
- Hắn qua Hạ Lào rồi đó cháu.
Bác Liêu cầm búa gõ lên đầu đục. Một mảnh đá nhỏ tróc ra. Bác nói:
- Hôm trước thằng Thụy nó khoe với bác cái bản đồ mới vẽ. Sẵn đó, nó chỉ cho bác nước Lào. Chao ôi, ai có dè mà xa dữ rứa. Từ đây ra Quảng Trị đã xa quá rồi, mà hắn còn đi qua bên nớ, thiệt đường diệu vợi.
- Thưa bác, anh Đỗ khỏe lắm, bác đừng lo.
Minh nói để trấn an bác Liêu mà cũng như tự trấn an mình. Bác Liêu thở ra:
- Thằng Thụy nó ưa môn Địa lý. Thằng nhỏ vẽ hình đẹp thiệt. Hắn tô màu đỏ ở vùng núi non miền bắc và dãy Trường Sơn. Hắn tô màu xanh lá cây ở đồng bằng miền nam, rồi giải thích cho bác màu xanh là ruộng, màu đỏ là rừng núi.
Bác Liêu vừa đục thêm một chỗ khác, vừa nói:
- Hắn tô màu xanh ở nước Căm-Bốt, rồi nước Lào hắn sơn hầu hết là màu đỏ – Bác chắc lưỡi- Thằng Đỗ kỳ ni vào chốn núi rừng, khí hậu bên nớ chẳng biết ra răng, biết hắn có chịu nổi không?
Minh lặng thinh. Lời nói của bác Liêu làm Minh thấy nao lòng quá. Bác Liêu đâu biết chính Minh cũng thắt thỏm trông tin Đỗ từng ngày. Mỗi ngày, tin chiến sự càng sôi động hơn. Minh thờ thẫn trong lớp học. Minh thao thức giữa đêm. Mắt Minh thâm quầng khiến Liên Nga cũng nhận thấy. Minh muốn chỉ cần một chữ của Đỗ gửi về thôi, cũng đủ làm Minh yên lòng. Nhưng đã hơn một tuần rồi không nhận được thư. Minh không tin rằng Đỗ có thể ngồi yên nhìn những chuyến bay tiếp tế cất cánh mà không gửi tin của Đỗ về. Hôm qua thấy một người bạn cùng lớp đội tang anh vừa tử trận, khóc vùi giữa lời an ủi của bạn bè, Minh chết điếng cả người. Đọc báo nghe dân chúng ở cố đô Huế khóc mong ngóng người thân, Minh quay quắt không yên. Và ở đây, bác Liêu cũng chẳng khác gì Minh. Sự chờ đợi, lo âu của một người cha có sôi nổi như của một người mẹ, một người vợ, một người yêu ? Chỉ thấy bác Liêu ngồi lặng yên cô độc trên sân vắng, mắt ráo khô và người cứng ngắc như một bức tượng.
Minh ngồi xuống bên những bia mộ. Đúng là những bia mộ vì bác Liêu đang phủi bụi cát đi để lộ rõ những chữ vừa mới khắc: “Nơi an nghỉ của….”. Minh hỏi:
- Bác ơi, bác làm gì vậy?
- À, bác lãnh làm những bia mộ ni. Làm cho qua thì giờ mà cháu. Ông Cai Tổng biết bác có nghề khắc, nên ông lãnh giùm bác công việc ni cho bác làm.
- Bác làm như thế có mệt không hở bác?
- Thì cháu thấy đó nợ. Chỉ việc đục, khắc, chứ có xê dịch, bưng bê hay gồng gánh chi mô! Nghề của bác mà. Thằng Đỗ, hôm đi hành quân, có dặn bác rồi. Hắn không cho bác đi làm phu hồ nữa. Thì bác làm chuyện ni vậy. Minh, cháu múc giùm bác một lon nước.
Minh đứng dậy cầm chiếc lon sữa bò đi múc nước. Bác Liêu bắt đầu mài chiếc đục trên miếng đá mài. Minh đem nước tới, bác Liêu đổ nước lên mặt đá mài. Chiếc đục bén hơn hẳn lúc trước, sáng ngời.
Minh nói:
- Thưa bác, con xin phép bác con về. Bao giờ nhận được thư anh Đỗ con sẽ sang ngay.
- Ừ, cháu về hỉ!
- Dạ, bác ơi bác cũng nên vào nghỉ trưa cho khỏe.
Bác Liêu cười:
- Già rồi cháu à. Có nằm cũng chẳng ngủ được mô. Mắt cứng lại rồi.
- Dạ, thôi thưa bác con về.
Minh rón rén đi ra, khép cánh cổng lại. Minh nhìn lại một lần nữa sân nhà quen thuộc. Ở chỗ này Đỗ đã hiện diện như trong một giấc mơ. Mắt Đỗ sáng quá và giọng anh ngọt ngào quá! Đỗ đã đến trong tâm hồn Minh buổi tối nào cánh tay còn treo ngang ngực, và buổi sáng nào cũng cánh tay ấy trao cho Minh phong giấy đỏ đựng tiền lì xì mừng Minh được mười tám tuổi. Nơi Đỗ và Minh ngồi, hôm mồng năm Tết, bây giờ là chỗ bác Liêu ngồi khắc bia mộ. Tự nhiên Minh nghe nổi gai ốc. Nhìn bác Liêu ngồi in chiếc bóng gầy guộc lên những dòng chữ trên mộ chí, Minh lạnh cả người. Một nỗi lo sợ ùa đến trong lòng. Nghĩ đến Đỗ gian nan trong những cánh rừng hoang vu, Minh muốn khóc.
Minh bước thẫn thờ trên đường xóm nắng hanh. Chỉ mới khoảng độ hai giờ trưa thôi. Ở Sài Gòn mùa nào cũng như mùa nấy, chỉ có nắng đến làm khô khát cả người. Nghe bước chân mình nặng nề, Minh nghĩ đến bài vở, lúc này Minh học như một bổn phận, hết cả vui thú. Minh nghĩ đến Liên Nga. Nó đã hết trêu Minh khi nhận thấy nỗi buồn sâu đậm của bạn. Dường như Nga cũng thầm cầu mong cho Minh chóng nhận được tin của Đỗ.
Ở khúc quanh rẽ vào nhà Minh bỗng hiện ra một người lính đi khập khiễng. Minh nhướng to mắt, nghe tim mình đập mạnh. Đúng là màu mũ, màu áo của Đỗ. Nhưng là Lâm. Minh kêu lên:
- Anh Lâm! Anh về đó hở?
Người lính gượng đi nhanh đến, ngờ ngợ hỏi:
- Chào chị. Phải chị là chị Minh?
- Dạ phải, tôi đã gặp anh Lâm hôm trước. Anh về… còn anh Đỗ có về không?
Lâm lắc đầu:
- Không chị ạ, Thiếu úy còn kẹt bên Hạ Lào.
Hai người đi trở lại nhà bác Liêu. Minh gọi to:
- Bác ơi! Có anh Lâm đến nè bác!
Rồi Minh dìu Lâm vào sân. Bác Liêu đứng phắt dậy, run giọng:
- Chú Lâm hôm Tết tới đây đó hả? Có tin gì? Có tin gì không? Thằng Đỗ mô?
Bác Liêu hỏi giọng hoảng hốt khiến Minh cũng nghe lòng mình nôn nao ghê gớm. Lâm chỉ vào chân:
- Con bị thương nên được chở về đúng ngay lúc có chuyến bay tiếp tế. Còn Thiếu úy vẫn ở lại ngọn đồi cho đến phút chót.
- Hắn đóng trên đồi đến phút chót? Rồi răng nữa?
Lâm có vẻ mệt mỏi, đáp giọng ngắt quãng:
- Dạ, lúc con được tải đi thì…Thiếu úy vẫn bình yên. Ổng có dặn con về nhắn thăm bác và chị Minh. Con về nằm bệnh viện được gần một tuần nay rồi. Bữa nay hơi đỡ đỡ nên con đến thăm bác. Thưa bác, vì rằng…trong lúc con nằm điều trị, có mấy anh em ở cùng đại đội cũng được chuyển về, họ nói sau khi con đi được một ngày thì … ngọn đồi bị pháo dữ dội.
Bác Liêu nhăn mặt kêu lên:
- Trời ơi! Rồi răng nữa?
Lâm ngập ngừng:
- Dạ thưa bác, họ nói rằng… hình như không ai thoát khỏi trận pháo kích đó.
Minh chết điếng cả người. Bác Liêu thốt lên hoảng hốt:
- Trời ơi! Có ai… có ai thấy thằng Đỗ ra răng không? Hắn có được trở về không?
Lâm nuốt nước bọt, nói khó khăn:
- Thưa bác, con nghe mấy anh em nói lại, là máy bay trực thăng chỉ đáp xuống một chút rồi phải lên ngay, vì giặc pháo như mưa. Anh em nào còn sức bò đến được chân máy bay thì được cứu, còn ai…
Minh bật khóc nức nở. Bác Liêu buông mình xuống ghế, rũ người như một tàu lá. Người lính im bặt, cảm thấy như mình vừa phạm tội. Anh đứng trơ giữa cảnh nhà buồn tênh, trước hai con người đang đầy tràn niềm thất vọng.
**
Minh và bác Liêu xuống xe lam. Minh hỏi người tài xế:
- Thưa bác từ đây vào Rừng Cấm có xe đi không ạ?
Người tài xế lắc đầu:
- Ở đó khu vực quân sự, không có xe lam vô đâu cô ơi! Thường người ta đi xe jeep, không thì đi xe gắn máy hoặc đi bộ.
- Dạ cám ơn bác.
Chiếc xe lam chạy đi, tung một đám bụi mờ. Bác Liêu nhìn theo, ngơ ngác hỏi:
- Cháu Minh có biết đường đi không?
- Dạ biết.
Minh chỉ đáp vậy và không dám cho bác Liêu biết đã có lần Liên Nga chở Minh bằng xe gắn máy vào khu vực mang tên Rừng Cấm này. Bác Liêu hỏi:
- Bây giờ làm răng mình đi vô đó cháu? Hai bác cháu mình đi bộ nghen!
- Dạ, đành vậy thưa bác. Bác đi được không?
- Được chứ cháu. Bác chỉ nóng lòng biết tin của hắn thôi.
Hai người bắt đầu đi bộ vào con đường vắng vẻ. Cây cối hai bên đường đã xác xơ. Lần thứ hai Minh đến hậu cứ của Đỗ. Mới sau có mấy tháng mà lối đi dường như đã đổi khác. Con đường bị cày tung lên trơ đất xám. Thỉnh thoảng hai bác cháu phải đứng nép vào lề để tránh đường ột chiếc quân xa. Mỗi lần như vậy, xe chạy qua làm bụi đất bay lên mù mịt. Bác Liêu ho sù sụ. Minh nhường chiếc mũ cho bác đội và xách giỏ cho bác. Minh cũng nghe lòng hồi hộp vô cùng. Sự lo âu nôn nóng khiến chân Minh đi không biết mỏi. Nắng bốc khói trên đỉnh đầu không làm Minh để ý. Và kìa, đằng xa, sau lớp bụi xám đã bắt đầu thấy hiện ra cổng của tiểu đoàn.
Minh đứng sững trong khoảng sân dài, trên lối đi trải đầy sỏi trắng dẫn đến cột cờ. Quang cảnh hậu cứ vắng vẻ. Cảnh yên lặng đến rợn người. Có một nỗi u buồn nào vây quanh và làm nặng oằn không khí. Áo dài của Minh đã bám đầy bụi xám. Bộ đồ của bác Liêu cũng vậy. Minh gượng cười lấy khăn tay ra lau mặt. Bác Liêu giở mũ quạt quạt cho đỡ nóng. Bác hỏi:
- Làm răng biết tin hắn, cháu?
- Để con đi tìm xem.
Minh đi dọc theo hành lang của dãy nhà tôn, và tìm ra phòng hành chánh. Minh đứng ngập ngừng trước cửa. Chỉ có hai người lính đang làm việc trong phòng: một người thượng sĩ già đang làm sổ sách và một người lính trẻ đang đánh máy. Căn phòng thấp, không có tiếng động nào ngoài tiếng lóc cóc khô khan từ chiếc máy đánh chữ vang ra. Minh lên tiếng:
- Thưa ông!...
Người lính trẻ ngừng tay đánh máy, nhìn ra, hỏi:
- Cô hỏi chi?
- Dạ, tôi muốn hỏi thăm tin tức của người nhà
- Vậy thì cô hỏi ông này. Bác Tâm ơi, có cô đây muốn hỏi thăm tin tức kìa!
Lúc này thì người thượng sĩ già ngước nhìn lên, hỏi bằng giọng mệt mỏi:
- Chi đó cô?
Minh bước hẳn vào phòng, nói:
- Xin bác làm ơn tìm giúp cháu tin của Thiếu úy Nguyễn Thi Đỗ, đại đội…
- À tôi biết Thiếu úy Đỗ, ông ấy đi Hạ Lào rồi.
Minh nuốt nước bọt:
- Dạ cháu biết. Nhưng cháu xin bác liên lạc hỏi giùm cháu hiện nay Thiếu úy Đỗ đang ra sao.
- Cô… là gì của Thiếu úy?
- Dạ cháu là… em của anh Đỗ. Cháu có đi với ba cháu.
Rồi Minh quay ra cửa, vẫy bác Liêu vào. Thượng sĩ Tâm nói:
- Tôi thì chỉ lo làm sổ lương. Còn tin tức từ chiến trường gửi về, có ông khác lo. À mà quên nữa, ông và cô có thể đến dò tin tức ở trên tấm bảng kia. Sáng hôm nay có tin mới, họ đã ghi lên đó.
Minh cảm thấy tay mình run lên. Minh không dám cử động. Thượng sĩ Tâm lại nhắc:
- Cô lại đó xem đi, may ra biết tin.
 


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui