Chương mười lăm
Simon lặng lẽ xuống giường và nhặt nhanh quần áo trên sàn nhà. Anh đi vào phòng khách, nhẹ nhàng đóng cánh cửa phòng ngủ lại sau lưng.
Anh nhanh chóng mặc quần áo rồi nhấc điện thoại và quay số quầy lễ tân của khu resort.
“Lễ tân xin nghe. Chúng tôi giúp gì được ngài?”
Simon chớp măt, nhận ra giọng nói khan khan do thói quen đốt hai bao thuốc một ngày ở đầu dây bên kia. “Pres hả?” anh hỏi chủ nhân khu resort. “Anh làm cái quái gì ở quầy lễ tân thế?”
“Simon Hunt à?” Preston Seaholm cũng nhận ra giọng Simon. Nếu anh có tò mò chút nào về lí do tại sao Simon đang ở một trong những căn phòng sang nhất của anh trong khi bản thân có một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi ở Sunrise Key, thì anh cũng không thể lộ ra. “Nhân viên trực đêm của chúng tôi xin đến muốn, còn nhân viên ca tối không thể ở lại – cậu ta có một cuộc hèn hò nóng bỏng mà. Thỉnh thoảng tôi thích được thế chỗ mọi người trực tiếp cảm nhận nhịp sống của nơi này. Giờ tôi đang tìm kiếm một nhân viên lễ tân làm ca ngày đáng tin cậy…”
Simon thẳng người lên. “Anh đang tìm ư? Tôi mới ngụ tại khách sạn Parker House ở Boston, và theo tôi thấy, ở đó có một anh chàng xứng đáng được hai mươi điểm theo thang điểm từ một đến mười đấy. Tên anh ta là Dorminic Defeo, và anh ta đáng giá lắm. Dù anh trả lương cho anh ta bao nhiêu, thì thể nào cũng thu về được gấp đôi. Anh hãy thử gọi cho anh ta xem sao – và nói rằng anh là bạn tôi.”
Simon có thể nghe thấy Pres đang ghi cái tên ấy ra giấy. “Tôi sẽ gọi, cám ơn về lời mách nước. Chà, nếu được việc thì tôi sẽ nợ anh một món đó. Ồ… Manuel đây rồi.” Im lặng một lúc, rồi Simon nghe tiếng Pres nói, “Không, không – để tôi làm nốt, cảm ơn. Đó là một anh bạn của tôi.” Pres chuyển sự chú ý trở lại Simon. “Như tôi nói lúc đầu, tôi có thể giúp gì anh?”
“Tôi cần một cuốn sổ,” Simon nói.
“Ừm, hình như tôi còn mấy cuốn trong văn phòng.”
“Nó phải có gáy xoắn.”
“Giống vở chép bài của học sinh ở trường à?”
“Đúng rồi.”
“Tôi có thấy chúng ở cửa hàng bách hóa dưới phố,” Pres nói. “Nó mở cửa đến… hai mươi phút nữa.”
“Bằng mọi giá phải có ai đó chạy ra ngoài mua một cuốn cho tôi. Tôi không tự đi được.”
“Việc quan trọng à?”
“Phải.”
“Vậy thì không thành vấn đề. Giờ có Manny ở đây rồi, tôi sẽ đi cho.”
“Anh…?”
“Lát sau gặp lại nhé.”
“Anh thậm chí không muốn biết tôi cần quyển số đó vào việc gì sao?”
Preston cười. “Đương nhiên là có chứ. Nhưng hiện tại tôi là chủ nhà. Mở miệng hỏi thì thật thô lỗ. Nhưng anh hãy tin rằng vào ngày anh trả phòng, tôi sẽ tới văn phòng của anh với tư cách bạn bè, và rồi anh sẽ cho tôi hay chuyện này là thế nào. Và tốt hơn hết nó phải là chuyện chính đáng.”
“Ồ, đúng vậy đấy,” Simon nói với nụ cười mơ hồ. “Nó cực kì chính đáng.”
Frankie tỉnh giấc khi Simon chui vào giường cạnh cô và hôn cô.
Ánh nắng đang rọi qua những bức rèm dày và một mùi hương thơm ngát thoảng đưa đến từ một phòng nào đó quanh đấy.
Những nụ hôn của Simon có vị cà phê mocha và bánh sừng bò. Anh đã dậy và gọi đồ ăn lên phòng sớm thế sao?
“Mấy giờ rồi anh?” cô hỏi.
Anh kéo cô vào lòng và lại hôn cô. “Gần bảy giờ. Đến giờ ăn sáng rồi.”
“Bảy giờ ư?” Cô vùng ra khỏi hơi ấm mê hoặc của cơ thể anh và cảm giác tuyệt diệu khi tay chân họ quấn quýt với nhau, da thịt áp vào da thịt. Cô có thể cảm thấy sự ham muốn phản chiếu nơi anh ép chặt vào cô, nhìn thấy sự ham muốn phản chiếu trong mắt anh. “Anh đâu phải người dậy sớm. Từ khi nào anh lại thức giấc trước bảy giờ thế?”
“Anh không hẳn là thức giấc,” anh mập mờ nói.
“Vậy ai đã gọi phục vụ phòng?”
Anh chỉ mỉm cười và lại hôn cô. Lần này thì anh đẩy cô ra khi cô định dấn sâu thêm nụ hôn của họ. “Đi ăn sáng đã nào.”
Frankie vô cùng hoang mang. “Anh muốn em rời khỏi giường… ngay bây giờ ư?” Rõ ràng cơ thể anh đã nóng rực lên vì cô cũng như cơ thể cô đang nóng rực lên vì anh, thế mà anh lại muốn cô… đi ăn sáng ư?
Anh đẩy nhẹ cô cái nữa. “Đi đi.”
Ở cuối giường có một chiếc áo choàng lụa rất đẹp, và Simon cầm nó lên, đưa cho cô.
Cô bật cười. “Simon… chúng ta ăn sáng sau không được sao? Em muốn ở trên giường. Và rõ ràng em thấy là anh cũng…”
“Anh sẽ đợi em ở đây.”
Giờ thì cô thực sự bối rối. “Anh không ăn sáng à?”
“Anh ăn rồi.” Anh mỉm cười với cô. “Đi đi, làm theo ý anh đi.”
Simon ngả người xuống giường trong khi Frankie nhìn anh chằm chằm, mắt nheo lại. Anh có vẻ mệt mỏi, như thể đã thức suốt đêm. “Có chuyện gì vậy?”
Đáp lại, anh chỉ cười.
Frankie khoác áo choàng vào rồi thắt dây lưng, chất lụa mềm cọ vào da cô mát lạnh. Sau khi trao cho anh một cái nhìn cuối cùng lâu thật lâu, cô rời phòng ngủ sang phòng khách.
Chiếc bàn ngoài ban công được phủ vài lanh và bày một bữa sáng thịnh soạn. Có trái cây tươi các loại, một bình cà phê thanh nhã, một giỏ bánh mì và bánh ngọt mới nướng – trong đó có cả bánh sừng bò, món khẩu của cô. Rồi thì nước ép trái cây, mứt, bơ và mật ong. Và ở giữa khay đồ ăn mà anh chuẩn bị cho cô có một cuốn sổ. Một cuốn sổ đóng gáy xoắn.
Trông nó y như những cuốn sổ rẻ tiền cô dùng làm nhật kí từ lúc cô bắt đầu biết viết.
Lòng đầy tò mò, cô mở ra trang đầu tiên.
Tên cô và ngày tháng hôm nay được viết trên đó. Nhưng còn một ngày khác nữa. Sau đó gần một năm.
Và nét chữ không phải của cô. Mà là của Simon.
Chuyện gì thế này?
Cô ngồi xuống ghế, rót ình một tách cà phê thơm lừng, rồi giở sang trang sau.
Ngày 28 tháng Tư, dòng chữ đầu trang. Là hôm nay.
“Sáng nay Simon đã chuẩn bị ình một bữa điểm tâm tuyệt ngon,” cô đọc. “Khi mình thức dậy, nó đã đợi mình sẵn. Sau bữa ăn bọn mình đã yêu nhau suốt cả buổi sáng, và một lần nữa anh nói với mình rằng anh yêu mình. Mình bắt đầu tin anh…”
Chuyện quái gì…?
Chẳng lẽ Simon viết nhật kí về những sự việc chưa hề xảy ra sao?
Cô đọc lướt qua cả quyển, quả đúng vậy, nó kín đặc chữ, từ trang đầu đến trang cuối, với nét chữ rắn rỏi của anh. Điều này quá đỗi kì cục. Anh viết như thể anh là cô vậy, đang điểm lại những chuyện có thật.
Cô quay lại trang đầu. “Và một lần nữa anh nói với mình rằng anh yêu mình. Mình bắt đầu tin anh…” Vô vội giở trang sau.
“Ngày 30 tháng Tư. Simon giúp mình chuyển những món đồ cuối cùng của bà Alice Winfeld ra khỏi ngôi nhà trên đường Pelican. Anh ấy biết mình thấy khó khăn ra sao khi nhìn ngôi nhà đứng trơ trọi, với độc tấm biển Bán nhà treo phía trước. Chúng mình đã cùng nhau đi qua các gian phòng và ở mỗi phòng anh đều hôn mình.
Mình đã kể với anh rằng mình luôn mơ ước được sống trong ngôi nhà đó. Khi còn bé mình đã hình dung hai bà cháu mình chuyển vào sống cùng bà Alice, và tối nào ba người cũng thức thật khuya để chơi bài rummy và Yahtzee với nhau. Khi chúng mình đứng trong phòng khách, ngắm đại dương qua ô cửa sổ, Simon đã cầm tay mình và cầu hôn mình.”
Tim Frankie như nhảy nhót lên tận cuống họng.
“Trước khi mình kịp nói một lời, anh đã bảo mình hãy cho anh cơ hội – nghe anh giãi bày. Anh nói anh yêu mình - anh chưa bao giờ yêu ai như yêu mình cả. Anh đã dành cả đời trốn chạy khỏi kiểu tình yêu như thế, vì sợ kết cuộc sẽ bị mắc bẫy. Song tình yêu anh dành ình không hề trói buộc anh – mà nó khiến anh tự do…”
Mắt Frankie nhòa lệ, cô chớp mắt gạt chúng đi, cô muốn và cần phải đọc thêm những câu chữ mà anh hiển nhiên đã thức suốt đêm để viết.
“Anh nói anh muốn mình sẽ luôn luôn ở bên cạnh anh trong suốt phần đời còn lại. Rằng mình đã đúng khi nói là một ngày nào đó anh sẽ gặp một tri kỉ, một người phụ nữ mà anh không thể sống thiếu được. Anh thề sẽ chung thủy và thành thực với người phụ nữ đó – và anh sẽ không bao giờ phá vỡ những lời thề ấy.
Anh nói anh hẳn là kẻ ngốc nghếch nhất đảo, vì anh đã gặp người đó cách đây nửa đời người, thế mà phải mất hai mươi năm anh mới nhận ra mình chính là người anh muốn. Nhưng giờ đây anh phải sửa chữa sai lầm, anh không thể đợi đến tận bốn tháng sau mới ình biết toàn bộ chuyện này.
Anh muốn sự “mãi mãi”, và anh muốn nó bắt đầu từ hôm nay.
Trước khi mình có thể trả lời, anh đã hôn mình, và mình cảm thấy anh đang run rẩy. Anh rất sợ mình không tin anh – mình nghĩ anh có thể khóc cũng nên…
Anh lại cầu hôn mình lần nữa, rồi sau đó đề nghị mình cùng mua ngôi nhà này với anh – để biến nó thành của hai đứa, để sống hạnh phúc trong đó suốt đời.
Anh bảo rằng có rất nhiều phòng để dùng làm văn phòng cho cả hai đứa, cứ như là điều đó làm tăng thêm sức thuyết phục với mình vậy. Và rất nhiều phòng ngủ phòng khi bọn mình muốn có con. “Em muốn có con không?” anh hỏi. “Bởi vì nếu em muốn, thì anh cũng rất muốn có những đứa nhóc – cùng với em.”
Mình đáp lại anh bằng một nụ hôn.
“Anh yêu em,” anh nói, và mình biết đó là sự thật.”
Lau nước mắt, Frankie giở sang trang, đọc lướt qua tháng Năm và tháng Sáu, không nhịn được cười khi đọc đến đoạn Simon miêu tả về đám cưới vào cuối mùa xuân mà họ tổ chức trên bãi biển, với cô dâu trong bộ đồ tắm Speedo màu trắng. Mỗi trang biết đều có kết thúc giống nhau, với việc Simon bày tỏ tình yêu của anh, và Frankie biết nó là sự thật.
Tháng Bảy cũng trôi qua nhanh chóng như thế, hai người họ đã ổn định cuộc sống trong ngôi nhà trên đường Pelican. Công việc của cả hai đều tiến triển thuận lợi. Frankie thường đi cùng Simon trong các đợt mua hàng của anh, còn anh tiếp tục làm bác sĩ Watson của cô trong những vụ điều tra mới.
Và rồi đến tháng Tám.
“29 tháng Tám. Sáng nay Simon đi Orlando và mãi đến khuya mới mờ. Mình không thể không nhớ đến thỏa thuận bọn mình đã thống nhất hồi tháng Tư – cái thỏa thuận nói rằng đến cuối tháng Tám bọn mình sẽ chia tay. Mình vẫn thức khi Simon về đến nhà, và mình nhắc chuyện đó với anh, rồi hỏi anh, giờ bọn mình đã kết hôn được gần hai tháng, liệu anh có hối tiếc gì không.
Anh nói anh chỉ hối tiếc một điều là đã không lấy mình từ mười năm trước. Và mặc dù hồi tháng Tư anh đã yêu mình hết mức, nhưng đến giờ anh còn yêu mình mãnh liệt hơn. Và hạ lệnh ình không bao giờ được nghi ngờ điều đó.
Mình tin anh, và báo cho anh cái tin mình đã biết chắc sáng nay. Mình đã có thai. Chúng mình sắp có một đứa con.
Phản ứng của anh làm mình kinh ngạc. Anh khóc, sau đó lại cười. Rồi hôn mình. Anh khui một chai champagne không cồn đặc biệt ra, rồi bọn mình uống rượu và khiêu vũ ngoài hiên sau đến tận tờ mờ sáng, cả hai đều vô cùng hạnh phúc…”
Frankie gấp sổ lại, không tài nào đọc tiếp được nữa, mà cũng chẳng cần phải đọc tiếp làm gì. Anh yêu cô. Anh thực sự muốn cưới cô.
Simon đã mệt rũ, nhưng anh chưa ngủ được.
Anh có thể nghe thấy tiếng Frankie bên ngoài ban công. Anh nghe thấy cô rót một tách cà phê, nghe thấy tiếng những trang giấy được lật giở sột soạt khi cô đọc những dòng chữ của anh.
Lạy Chúa lòng lành, anh cầu nguyện. Mong rằng nó có tác dụng.
Thỉnh thoảng anh nghe thấy cô cười. Cười là một dấu hiệu tốt, đúng không?
Rồi anh nghe thấy tiếng chiếc ghế bị đẩy ra sau khi cô đứng lên, và anh biết giây phút quyết định đã đến. Theo đúng nghĩa đen. Simon cảm thấy tim mình đập thình thịch.
Và rồi Frankie xuất hiện nơi ngưỡng cửa.
“Em không tin nổi anh đã làm thế,” cô nói. “Anh đã thức cả đêm à?”
Anh gật đầu. “Phải.”
Cô bước vào phòng, tiến lại gần anh, mắt ướt nhạt nhòa. “Đúng là anh yêu em thật.”
Anh cười bực tức. “Trời ạ, nếu em vẫn còn phải hỏi, thì tốt hơn là anh nên ra khỏi giường và viết thêm vài trang nữa.”
“Em đâu có hỏi,” Frankie nói. “Em chỉ đang… nói lên suy nghĩ của mình thôi. Và bày tỏ sự ngạc nhiên nữa.”
“Lấy anh nhé, Frankie.”
Cô nghẹn ngào thở trong tiếng cười xen lẫn tiếng nức nở. “Đến ngày kia anh mới được cầu hôn em cơ mà?”
“Anh không muốn đợi lâu đến thế.”
Nước mắt của Frankie chực trào ra, và Simon có thể nhìn thấy tình yêu đang hiện rõ trong mắt cô. “Em cũng không muốn đợi.”
“Lấy anh nhé,” Simon thì thầm lần nữa.
Cô ngã vào vòng tay anh và đáp lời anh bằng một nụ hôn.
“Anh yêu em.” Anh nói với cô.
Và cô tin anh.
Hết.