Bác Liêu nhìn Minh, chờ đợi. Minh lấy can đảm đến bên bức tường trong cùng. Trên đó có treo một tấm bảng kẻ phấn màu còn rõ nét mới. Minh nhón gót nhìn lên. Cột đầu tiên ghi tên, những cái tên xa lạ, cột kế bên ghi tình trạng: tử trận, bị thương, nằm bệnh viện nào… đều có ghi rõ. Tên Nguyễn Thi Đỗ đây rồi! Mất tích. Minh choáng váng, ôm đầu nức lên một tiếng. Bác Liêu chạy đến, hoảng hốt:
- Sao cháu? Có tên hắn không?
Minh nói như bị cực hình bắt buộc phải nói:
- Bác ơi, họ ghi anh Đỗ mất tích….
Bác Liêu thấy mờ cả mắt. Bác không còn nghe thấy gì sau tin của con trai. Bác đứng sững. Cảm giác như đã mất hết. Bác muốn kêu lên “Con ơi!” một cách đau thương và dễ dàng như người ta vẫn nói trong những vở kịch, những cuốn phim, hoặc muốn kể lễ như trong tuồng tích. Nhưng không được. Miệng lưỡi bác tê cứng. Bác nhìn thấy Minh rũ người như một ngọn cỏ úa. Bác thấy ông Thượng sĩ Tâm ngẩn ngơ, tay còn đang lật chồng sổ sách, và người lính trẻ dừng tay đánh máy, gương mặt trông như một khối băng đang tan chảy.
… Không biết trải qua mấy phút, mấy giây, mà đến một lúc bác Liêu cũng đã thốt được nên lời:
- Thôi, cám ơn hai chú, tôi về.
Ông thượng sĩ già đứng dậy, nói gượng gạo:
- Tôi xin chia buồn cùng ông. Biết Thiếu úy Đỗ như thế, tôi cũng buồn lắm. Nếu có tin gì thêm, chúng tôi sẽ gửi giấy đến tận nhà cho ông.
- Cám ơn chú. Đi về con ơi!
Minh bàng hoàng như đang ở trong một cơn mê. Minh mở to đôi mắt ráo hoảnh, và cố gắng mở lời chào hai người lính.
Khoảng sân rộng lại hiện ra trước mắt. Nắng ban nãy như rực lửa trên đường, giờ đã biến đi đâu. Trời tối lại vì trên đó đã hiện ra một đám mây đen như hình một con gấu khổng lồ che mất màu xanh. Nỗi chết chóc đang bủa vây quang cảnh. Minh nghe hai mắt khô khan vô cùng, nhưng vẫn mở lớn để thấy rõ hàng cây Bã Đậu. Chúng đã lớn hơn ngày nào rất nhiều. Chúng có mong bước chân người thân quen trở về để tìm bóng mát? Chúng có một góc nào của thân cành đầy nhựa để dùng làm chỗ như trái tim, để mà nhận biết rằng trong khi chúng nẩy nở lớn lên thì đã có biết bao người ở đây đã ra đi và đã ngã xuống?...
Đây là phiến đá Đỗ nhường cho Minh và Liên Nga ngồi. Bây giờ bác Liêu đang thẫn thờ ngồi xuống đó. Đây là bụi trúc rậm che mát cả một khoảng đất. Tên của Đỗ khắc đầy trên những thân hình trụ rỗng. Minh đau đớn nhận thấy trên thân của cây trúc lớn nhất, có tên “Thúy Minh” được Đỗ ghi bằng những nét dao thân ái. Minh muốn òa khóc. Tất cả mọi cái nơi này là của Đỗ. Nhưng mà Đỗ đã mất tích, không tìm thấy xác đâu. Trên ngọn đồi ấy, nơi mà Đỗ đã đóng quân, Lâm đã nói, không có ai thoát khỏi trận pháo kích tử thần. Đỗ đã tan xác ở một vực sâu nào, dập vùi ở một bụi cây nào, hay đã thành tro trong một hầm lửa nào. Đỗ ơi! Mãi mãi anh sẽ không trở về đây để ngồi dưới tàn cây Bã Đậu, để khắc thêm nhiều chữ “Thúy Minh” lên thân trúc xanh tươi. Anh sẽ không bao giờ ngồi đàn trên phiến đá hay lặng yên nhìn khói thuốc bay tản mạn và nghe tiếng sáo trúc dặt dìu trong gió. Ở cõi nào xa xăm, yên ổn quá, anh không còn bận lòng đến chiến tranh, hòa bình; anh không biết đến yêu thương, thù hận; anh là anh, là hư vô, là vĩnh cửu. Hết rồi! Chỉ có người sống, người ở lại sẽ gánh hết nỗi đau buồn.
Bác Liêu ngồi yên như pho tượng, Nhưng đâu ai biết nỗi khổ sầu đang làm đầu óc bác thành một đám rối. Bác vẫn ngồi yên như thế cho đến lúc có lắc rắc mấy giọt mưa.Và bác vẫn không hề lay động. Minh vỗ nhẹ tay bác:
- Bác ơi! Trời mưa rồi! Chắc về không kịp.
Bác Liêu không trả lời. Sau câu nói, Minh cũng không biết phải làm gì hơn là yên lặng. Chắc chắn là hai bác cháu sẽ không tránh được mưa. Minh nghĩ đến con đường dẫn ra khỏi Rừng Cấm, ban nãy tung bụi mù như sương, lát nữa sẽ nhầy nhụa ngập chân. Sẽ có một bóng già và một bóng trẻ lủi thủi trở về xóm nghèo từ nay hiu quạnh. Sẽ không còn ý nghĩa để mà sống, để mà tin yêu.
Mưa đầu mùa đã đổ. Nước mưa đẫm xuống mặt đất khô làm xông mùi nồng lên nhức óc. Bác Liêu vẫn ngồi yên như pho tượng trong khi mưa càng lúc càng to. Minh nghe nước mắt mình bắt đầu chảy rào rạt cùng với mưa. Đỗ ở đâu, có hiện về trong không gian cô quạnh này không? Đỗ có thấy nước mưa tuôn tràn trên những cành lá có mang tên Đỗ, tên Minh, và chảy ròng ròng xuống bên cạnh bác Liêu? Minh tưởng như dưới gốc cây này có một búp măng vừa bị đốn, và những dòng nước mưa kia, có phải chăng là dòng lệ của lũy tre già?
**
Thụy gấp quyển vở lại. Bài “Vua Quang Trung đại phá quân Thanh” đã thuộc lòng như in, thuộc lòng từ lúc mới nhập học, đáng lẽ nó phải bỏ qua để ôn những bài khác. Nhưng mà Thụy vẫn thích lẩm nhẩm đọc hoài. Nó vẫn muốn tưởng tượng ra một cảnh oai phong và câu văn thuộc lòng “Mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung đại phá quân Thanh”. Thụy giở vở ra, ghi vào bên dưới bài Sử Ký đó:
“Mùa xuân năm Tân Hợi 1971, anh Nguyễn Thi Đỗ tiến quân sang Hạ Lào”, rồi Thụy áp mặt lên vở, khóc ngon lành. Nó nhận ra những dòng chữ mới viết bằng mực tím đang nhòe nhoẹt nước mắt. Nó thương anh Đỗ quá! Nó thương anh Đỗ như đã thương một vua Quang Trung lẫy lừng trong Việt sử. Mà hơn thế nữa, nó thương anh Đỗ như một thân tình. Anh Đỗ của nó vẫn còn trẻ trung quá, còn yêu đời quá. Ngày mồng năm Tết anh vẫn còn dặn dò nó ráng học, thi đậu vào lớp sáu và sau này trở thành một công dân ưu tú… Thế mà chưa đầy ba tháng sau, anh đã không còn. Xóm nhà có một nỗi trống trải to lớn, mà Thụy là đứa bé nhận thấy rõ nhất. Vì anh Đỗ đã đi. Vì anh Đỗ đã đi làm “chiến sĩ da ngựa bọc thây” mất rồi, anh Đỗ ơi!
Bây giờ, trời đang vào tháng sáu. Mưa cũng đã điều hòa một nhịp. Thụy đã nghỉ hè và đang ôn bài thi. Đôi lúc, trong đầu óc bé bỏng của nó, cũng hiện lên nhiều nỗi băn khoăn. Thụy nghĩ ngày tháng đã trôi quá nhanh. Mới ngày nào bước vào thu, Thụy mới lên lớp năm, vẫn còn lười học lắm, vẫn còn mê mải theo chiếc lồng đèn tàu chiến của anh Đỗ làm cho, mà nay đã đến giữa mùa hạ. Thụy sắp thi vào lớp sáu. Chóng quá! Và Thụy ngơ ngác tự hỏi rằng, với thời gian ấy có đủ để một người chiến sĩ nằm xuống tan rữa thịt xương? Thụy thấy mình không còn ngây thơ nữa, đúng vậy, kể từ ngày anh Đỗ mất bóng ở xóm nghèo.
Thụy cầm vở đi lững thững sang nhà bác Liêu. Căn nhà đã xơ xác càng xơ xác hơn. Thụy nhận thấy mấy chấn song đã gãy mục, xiêu vẹo, chẳng có ai buồn đóng lại. Cây mận già tự do đâm cành lá ở một nửa sân, mà trái thì không hề thấy. Cả lũ chim sẻ thường chuyền nhảy, hót đùa, hình như cũng trốn ở đâu. Thụy ngơ ngác đứng nhìn qua hàng rào, thấy bác Liêu đang đục đẽo trên một tấm đá. Bác vẫn miệt mài làm công việc đó hàng ngày, một mình. Tự nhiên Thụy thấy nao nao lòng. Nó đẩy cổng rào, bước vào, đến bên bác Liêu. Nghe tiếng động, bác Liêu ngước nhìn lên. Thụy ôm vở trước ngực đứng sừng sững trước mặt bác, giống hệt như hình ảnh của Đỗ hồi còn bé. Bác Liêu nói như trong mơ:
- Con đó à? Ngồi xuống đây đi con.
Thụy thấy se lòng. Nó hỏi:
- Bác làm hoài vậy bác? Bác không mệt hở bác?
- Không con à.
Thụy thấy mái tóc bác Liêu đã bạc gần hết. Từ ngày được tin anh Đỗ mất tích đến nay, con người bác đã sa sút thấy rõ. Bác già đi đến cả chục tuổi và bắt đầu yếu mệt với những cơn ho dài thượt. Thụy khoắng mấy ngón tay vào lon sữa bò đầy nước, rồi tẩn mẩn cầm chiếc đục lên, nói:
- Bác khắc đẹp quá bác ạ.
Bác Liêu cười xa vắng:
- Đẹp chi mô con. Mỗi con người đều được chết và được một nấm mộ. Khắc đẹp hay không đẹp thì cũng chỉ một tấm bia, cũng một tên mình mà thôi.
- Nhưng mà bác tài thiệt. Con chắc chẳng bao giờ làm được như bác đâu.
- Mỗi người một công việc. Con có tài học, ráng học cho giỏi. Con làm chi việc này? Đưa cây đục cho bác.
Bác Liêu khắc thêm nét cuối của chữ “A” trên tấm bia để trước mặt. Thụy lẩm bẩm đọc:
- “Mộ chí của…”. Bác ơi, cái này của ai vậy bác?
- Của anh Đỗ.
Bác Liêu đáp như một lời rên rỉ. Thụy giật mình, nó tưởng nó nghe lầm. Bác Liêu nói như sắp khóc:
- Bác sẽ khắc cho anh Đỗ con một tấm bia mộ, bác để dành đây, khi mô có xác anh con, bác sẽ xây mộ, dựng bia lên cho hắn.
- Nhưng mà…
- Con ngạc nhiên hở Thụy? Có chi mô con. Mỗi người đều phải có một nấm mồ, có một mộ chí. Bác làm nghề ni mà không khắc cho hắn một tấm bia thì cũng tủi cho hắn, con hỉ?
Thụy ứa nước mắt, nói:
- Bác không tin là anh Đỗ còn sống sao bác?
Bác Liêu lắc đầu:
- Ai người ta cũng về cả. Có người về bình yên. Có người về mang thương tật. Có người về trong quan tài. Nhưng cũng là về. Còn anh Đỗ của con, mất xác rồi còn chi! Có ai thoát khỏi mưa pháo, bão bom mô con? Chừ không còn ai ở Hạ Lào nữa. Hết cuộc hành quân rồi! Mà Đỗ ơi, con ở mô?
Bác Liêu gục mặt trên đầu gối. Nhưng không phải bác khóc. Dường như tuổi già của bác đã khô giếng nước mắt. Mà chính sự khô khan đó có lẽ làm cho người già đau đớn hơn là được khóc như trẻ thơ.
Thụy rón rén phủi sạch bụi cát trên mặt bia mộ. Nét khắc của bác Liêu bay bướm, thanh nhã vô cùng. Mai mốt đây sẽ hoàn tất dòng chữ “Mộ chí của Nguyễn Thi Đỗ”, hoàn tất công trình của người cha cho con trai. Nhưng mộ chí sẽ dựng ở đâu? Anh Đỗ đã vùi xác ở nơi nào, hỡi người ra đi làm chiến sĩ vô danh? Thụy lại che quyển vở lên mặt, khóc rấm rứt.
Có Thúy Minh xuất hiện trước nhà, rồi đi vào với tà áo trắng, nói:
- Thưa bác, con đem một ít cam biếu bác, nhân tiện gửi bác thuốc ho của cậu con đưa sang.
Bác Liêu gượng cười:
- Cháu Minh để trên bàn giùm bác đi. Sao con bận lòng vì bác dữ rứa? Con lại đây, coi tấm bia mộ ni, bác dành cho….
Minh ngồi xuống bên bác Liêu và Thụy, bên tấm bia mộ, run run sờ lên những nét khắc. Rồi sẽ có một ngày như thế này sao? Ngày ấy đã đến. Đỗ đã được dành ột tấm bia mộ. Minh gục đầu, nghe tê tái cả lòng.
**
Hôm qua có chiếc xe jeep đến đậu trước đầu ngõ, rồi hai người lính khiêng vào nhà bác Liêu một chiếc rương gỗ. Đó là di vật của người đã không còn. Chiếc rương ngày nào để trong phòng của Đỗ tại hậu cứ, bây giờ đem về trao lại cho người cha. Bác Liêu sững sờ nhìn dấu tích của con trai. Bác sẽ làm gì với những vật dụng này? Hai bộ đồ lính, mấy phong thư của bạn hữu, hình ảnh gia đình, những ống trúc đang đẽo khắc dở dang, và một quyển nhật ký. Bác gọi Minh sang, đưa cho Minh quyển sổ đó. Bác nói:
- Cháu giữ đi. Hắn viết tên của cháu nhiều lắm đó. Cháu coi rồi thì đốt đi hỉ! Đừng giữ đồ của người chết, không nên.
Và như thế, Minh đã có di vật cuối cùng của Đỗ.
Hôm nay giở lịch bỗng thấy đã đầu tháng tám âm lịch. Minh se thắt cả lòng. Ngày tháng đi nhanh như muốn bỏ rơi con người. Sắp đến Trung Thu rồi sao? Sắp đến một khoảng thời gian gợi thật nhiều kỷ niệm- kỷ niệm giữa một người còn sống và một người đã chết. Có đến chết Minh mới quên được lần đầu tiên gặp Đỗ trong sân nhà thanh vắng. Và có trở thành người mất trí Minh mới quên được đêm Trung Thu rước đèn cùng trẻ nhỏ, nến thắp lung linh cầm trên tay và Đỗ thương mến gọi “Thúy Minh”. Sẽ không còn có ai gọi được Minh bằng giọng êm đềm tha thiết ấy nữa. Không còn ai nữa! Đỗ đã viết trong quyển nhật ký: ”Thúy Minh , cô bé đã đến vào một mùa trăng” sau chuyến đi Căm-Bốt. Và ở những trang sau, Đỗ viết về Minh thật nhiều, bằng màu mực xanh tràn trề hy vọng. Đỗ đi rồi, Đỗ đã bỏ xác tại một núi cao hay một vực sâu nào rồi, Minh mới được thấy rõ tấm lòng của Đỗ. Chưa có nỗi nào cay xót hơn. Và Minh tưởng tượng nét mặt của Lâm qua những dòng chữ của Đỗ, khi Lâm nói: “Thiếu úy vui vẻ quá! Em nghe người ta bảo, người vui vẻ yêu đời không bao giờ chết yểu”. Đỗ ơi! Minh cũng ráng mà tin như thế. Nhưng bao ngày qua không thấy bóng người về. Mưa vẫn còn tuôn đổ đến giữa mùa thu. Trăng năm nay nhất định sẽ không sáng tỏ vì mây xám giăng đầy trời. Xóm nghèo nhất định sẽ không còn vui với đám rước đèn của trẻ nhỏ vì mưa sẽ làm tắt hết nến. Bởi vì bạn bè đã về hết, cả những người sống lẫn người đã hy sinh, mà chỉ một mình anh ở lại xứ người.
**
Bé Tuấn, con út của cậu Phương chạy đến sà vào lòng Minh, bập bẹ:
- Có … anh Thụy…chị ơi!
Minh ra cửa, thấy Thụy đứng đó, tay cầm chiếc lồng đèn cũ. Minh hỏi:
- Việc gì vậy Thụy?
Thụy hỏi:
- Nhà chị có tre không? Sườn đèn của em bị gãy một chỗ.
Minh cười:
- Ở đây làm gì có tre. Mà Thụy… năm nay chơi lại đèn cũ sao?
Thụy cúi nhìn chiếc lồng đèn trên tay:
- Dạ, đèn này còn tốt. Em sẽ giữ lại hoài.
Rồi Thụy chỉ cho Minh thấy chiếc đèn chỉ bị hỏng một chỗ nhỏ. Màu giấy bóng xanh lơ vẫn còn mới nguyên. Minh xúc động . Chiếc đèn tàu thủy quân lục chiến Đỗ làm đây mà! Lại một kỷ niệm thân ái của Đỗ. Minh biết Thụy có thừa thì giờ để làm một chiếc đèn mới, vì nó đã đậu vào lớp sáu trường công, nên còn được nghỉ hè lâu, nhưng nó vẫn muốn chơi chiếc đèn tàu đổ bộ này hơn. Minh nhìn Thụy, thấy thương thằng bé vô cùng.
- Nhà chị không có tre, nhưng hình như bên nhà bác Liêu có, bác thường để sẵn trong nhà để làm các thứ lặt vặt. Sao Thụy không qua bác xin?
- Bác Liêu đóng cửa ngủ, em không dám gọi.
Minh ngạc nhiên. Mọi hôm bác vẫn thích ngồi khắc bia mộ, không buồn đi ngủ trưa. Hôm nay bác mệt chăng? Hay là bác đã trở bệnh nặng thêm? Từ hôm người ta giao chiếc rương của Đỗ về, bác thẫn thờ như người mất trí, và ho nhiều hơn, mệt mỏi hơn. Tự nhiên Minh cảm thấy âu lo. Không biết tình thân nào đã khiến cho Minh thương bác Liêu như chính cha mình? Minh nói với Thụy:
- Chắc bác bệnh rồi? Thụy đi với chị sang nhà bác thăm nhé!
Minh và Thụy đi nhanh sang ngõ bên kia. Sân nhà bác Liêu vắng lặng. Mấy tấm bia dựng tựa vách tường. Lon nước khô cạn, có thể bác Liêu đã không làm việc từ sáng nay. Chiếc đục, chiếc búa bỏ nằm trong góc. Đúng là bác Liêu đã trở bệnh rồi. Thụy đẩy cánh cửa khép hờ. Căn nhà tối om. Trên bàn thờ không có khói nhang như thường ngày. Và Thụy đã thấy bác Liêu nằm trên đi-văng. Nó gọi khẽ:
- Bác ơi! Bác ơi!...
Minh đến ngay cạnh bên. Minh bỗng lùi lại. Có một không khí rờn rợn lảng vảng xung quanh. Minh run rẩy nắm lấy cổ tay của bác Liêu….Lạnh giá! Thụy cũng cảm thấy việc gì đã đến, cúi xuống lay mạnh bác Liêu. Nó nghe tiếng Minh rú lên:
- Ôi! Bác Liêu chết rồi!
Tiếng kêu của Minh làm Thụy lạnh buốt cả lưng. Thụy và Minh khóc òa lên nức nở. Bác Liêu đã ngủ giấc ngủ dài nhất của một con người, bỏ lại hết những phiền muộn tăm tối.
Ngoài song rào xiêu vẹo có tiếng của một loài chim nào rất lạ cất lên, nghe như xúi biểu: “Khóc đi! Khóc đi!.....”