“Chiến sĩ không bao giờ chết!
Anh Đỗ, anh đã ra đi vào cõi mịt mùng. Nơi đó là vùng sống nguy khổ hay cõi chết bình an? Từ mùa xuân đó đến nay đã hơn một năm, đời sống có phải chỉ là dành cho những người còn lại?
Chim không còn hát những khúc hoan ca trên cành mận trước nhà. Gió như muốn thoảng lời đưa hương nhớ. Dù người đi không về, vẫn có tiếng thì thầm luôn nhắc nhở Minh:
Chiến sĩ không bao giờ chết – Không bao giờ chết”.
Thúy Minh viết như thế vào quyển nhật ký của Đỗ rồi buồn bã gấp lại. Giấy đã cũ nhưng còn thơm vương vấn. Minh đã không đốt di vật dấu yêu này, cũng như vẫn giữ kỹ những bức thư của Đỗ. Minh không sợ đọc chữ của người chết. Minh cũng muốn ngắm mãi chữ ký của Đỗ trên đồng bạc mới mà Tết năm ngoái Đỗ đã mừng tuổi Minh. Tết năm nay qua đi như một khoảng ngày bình thường, Minh không chờ đón và Minh cũng không tiếc rẻ. Cuộc sống chợt khô lại giống như khoảng thời gian Minh chưa gặp Đỗ. Chỉ khác là ngày xưa còn có một chút vô tư mà bây giờ thì nặng đầy ưu sầu. Minh tưởng như Minh chỉ còn là một chiếc bóng, lặng lẽ học hành, lặng lẽ làm việc. Không quá vui mừng khi nghe mình thi đậu Tú tài đôi. Không náo nức trước ngưỡng cửa đại học. Không xôn xao sửa mình làm một sinh viên trịnh trọng như bao nhiêu người. Minh đã vào trường Khoa Học. Minh lặng lẽ làm một sinh viên chăm chỉ. Nhưng không ai hiểu rằng mỗi khi ngắm những hoa cỏ trong vườn thực vật, Minh đã nghĩ đến Đỗ và tưởng tượng ngày xưa đã nhiều lần Đỗ bước chân đến đây. Đỗ cũng từng mài dũa mơ ước ở ngôi trường ấm cúng này, từng thực hiện công việc lập “Lớp học huynh đệ” với các bạn anh. Vậy mà có ngày Đỗ đã mất bóng ở sân trường, có ngày Đỗ đã thiếu mặt trong những khung cảnh thân yêu – và đã vắng tiếng trên cõi đời ???….
Minh sắp những kỷ vật vào một chỗ riêng trên bàn học,bàng hoàng nhìn đó như nhìn thấy Đỗ hiện về. Năm nay Minh mười chín tuổi. Tết đã qua và không có ai mừng tuổi cho cô bé. Như vậy có phải chăng Minh đã lớn? Không phải vậy. Mà chỉ vì không còn Đỗ nơi đây. Bác Liêu cũng đã qua đời. Tre già khóc thương măng non rồi cũng cạn nước mắt. Nỗi nhớ thương phiền muộn rồi cũng giết dần con người. Đến lúc chết bác Liêu cũng vẫn còn mang sắc diện khắc khổ như lúc ngồi khắc mộ bia cho con. Người con trai lớn về làm đám tang cho cha xong cũng vội vã ra đi, gửi gắm nhà cho hàng xóm. Căn nhà của bác Liêu bây giờ đóng kín cửa. Không còn có ai trú ngụ. Không còn nghe tiếng đục khua trên đá. Mùa xuân đến làm cho cây mận bỗng tươi xanh và bắt đầu thấy có trái. Cả lũ chim chuyền cũng trở lại sân cũ. Nhưng hót cho ai nghe? Tiếng chim lạc lõng trong không gian buồn tênh. Rồi xuân chán nản bỏ đi. Cũng không có ai biết mà tiếc rẻ.
**
Đời sống bây giờ như là đang dành cho những người còn lại. Mùa xuân qua, đến hạ – khoảng thời gian khô gọn đối với Thúy Minh. Không có gì đáng ghi vào bút ký, vì sinh hoạt diễn ra bình thường quá đến độ nhàm chán. Không có gì đáng gọi là niềm vui. Minh có thêm một công việc mới, nhỏ nhoi và âm thầm: mỗi ngày mở cửa nhà bác Liêu thắp nhang cho hai bác trên bàn thờ và dọn dẹp căn nhà một chút. Có hôm Minh ngồi lặng trên ghế, nhìn khói hương tỏa mờ và nhớ thật nhiều giọng nói thân quen của bác. Có hôm nhìn cây đàn trong góc nhà, chiếc áo mưa treo trên vách, đôi giép dưới gầm đi-văng mà tưởng như Đỗ vẫn hiện diện trong khung cảnh yêu mến này. Có hôm Minh tự hỏi không biết Đỗ còn sống hay đã rũ xương ở một nơi nào. Người chết không có lấy một nấm mồ, không có một nén hương – buồn tủi biết dường bao!... Và đến một hôm, Minh đã viết tên “Nguyễn Thi Đỗ” vào một miếng giấy bìa cứng, đặt lên bàn thờ rồi gục đầu lên đó khóc một mình….
Cuối tháng ba, không khí yên lành bỗng lại sôi động lên. Có tin Quảng Trị dậy lửa. Có tin biên giới bị ngoài Bắc xâm lấn. Từng đoàn người dân tản cư vào Huế, rồi từ Huế vào Đà Nẵng. Ở miền cao nguyên cũng sôi sục lửa đạn. Có tin ác chiến ở miền Tam Biên, rồi Kontum bị tàn phá. Rồi trong Nam cũng bàng hoàng với trận Bình Long, An Lộc. Những thành phố bị đổ nát. Màu tang tóc phủ khắp nơi làm xúc động người thủ đô.
Minh theo các đoàn thể sinh viên, học sinh đến những trại tạm cư để san sẻ hạt gạo, manh áo. Minh cùng Liên Nga đi phát thuốc ở các trại cứu trợ. Minh tham dự những buổi trưa nắng cháy, đứng phát gạo, muối, mùng mền cho những người dân từ An Lộc chạy về. Mồ hôi chảy xuống, Minh nếm và nghe mặn như nước mắt. Minh cảm thấy như đời sống không phải chỉ riêng ình nữa, mà Minh còn chia xẻ với những người dân hoạn nạn.
Minh rủ bạn hữu đi hiến máu. Minh theo các đoàn công tác của sinh viên đi quyên tiền mọi giới dân chúng, trên đường phố, vào các tiệm buôn, vào các trường học. Minh tham gia văn nghệ để gây quỹ cứu trợ nạn nhân chiến cuộc….
Một hôm cậu Phương bảo Minh:
- Cậu rất thích những hành động biểu lộ nhiệt huyết của tuổi trẻ. Cháu đã làm rất đúng. Điều đó làm an ủi những người đã hy sinh… như cậu Đỗ.
- Dạ, cám ơn cậu.
- Cháu thích làm việc xã hội lắm phải không? Vậy cháu có muốn làm một công việc hợp với khả năng của cháu không?
Minh ngạc nhiên:
- Thưa cậu, cháu chẳng có tài gì ngoài việc học hành và giúp đỡ cậu công việc ở nhà.
Cậu Phương cười:
- Cháu chẳng là một y tá giúp việc đắc lực cho cậu thì là gì? Minh à, cậu đề nghị cháu đến giúp ở một bệnh viện. Nơi đó, thương binh được đưa từ Quảng Trị về rất nhiều. Cháu có thể tình nguyện đến giúp họ một tay. Cậu thấy công tác đó rất thích hợp với cháu. Cháu nghĩ thế nào?
Minh đáp:
- Vâng, cháu sẽ đến.
Và tưởng tượng ra một khung cảnh mới, để ình góp bàn tay, Minh xúc động vô ngần.
**
“…..Chiều quê còn nhớ người chăng?
Vì ai vào chốn tử sinh
Chiến trường, quên thân mình
Người về có nhớ thương binh?...”
Cả phòng bệnh im lặng sau lời hát của Minh. Nửa phút trôi qua. Rồi bỗng như sực tỉnh, có tiếng vỗ tay, hoặc đập xuống thành giường nghe dòn. Vũ đặt cây đàn xuống, nhìn Minh lúc này đang cúi đầu buồn bã.
Vũ hỏi khẽ:
- Chị Minh, sao hát xong chị lại buồn vậy?
Minh gượng cười:
- Đâu có… Tại …Vũ đàn buồn.
- Không phải rứa, mà cả phòng đều buồn, chị Minh ạ!
- Vậy là tại chị đã hát bài quá buồn hả Vũ?
- Không. Phải cám ơn chị chứ. Vũ thích nghe những bản nhạc như rứa, chứ không thích thứ nhạc kích động hay mùi mẫn rẻ tiền. Nhưng mà … Vũ chưa nghe ai hát bài “Thương binh” ray rứt, xót xa như chị.
- Chị hát dở òm hà.
Hai người cùng cười. Vũ nói:
- Chị Minh! Vũ hỏi câu ni, chị đừng giận Vũ tò mò hỉ. Chị có chuyện chi buồn phải không?
Minh cau mày, rồi cúi đầu giấu đôi mắt rưng rưng. Minh không trả lời nổi. Cổ họng nghẹn lại. Vũ lại khơi động tâm tư Minh nữa rồi. Ngay cả hình dáng của Vũ cũng đã làm Minh nhớ đến Đỗ vô hạn. Một buổi sáng thứ bảy, bước vào phòng bệnh, Minh thấy Vũ đang ngồi thẳng trên giường ngắm cánh tay băng bột treo ngang ngực. Nơi đầu giường, Vũ đã xếp gọn bộ đồ trận rằn ri và chiếc mũ màu xanh lá cây. Và Vũ đã nói chuyện với Minh bằng giọng Huế. Tất cả những điều đó làm cho Minh sững sờ. Tại sao lại không phải là Đỗ, để trở về trong bệnh viện, để làm người thương binh, để cho Minh được băng bó, săn sóc?
Vũ trạc bằng tuổi Minh thôi. Vũ có mẹ và em ở Hải Lăng, Quảng Trị, không biết đã tản cư đi đâu, bình yên hay đã chết. Vũ vào lính được hai năm. Vũ mới theo đoàn quân tái chiếm Quảng Trị, và bị thương phải trở về. Thế thôi, đó là những điều mà Minh biết về Vũ.
Thấy Minh không nói, Vũ hỏi:
- Chị Minh! Chị giận Vũ rồi phải không?
Minh ngước lên, lắc đầu:
- Không có. Vũ hỏi một câu đáng hỏi. Từ lâu rồi chị ít tâm sự với ai.
Vũ gõ nhẹ vào thùng đàn, nói:
- Rứa Vũ có đáng được nghe chị tâm sự không?
Giọng Minh như chùng xuống:
- “Tâm sự” của một người sẽ vô ích đối với một người khác. Nhưng nếu Vũ muốn…
- Vũ không có chị. Vũ chỉ có em gái. Em gái của Vũ quê mùa như cục đất, Vũ chưa bao giờ biết hắn nghĩ chi. Còn “bồ bịch” thì Vũ không có, vì Vũ thấy con gái đời ni toàn người “chi chi mô”.
Minh bật cười:
- Rồi “răng” nữa?
- Ngay ngày đầu về đây, mới gặp chị Vũ đã mến, Vũ đã nghĩ như thể chị là người chị của Vũ. Vì rứa Vũ thấy chị buồn Vũ thắc mắc ghê.
Minh bùi ngùi, nói với Vũ như một lời kể lể:
- Cám ơn Vũ. Chuyện của chị cũng chẳng có gì đâu… Đã qua hết rồi Vũ ạ. Có ai không buồn khi một… người quen, một … người thân của mình ra trận, rồi… mất tích luôn không hở Vũ?
Vũ mở to mắt:
- Khi mô hở chị?
- Gần hai năm rồi Vũ ạ. Dù không muốn, vẫn phải xem như người đã chết.
Vũ yên lặng. Minh cắn chặt môi như người đang chịu đựng một vết thương. Giây lát sau, Vũ hỏi, bằng một giọng rất thấp:
- Chị Minh, người nớ… có phải là người yêu của chị không?
Minh ngơ ngác. Vũ nói chữ “người yêu” nghe xa lạ thế nào! Và Minh ngẩn ngơ khi nhận ra rằng chưa bao giờ Minh nghĩ đến hai tiếng đó. Hai tiếng thật thông thường trong những cuốn phim, trong những vở kịch, trong những bản nhạc, cũng như trong tiểu thuyết, nhưng lại rất lạ đối với Minh. Minh đáp nghe xa vắng:
- Ừ… Vũ cứ nghĩ là như thế đi!
… Và chợt nhớ thật nhớ một hôm đi trên đường có hàng cây Điệp ngợp bóng mát, Đỗ đã khôn khéo kể cho Minh nghe chuyện anh lính tên Lâm học bài, đọc tên rừng U Minh thành chữ “Yêu Minh”, Minh muốn khóc….
Minh rời chỗ của Vũ, đến gặp người y tá trưởng để lấy mấy lọ thuốc. Minh đi phát thuốc cho những thương binh trong phòng. Vũ xòe bàn tay ra, cười:
- Chị cho Vũ xin một viên thuốc ngủ.
- Chi vậy?
- Chị Minh quên hôm ni là thứ bảy?
Minh ngơ ngác:
- Thứ bảy… có liên quan gì đến thuốc ngủ?
- Có chứ! – Vũ cười thật trong- Hôm ni thứ bảy, Vũ phải ra phố, đi thăm mấy đứa bạn, rồi chui vô rạp xi-nê ngồi. Tối trở lại bệnh viện, phải ngủ một giấc thật ngon.
- Vậy mà làm chị hết hồn.
Minh đặt lên lòng bàn tay Vũ một viên thuốc màu trắng. Vũ nắm bàn tay lại, mỉm cười:
- Cám ơn chị.
Minh đi lấy thêm thuốc bổ ở dưới lầu. Khi trở lại Minh thấy Vũ đã thay bộ đồ lính. Vũ đang sửa mái tóc lại để đội chiếc mũ màu xanh lá cây lên đầu.
- Vũ đi phố đó phải không?
- Dạ. À, chị Minh nì!
- Chi đó Vũ?
- Thứ bảy sau chị vẫn vô đây chứ?
- Vâng. Mỗi tuần, thứ bảy chị đều vào đây.
Vũ nói với giọng bâng khuâng:
- Vũ sắp lành vết thương rồi, không biết sẽ xuất viện ngày nào. Có thể thứ bảy tuần sau chị đến sẽ không còn Vũ ở đây nữa.
- Vũ xuất viện rồi sẽ ở đâu?
- Vũ ở nhà tụi bạn. Vũ có ai thân ở đây mô! Có thể Vũ sẽ về Huế, rồi ra Quảng Trị tìm mạ với em Vũ.
- Vậy… xem như hôm nay chị em mình từ giã nhau trước, phải không Vũ?
- Dạ.
- Chị chúc Vũ gặp nhiều may mắn, tìm gặp được mẹ và em. Chị làm y tá tình nguyện, chẳng có gì tặng Vũ để làm kỷ niệm cả.
Vũ cười:
- Chị đã tặng Vũ rất nhiều đó chứ. Không có chị băng bó, thuốc men cho Vũ, làm răng Vũ lành được?
Minh cười theo. Vũ nói:
- Còn Vũ thì có một món quà kỷ niệm nhỏ, Vũ muốn tặng chị mà sợ chị chê.
- Chị không chê đâu. Chị còn đóng hộp cất kỹ nữa đó!
Rồi Minh chờ đợi. Vũ lôi dưới gối ra một túi vải nhỏ có dây rút trên miệng túi. Minh hơi mỉm cười. Vũ đoán biết ý nghĩ của Minh nên nói luôn:
- Chị thấy cái túi vải ni có giống cái túi đựng trầu cau của mấy bà mệ đem theo ăn đi đường không?
- Giống thật, ai cho Vũ đấy?
- Của mạ Vũ may cho đó! Có dây rút đàng hoàng. Hồi Vũ đi Hạ Lào có ghé ngang Hải Lăng, vô nhà thăm mạ Vũ. Bà mừng quá. Nhưng Vũ chỉ có một tiếng đồng hồ để thăm nhà. Bà lật đật lấy vải nâu may cho Vũ cái túi ni, rồi bỏ vô đó nào là dầu khuynh diệp, dầu cù là, nào là kẹo cau, thuốc cảm với lại ... một lá bùa để hộ mạng.
Minh cảm động vô ngần. Vũ thở dài:
- Lần nớ Vũ gặp mạ Vũ là lần chót, ãi đến nay chưa thấy lại. Không biết bà ở mô hay là đã chết trên đường Mười Ba…
Vũ mở dây, banh miệng túi vải, nói:
- Qua Hạ Lào, có một thứ được Vũ bỏ vô đây, một thứ duy nhất được Vũ coi như kỷ niệm quý giá, giống như lọ dầu, như lá bùa của mạ Vũ cho. Bây giờ Vũ muốn tặng nó cho chị….
Vũ lấy ra một mảnh gỗ đưa cho Minh, nói trịnh trọng:
- …vì Vũ quý chị như tình gia đình.
Minh nao lòng, nhìn mảnh gỗ trên tay , Vũ đã đẽo ra hình bình hành, trên đó Vũ khắc tên của Vũ.
Vũ hỏi:
- Chị Minh có chê không?
- Không đâu. Vũ cất mảnh gỗ này từ hồi đi Hạ Lào? Vũ có qua Hạ Lào?
- Dạ. Gỗ này cũng là gỗ Vũ lấy trong chuyến hành quân nớ.
Minh nhìn kỹ tên Vũ trên mặt gỗ. Khi cúi xuống gần thêm để ngắm, bỗng Minh thoáng ngửi thấy một mùi thơm. Là mùi thơm như hương trầm. Minh chợt nghe lạnh cả người. Minh hít mạnh mùi gỗ.
Vũ hỏi:
- Chị ngửi thấy mùi trầm không?
Minh nói mau:
- Có! Gỗ thơm mùi trầm. Loại cây gì đây hở Vũ?
- Vũ không biết. Đó là một thứ cây chi rất lạ mọc hoang ở một góc thung lũng Khe Sanh.
Minh thảng thốt nhắc lại:
- Khe Sanh?
- Dạ. Trước ngày sang Hạ Lào, Vũ đã đóng ở Khe Sanh. Tụi bạn một bữa tê đốn cây nớ về làm củi chụm. Không phải gỗ trầm, vì rằng khi đốt hắn lên khói đen thui. Nhưng để rứa ngửi thì thơm. Vũ tiếc, nên đã dành một miếng đẽo làm kỷ niệm. Ông Thiếu úy trong đại đội Vũ cứ nhạo Vũ hoài: ” Đem về bán lấy tiền xài nghen Vũ! Gỗ trầm đó!”
Minh run rẩy nhìn mảnh gỗ thơm hương, rồi nhìn Vũ:
- Nói thế… Vũ có biết… Thiếu úy Đỗ… không?
- Dạ biết. Chính ông nói với Vũ rứa đó.
Và Vũ ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Chị quen ông Đỗ?
- Có. Vũ có biết gì về anh ấy không? Anh ấy mất tích rồi.
Vũ linh cảm rằng giữa Đỗ và Minh hẳn có một mối liên hệ. Minh đang nôn nao muốn biết thêm một điều gì về Đỗ. Vũ nhíu mày ráng nhớ lại những sự việc xảy ra đã một năm rưởi. Khúc phim khói lửa trở về trong trí nhớ của Vũ…
- Ở Khe Sanh, Vũ qua Hạ Lào và đóng quân trên một ngọn đồi hiểm trở. Địch pháo kích ngày đêm. Một số anh em bị thương được tải về bằng trực thăng. Vũ còn ở lại với tiểu đội của Thiếu úy Đỗ, tiếp tục giữ đồi.
Minh mừng rỡ:
- Vũ có ở lại? Rồi sao nữa?
- Địch lại pháo, và tràn lên đồi. Trong đêm hung hãn vô cùng nớ, Thiếu úy Đỗ bị thương nặng. Vũ không biết ông bị nơi mô nữa, vì khắp người ông máu me đầy cả. Đêm tối làm Vũ như người mất trí. Vũ không còn nhận định được chi.