Vì vậy, khi tôi vào nhà và ngồi xuống đàng hoàng rồi, tôi mới từ tốn nói với chú Lê: “Bây giờ chú đã có thể kể chuyện sư thúc của chú và sư thúc công tự dưng mà có của Đinh Nhất chưa nào?”
Chú Lê thở dài một tiếng và nói: “Năm đó chủ cũng vừa mới gia nhập sư môn nên không biết nhiều, hơn nữa từ sau khi ông ta trốn khỏi sư môn, chuyện của ông ta trở thành cấm kỵ của sư môn, không ai nhắc lại nữa...”
Tôi mặt dày nói: “Không sao, cháu không phải đệ tử của chú, nói với cháu cũng không sao đâu. Hơn nữa, cháu còn muốn nghe xem ông ta đã thiểu nhân tình gì của chú, mà có thể khiến tối hôm nay ông ta cho chú mặt mũi lớn như vậy?”
Chú Lê bị2tôi quấn đến phát phiền, đành phải làm vẻ mặt bất đắc dĩ nói: “Thằng nhóc chết tiệt này, sao lại tò mò thế hả? Cháu chưa từng nghe câu tò mò hại chết mèo sao?” Tối cười ha ha: “Kể chuyện nghe thôi mà, lão già chết tiệt kia thực sự rất lợi hại, lỡ đâu về sau cháu gặp lại ông ta thì sao? Dù sao cháu cũng phải biết lại lịch của ông ta là gì chứ?” Nói đến đây tôi đột nhiên nói với sắc mặt thần bí: “Chẳng lẽ chú không muốn nói là bởi vì năm đó ông ta đã làm ra chuyện máu chó gì đó ở sư môn? Hay là có quan hệ yêu đương loạn luân gì đó với sư nương à?”
Chú Lê nhăn nhó nói: “Rồi rồi rồi!!! Cháu đừng có đoán mò! Còn đoán tiếp6nữa thì buổi tối sư phụ và sư nương chú sẽ phải báo mộng lải nhải với chú mất!” Sau đó chú Lê kể lại cho chúng tôi một câu chuyện xảy ra vào thời đồng lứa với sư phụ chú... Phải nói là câu chuyện này đúng là nghĩ lại mà thấy sợ. Năm xưa, thầy của sư phụ chú Lê, cũng chính là sự công của chú, thu ba đồ đệ. Trong số đó, người ông ấy yêu thích nhất chính là đệ tử cuối cùng mình thu nhận vào năm Hoa Giáp”, tên là Bùi Tông Lâm, cũng chính là tiểu sư thúc tự dưng mà có kia của chú Lê.
*Hoa Giáp: năm tròn sáu mươi tuổi.
Tiểu sư thúc này của chú Lê trời sinh thông minh, ông ta là nhân tài hiếm có, còn có ngộ tính cực cao đối với huyền0học của Đạo gia, tuổi còn nhỏ đã có thể đi theo thầy vào Nam ra Bắc, hàng ma phục yêu.
Nhưng ai biết đầu vào năm Bùi Tông Lâm tròn hai mươi tuổi đã xảy ra một việc không người nào ngờ tới được và cũng bởi vì chuyện này mà làm cho ông ta bị trục xuất khỏi sự môn, thành một tán nhân phiêu bạt tha phương khắp nơi.
Năm ấy chú Lê mười tuổi, cha mẹ của chú đều lìa đời khi vừa kết thúc mười năm thảm họa“. Chưa thành niên, chú chỉ có thể ở trong thôn xin nhà này miếng cơm, nhà kia miếng cháo sống lay lắt qua ngày.
** Mười năm thảm họa: Ý nói đến Đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản, một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa diễn5ra trong mười năm từ tháng 5/1966 tới tháng 10/1976.
Tuy nhiên thời ấy mọi nhà đều nghèo, ai cũng sợ nuôi thêm một đứa trẻ choai choai giống như chú Lê, bởi vì đứa trẻ lớn như vậy đang đứng tuổi ăn tuổi lớn, nhưng trong đại đội lại không được tính là người lớn, nên không được chia phần công.
Vì thế bác cả của chú Lê hạ quyết tâm, đưa chú Lê lúc ấy chỉ có mười tuổi đến đạo quan trên một ngọn núi cách thôn hơn trăm dặm, hi vọng chú có miếng cơm ăn để sống sót.
Tòa đạo quan này tên là Nguyễn Khánh Quan, do ẩn sâu ở trong núi nên may mắn thoát nạn trong mười năm rung chuyển. Tuy nhiên chú Lê cũng từng nghe bác cả của mình kể, lúc trước không phải “tiểu tướng Hồng vệ binh”9không tổ chức quân đi đập bỏ đạo quan, chỉ là mấy chục con người đi vòng vèo trong núi cả một ngày một đêm cũng không tìm thấy, cuối cùng đành bất lực trở về.
Từ lúc ấy trở đi, bác cả của chú Lệ cảm thấy người của đạo quan này thật sự có bản lĩnh, cho nên ngẫu nhiên gặp được người của đạo quan xuống núi, người trong thôn cũng sẽ lén bố thí một ít gạo và mì.
Mà sở dĩ bác cả của chú Lê biết đường đi cụ thể đến đạo quan này hoàn toàn là bởi vì vào mấy năm trước, lúc ông ấy đi lên núi đốn củi không cẩn thận rơi xuống khe núi, suýt nữa đã mất mạng, sau đó may mắn gặp người trong Nguyễn Khánh Quan mới được cứu lên, đưa ông ấy về quan săn sóc mấy ngày, sau đó lại đưa ông ấy xuống núi, lúc này mới có chuyện lén lút qua lại với đạo quan về sau. Hồi đó sư phụ của chú Lê thấy chú Lê còn nhỏ tuổi, tâm tính khó ổn định, vì vậy nhận chú làm đệ tử tục gia, ít nhất cũng có thể miễn cưỡng sống sót, không đến mức không nơi nương tựa, chịu đói chịu khát. Lúc ấy sư phụ của chú Lê và hai vị sư thúc khác đều là đạo sĩ tu tại gia, ngày thường ở trong quan canh tác, cố gắng tự cung tự cấp. Thỉnh thoảng cũng sẽ xuống núi đi xin chút lương thực, nhân tiện giúp dân thôn dưới chân núi giải quyết một ít chuyện xấu.
Chú Lê còn nhớ rõ đó là vào năm thứ hai chú lên núi, tiểu sư thúc Bùi Tông Lâm của chú gây ra họa lớn, bị sự công đuổi xuống núi... Nếu phải nói rõ rốt cuộc là bởi vì chuyện gì mà Bùi Tông Lâm bị đuổi xuống núi, thì lúc đó chú Lê cũng không biết rõ, chẳng qua thỉnh thoảng chú nghe sư phụ và sự công nói chuyện cũng biết một ít, hình như là bởi vì một người phụ nữ...
Ai ngờ vào một đêm trăng tròn sau một tháng từ khi Bùi Tông Lâm bị đuổi đi, ông ta đột nhiên lặng lẽ lén quay về quan, đúng lúc bị chú Lê dậy đi tiểu bắt gặp. Đến bây giờ chú Lê vẫn nhớ rõ, đêm đó ánh trăng trên bầu trời rất sáng, nhưng dưới ánh trăng sáng ngời chú lại nhìn thấy tiểu sư thúc Bùi Tông Lâm người đầy máu. Lúc ấy chú Lê quá nhỏ tuổi, bị Bùi Tông Lâm máu me đầy người dọa sợ đến mức ngẩn ra tại chỗ. Sắc mặt Bùi Tông Lâm tái nhợt đi đến trước mặt chú Lê, khẽ nói: “Đừng lên tiếng, sư thúc chỉ trở về lấy mẫu pháp khí thôi.” Khi đó chú Lê đã bị dọa choáng váng, dĩ nhiên sẽ không cất tiếng, cứ thể nhìn Bùi Tông Lâm lảo đảo đi vào thư phòng của sự công, không lâu sau, ông ta cầm một món đồ được cuộn trong vải bố trắng đi ra. Khi Bùi Tông Lâm đi qua bên cạnh chú Lê lần nữa, chú mới khẽ hỏi một câu: “Tiểu sư thúc?”
Bùi Tông Lâm sửng sốt, toàn thân lập tức căng cứng, cả người lạnh lẽo: “Chuyện gì?”
Người... Người có còn quay về không?”
Bùi Tổng Lâm khẽ thở dài, thể lương lắc đầu: “Không đâu, con học đạo cho tốt, tương lai nhất định sẽ có tiền đồ hơn so với tiểu sư thúc...” Ông ta nói xong cũng không quay đầu lại mà rời đi.
Bùi Tông Lâm đi chưa được mấy ngày, trong một lần nửa đêm dậy đi nhà xí, bạn học Tiểu Lê Tử đột nhiên phát hiện ánh trăng trên trời đỏ thẫm như máu. Một cơn ớn lạnh trước nay chưa từng có lặng lẽ bò lên trên sống lưng chú, dọa chú phải vội vàng chạy về phòng, trùm kín chăn không dám ra ngoài nữa.
Sau này chú Lê mới biết, pháp khí mà lúc ấy Bùi Tông Lâm trở về lấy đi là thanh “Thước đo trời”, là một pháp khí vô cùng lợi hại trong quan. Nói cụ thể thì có được pháp khí này vừa có thể sai bảo quỷ vừa có thể điều khiển xác chết, nếu nó nằm trong tay nhân sĩ chính đạo, nó chính là một vũ khí sắc bén để hàng yêu trừ ma, nhưng nếu như rơi vào tay người tâm thuật bất chính, thì sẽ trở thành hung khí làm hại một phương.