A Tư Mạc đưa tay lên hơi xoa xoa đỉnh đầu, dẫu cho chỗ bị quả thông chọi vào khi sáng cũng không còn đau nữa. Đó là vì hắn mỗi lần đau ở đâu đều có thói quen di di chỗ đó rất lâu, phải qua một hai hôm quên đi thì mới thôi. Chợt nhớ đến chỗ cây tùng nọ bị chặt chỉ lưu lại một vết trắng nhàn nhạt, A Tư Mạc không khỏi thở dài. Suốt bảy tháng nay, hắn một mình đối diện với nó, chặt, bổ, cưa, mài, thậm chí đến lay, bẻ, nói chung là không biện pháp nào không thử. Mỗi ngày hai canh giờ, mặt trời lên đến đỉnh, A Tư Mạc lúc nào cũng toàn thân ướt sũng mồ hôi, cánh tay tê dại vô lực, nhưng cũng chỉ có thể để lại một cái vết cứa nhỏ trên cây nhỏ trên thân cây.
Điểm an ủi duy nhất với A Tư Mạc là bảy tháng nay, vết mài càng lúc càng sâu, hơn nữa hắn càng tu tập, vết cứa càng lúc càng tiến nhanh. Đại khái với tốc độ thế này, chừng bảy tám tháng nữa, vết cắt sẽ đủ sâu để cây thông tự gãy xuống.
A Tư Mạc đột nhiên bật cười với cái suy nghĩ vớ vẩn của mình. Nếu thực sự như vậy, hắn thà đợi cái cây chết đứng vì vết thương còn nhanh hơn.
Nhớ lại ngày đầu tiên A Tư Mạc lên núi, cảnh tượng còn thê thảm hơn thế. Đến khi đại sư huynh quay lại đón hắn, nhìn thấy bộ dạng chật vật của A Tư Mạc, lại quan sát đến cây thông nọ, mỉm cười lắc đầu nói:"Tiểu sư đệ, đừng vội, chầm chậm mà làm. Huynh lần đầu tiên đến chặt cũng chỉ được đại khái như vậy mà thôi, chặt thêm vài lần nữa sẽ tốt hơn. Đến đây, chúng ta trở về ăn cơm trước đã."
Nhìn cây thông mình chặt cả buổi sáng mà vẫn không đổ, A Tư Mạc chỉ đành thở dài đi theo Thương Hùng đại sư huynh xuống núi.
A Tư Mạc mang theo tấm thân mệt mỏi về đến Dược Đường trang thì đã giữa trưa, hắn khó nhọc lê bước đi về phía phòng mình, song cũng không vào phòng, mà chỉ có thể ngồi xuống bậc thềm nghỉ ngơi. Đến khi hắn đứng lên được, lại thấy huynh Thương Hùng lần nữa đến tìm hắn.
Thương Hùng huynh khóe miệng lộ vẻ tươi cười, nói:"Thế nào rồi, tiểu sư đệ, mệt mỏi không?"
A Tư Mạc khẽ gật đầu. Đại sư huynh thấy hắn tuổi nhỏ, lại vừa trải qua kinh biến, song vẫn kiên trì gắng sức, bất giác mỉm cười dìu nó đi vào phòng, nói: " Đi ra đằng sau phòng ăn là chỗ tắm, bình thường đều có nước nóng, sau này khi đệ trở về có thể tự mình đi lấy nước tắm, nghỉ ngơi một lát rồi ăn cơm. Đệ trước hết nghỉ ngơi một lát, huynh vừa cắm cơm, giờ đi nấu thức ăn, xong sẽ đến gọi đệ, đợi ăn xong chúng ta còn phải tiếp tục tu luyện nữa."
A Tư Mạc mặt tái mét:"Sau buổi trưa còn phải tu luyện?"
Thương Hùng sư huynh cười:"Có chứ, sau buổi trưa phải đến Tĩnh Linh đường hấp thu thiên địa linh khí, huynh từ hôm nay bắt đầu truyền cho đệ một ít nhập môn đạo pháp."
A Tư Mạc à một tiếng, rồi lại hỏi :"Đại sư huynh, đạo pháp đó có lợi hại không? Có khó học không?"
Thương Hùng khẽ cười nói:"Tu hành đến tinh thâm, tự nhiên là vô cùng lợi hại. Còn như có khó học hay không thì phải xem tư chân và ngộ tính của người học. Chẳng qua cho dù tư chất có kém một chút cũng không quan trọng, chỉ cần kiên trì không bỏ, khắc khổ tu luyện, cho dù có khó hơn đi nữa cũng sẽ tu thành."
A Tư Mạc nghe vậy, chỉ trầm mặc không nói gì.
Sau khi ăn xong, Thương Hùng đại sư huynh và A Tư Mạc cùng nhau đi đến một gian phòng, trong phòng trừ vài cái bồ đoàn ra, đều không có gì hết. Sau khi hai người ngồi xuống ổn định, Đại sư huynh nghiêm nghị nói:"Tiểu sư đệ, đạo pháp của phái chúng ta rất coi trọng căn cơ, đệ mới nhập môn, huynh trước tiên truyền cho đệ cơ sở đạo thuật, đệ nhớ kỹ lấy sau này tự mình tu luyện, nếu như có chỗ nào không hiểu phải lập tức hỏi huynh, có biết không?"
A Tư Mạc liên tục gật đầu, trong lòng thoáng có chút kích động. Hôm nay là ngày tu chân đầu tiên của hắn.
Thương Hùng đại sư huynh lần nữa điều chỉnh sắc mặt, nghiêm giọng nói:"Tiểu sư đệ, có một việc huynh không thể không cảnh cáo đệ. Bổn môn kỳ thuật tinh thâm thần diệu, tà ma yêu nhân rất nhiều kẻ dòm ngó rình rập. Đệ cần phải lập trọng thệ, sau khi học xong, nếu không phải đệ tử bổn môn, quyết không truyền cho người ngoài."
A Tư Mạc như bị giọng nói của sư huynh kích động, liền tay trái giơ hai ngón cái và trỏ lên, tay phải đặt lên tim, nói: "A Tư Mạc nhớ kỹ." Đây là động tác lập trọng thệ của người Cận Mạc, khi một người thề một thứ gì đó với hai dấu tay ấy, tức là đem lời hứa cho Quang Minh Thần chứng giám, rồi gửi vào tim. Người Cận Mạc tin, sau này chết đi, linh hồn người chết phải đem trái tim mình ra đong đếm trên một cái cân. Nếu thất hứa, lời hứa trong tim mất đi, trái tim nhẹ hơn so với phán xét của Quang Minh Thần, người đó sẽ bị dày vò vô cùng tận.
Thương Hùng đại sư huynh thấy hắn đột nhiên làm việc trọng đại như vậy, vừa thấy hài hước lại cũng thấy rất vừa lòng, liền mỉm cười gật đầu. Trước tiên huynh ấy nói cho hắn biết một chút về con đường tu chân cùng Tu Chân Giới, đây đại khái là kiến thức tổng quát, cũng không tính là bí mật gì, người phàm cũng không thiếu người biết:
"Thực ra mỗi một môn phái của Tu Chân Giới đều có tu luyện pháp môn của riêng mình, mà Ngọc Tiết cung chúng ta, chính là lấy luyện khí làm chủ."
Đại sư huynh phán ra một câu như vậy, rồi quay lại nhìn A Tư Mạc ngơ ngác hoàn toàn không hiểu gì hết trơn, liền cười trừ một tiếng, mới giải thích tường tận: "Thật ra mỗi một môn phái tu chân đều có phương pháp tu luyện của riêng mình, có luyện thể tu chân, có luyện đan tu chân, có luyện phù tu chân, rồi như Ngọc Tiết cung chúng ta có cả luyện khí nữa. Trong đó hiệu quả là hoàn toàn khác nhau, chủ yếu là ở căn cơ. Ví dụ như nói luyện thể tu chân giả, tu luyện cảnh giới chậm nhất, nhưng căn cơ vững chắc, con đường tu luyện về sau đỡ vất vả hơn rất nhiều. Còn luyện phù tu chân giả thì cảnh giới tu luyện so với luyện lõ tu chân giả nhanh hơn một chút, chỉ có điều căn cơ theo đó lỏng lẻo hơn cũng một chút, về sau khó tránh khỏi xảy ra một chút vấn đề, nhưng nếu như có thể luyện chế ra trận pháp tương mệnh đối với tu chân giả mà nói đó là sự trợ giúp rất lớn. Luyện đan tu chân là nói tu chân bằng cách luyện ngoại đan, luyện đan tu chân giả có thể lợi dụng đan dược khiến cho cảnh giới của mình tiến bộ thần tốc, nhưng tiến triển quá nhanh ngược lại lại có hại, tiểu sư đệ, đệ phải nhớ kỹ lấy điều này. Đương nhiên, bốn trường phái này không hề tách biệt hẳn ra, mà tương liên với nhau vô cùng vô tận, là tùy thuộc vào bản thân thiên chất của vị tu giả đó cùng chuyện ngoại cảnh mà thành. Tỷ như các vị Tu Chân tay cầm pháp bảo là kiếm cốt vậy, bản thân luyện kiếm được tính là luyện thể tu chân, song khi chế tác pháp bảo lại phải có kiến thức luyện phù tu chân. Hay như sư phó chúng ta là Dược Đường chủ, tự nhiên bên cạnh luyện khí tu chân làm chủ cũng còn luyện ra đan dược nữa, đan dược của cả Ngọc Tiết cung chúng ta một bộ phận là do sư phó cung cấp đó…”
Nói liền tù tì một thôi một hồi như vậy, đại sư huynh mới dừng lại, song thấy A Tư Mạc vẫn không hiểu rõ, Thương Hùng chỉ đành thở dài nói:"Những điều này bây giờ đối với đệ mà nói có thể còn quá sớm, đệ sau này đi ra tu chân giới lịch lãm tự nhiên sẽ hiểu rõ. Tiếp tục vậy, Ngọc Tiết cung chúng ta là luyện khí môn phái, còn gọi là luyện nội đan môn phái, là đường lối căn bản và nguyên thủy nhất, về tốc độ tu luyện thì đại khái là nằm đâu đó giữa luyện thể tu chân giả và luyện phù tu chân giả. Ừm, nhắc lại một chút, Dược Đường chúng ta còn có thể luyện đan hay cầu sư phó đan dược hỗ trợ tu luyện… chỉ là…"
Đến đây, Thương Hùng như nhớ ra cái gì, giọng nói trở nên hơi ngắc ngứ chút, sau đó liền phẩy tay nói tiếp, A Tư Mạc khi đó cũng không để ý lắm:
“Thôi, chuyện đó để sau này có cơ hội sẽ giải thích với đệ sau. Hiện tại huynh nói tiếp cho đệ về Dược Đường chúng ta nhé. Ngọc Tiết cung chúng ta tổng cộng có sáu đại môn đường, Dược Đường là một trong số đó do sư phó chủ sự, trong môn đường tính cả đệ bé nhất tổng cộng có ba đồ đệ, huynh là đại sư huynh, còn có Chu muội là cháu gái của sư phó là nhị muội thì đệ đã gặp rồi đó. À đúng rồi, nhắc lại cho đệ chút môn quy, đệ phải gọi muội ấy là “Chu tỷ” hoặc “nhị tỷ”, tránh sai sót như hôm trước vậy"
Thấy A Tư Mạc nghe đến đó chợt im lặng, sự kinh hoàng dần dần quay trở lại trong trí nhớ, Thương Hùng chỉ còn biết cười khổ, lại nói:"Tu chân giả chúng ta có thể nam nữ song tu, nhưng cũng có tu chân giả một lòng tu chân liền xin sư phụ ban cho đạo danh (danh hiệu), giống như sư phụ của chúng ta, Ngọc Yên thực chất là đạo danh của người, tên thật của người huynh cũng không biết nữa. Một khi được ban cho đạo danh điều này nói lên rằng tất cả những việc trước đó liên quan đến người này đều theo cái tên cũ của họ tan thành mây khói, từ nay về sau người đó cả đời chỉ biết đến tu chân sẽ không được cưới hỏi sinh con nữa. Còn giống như đệ và huynh đều dùng cái tên vốn có của mình, chỉ cần thích liền có thể cưới vợ song tu."
Đến đây thì Thương Hùng huynh chuyển sang nhắc lại cho hắn một loạt thời khóa biểu tu luyện các loại, cuối cùng kết một câu cảm thán: “Trước kia thời gian ngủ mỗi ngày của huynh không vượt quá một canh giờ rưỡi."
A Tư Mạc nghe đến đây liền kinh ngạc: "Đại sư huynh, tu giả đều tu luyện như vậy cả sao?"
"Đúng, chúng ta đều tu luyện như vậy, đệ đừng ngạc nhiên. Sau khi đạt đến Trúc Cơ kỳ đệ còn cần chuyên tâm tu luyện pháp quyết bổ trợ tu đạo vậy."
"Luyện đến Trúc Cơ kỳ mất bao lâu?"
"Bao lâu?" Thương Hùng ngẩng đầu suy nghĩ một lát rồi trả lời:"Đại khái huynh luyện mất ba năm rưỡi."
A Tư Mạc đột nhiên thấy chưng hửng, liền nhắc lại: “Ba năm rưỡi?”
Thương Hùng khi đó không có để ý hắn, chỉ cười nói:"Hì hì, đệ cứ quá khen, tư chất của huynh cũng không có giỏi giang gì, chỉ tính là tạm ổn thôi. Phải như tiểu sư muội mới tính là thiên tài, muội ấy chỉ mất có một năm rưỡi đã luyện đến Trúc Cơ kỳ rồi.”
A Tư Mạc bấy giờ nghe đến đoạn này, sự kỳ quái liền lộ ra trên mặt. Hắn vốn cứ nghĩ truyện tu chân phải tốn hàng trăm năm, đâu có ai ngờ chỉ tính theo vài năm, chợt thấy khó hiểu. Song đại sư huynh lúc này nhìn nét mặt hắn, liền đoán được hắn đang nghĩ gì, liền ngước mắt lên trần suy nghĩ một chút, rồi hỏi:
“Tiểu sư đệ, đệ đoán xem ta năm nay bao nhiêu tuổi?”
"Bao nhiêu tuổi?" A Tư Mạc suy nghĩ một lát, nhìn trên dưới của sư huynh, rồi đáp: “Huynh chắc cỡ khoảng hai nhăm, ba mươi tuổi gì đó."
A Tư Mạc vừa nói dứt lời, đại sư huynh liền bật cười vỗ đùi đánh đét một phát, nói:
“Đoán hay, tuổi sinh mệnh lực của ta đúng là hơn hai mươi chín một chút.”
“Tuổi sinh mệnh lực?”
“Đúng vậy, tu chân giả chúng ta tuổi thọ khác nhau rất nhiều, còn ngoại hình thì không thể dùng để đoán tuổi tác được, nhưng có sinh mệnh lực là rất khó thay đổi. Tuổi sinh mệnh lực của một tu giả là ám chỉ họ đang khoảng ở độ tuổi bao nhiêu của người phàm. Một tu chân giả có tuổi sinh mệnh lực khoảng năm mươi tuổi, so với một tu giả tuổi sinh mệnh là hai mươi, cũng giống như một người phàm năm mươi tuổi bên cạnh một tu giả hai mươi tuổi vậy. Hiện tại huynh là Kim Đan kỳ, có nghĩa là huynh đại khái còn sống được khoảng…”
Nói đến đây, Thương Hùng huynh liền đưa tay lên bấm số một chút, rồi thản nhiên trả lời: “…khoảng hai trăm bốn mươi, hai trăm bốn nhăm năm nữa. Huynh, theo cách tính của người phàm, giờ được khoảng một trăm mười tám, một trăm mươi chín tuổi”
A Tư Mạc nghe đến đây bất giác hít sâu một ngụm lãnh khí, một lúc lâu sau mới phun ra được một chữ: "Trời!"
Thương Hùng cười nói:"Tiểu sư đệ, kỳ thật thì tuy hầu hết tu chân giả chúng ta vẫn đều là người phàm trong cõi càn khôn này, song một khắc khi đệ đặt chân trên con đường tu chân, cảm nhận về thời gian của đệ so với người phàm đã thay đổi rất nhiều rồi. Tu chân giới không giống với chốn thế tục, nhưng cũng không rời được thế tục. Được rồi, chúng ta tiếp tục, tu chân tổng cộng có tám giai đoạn, là Luyện Khí, Trúc Cơ, Ngưng Mạch, Kim Đan, Nguyên Anh, Phân Thần, Độ Kiếp, Đại Thừa, trong đó chúng ta gọi Luyện Khí kỳ là Phàm Cảnh, từ Trúc Cơ đến Ngưng Mạch kỳ là Hư Cảnh, từ Kim Đan kỳ đến Nguyên Anh kỳ là Thánh Cảnh, từ Phân Thần kỳ đến Độ Kiếp kỳ là Tiên Cảnh, còn lại Đại Thừa kỳ là Thần Cảnh . Khi tu chân giả đột phá được một cảnh thì thọ mệnh của người đó sẽ tăng lên khoảng gấp đôi, đương nhiên, có những trường hợp hai người cùng tu vi song thọ mệnh khác biệt nhau chừng vài chục tuổi cũng không phải là lạ. Bởi vậy tu chân giả không phải ai cũng có cơ hội tu luyện đến khi phi thăng thành tiên, có rất nhiều người tư chất ngu dốt tu luyện cả đời cũng luyện không đến Độ Kiếp kỳ, những người này cuối cùng cũng chỉ có thể chờ đợi luân hồi mà thôi. Đương nhiên, kiếp này thành quả tu chân tuy mỏng, song qua luân hồi chuyển hóa thành tiên cốt thần mạch ẩn trong người, kiếp sau tư chất cùng ngộ tính được tích lũy. Truyền thuyết về các vị chân tiên tu hành đến hàng trăm hàng nghìn kiếp, thực chất chính là như vậy đấy"
Đặt tay lên vai A Tư Mạc, Thương Hùng mang theo nó vừa đi vừa nói:"Tiểu sư đệ, đệ phải nhớ kỹ. Người tu chân chúng ta mỗi một giai đoạn đều rất trọng yếu, bởi vậy mỗi khi đột phá, luôn cần có sư huynh sư phó có tu vi cao hơn đứng bên, vừa có nhiệm vụ hỗ trợ, vừa để hộ giới."
“Việc này rất quan trọng sao?"
"Mỗi một đoạn đó là một cái thời kỳ chuyển giao của tu chân giả, đương nhiên là quan trọng rồi. Tỉ như Trúc Cơ kỳ, chính là cấu trúc lại cơ thể đệ, máu thịt xương cốt của đệ hầu như từng cái bị đánh tan đi, rồi được linh khí bao bọc tinh luyện lại, cơ thể càng bị đánh tan thì càng hung hiểm, nhiều người đã chết ở ngay cánh cửa này chứ không ít đâu. Song đương nhiên, hung hiểm lớn thì thu hoạch càng lớn rồi. Hay như Kim Đan kỳ là khi đệ ngưng tụ nguyên khí của bản thân thành nội đan trong cơ thể, nếu đệ bị đối phương hủy đi nội đan thì toàn bộ tu vi cả đời coi như mất hết, đệ sẽ trở thành phế nhân. Song để luyện lên Nguyên Anh kỳ, đệ lại phải phóng thích nội đan ra ngoài, nếu có địch nhân hay yêu ma đến quấy nhiễu khi đó rất nguy hiểm, hơn nữa chúng có thể cướp lấy nội đan của đệ để phục dụng tăng công lực cho bản thân. Nguyên Anh kỳ là ám chỉ việc hình thành của nguyên anh. Nó thực chất là một cái tiểu nhân giống đệ như đúc được luyện thành trong nê hoàn, mà cái tiểu nhân này cũng chính là linh hồn của đệ. Phân Thần kỳ là cái Nguyên Anh trưởng thành liền phục dụng nội đan của chính đệ, liền hóa thành nguyên thần hữu hình, đại khái như là một đệ độc lập vậy. Một khi đệ đột phá Độ Kiếp kỳ, vào lúc phi thăng nguyên thần phá thể mà ra, phi thăng lên thiên giới."
"Ồ?"
Thấy A Tư Mạc chỉ hô lên một tiếng như vậy rồi không nói gì, Thương Hùng cũng chẳng quan tâm, tiếp tục nói:"Sau khi phi thăng thân thể vẫn ở nguyên chỗ cũ, chỉ có nguyên anh phá thể phi thăng, đến lúc đó người này mới chân chính cùng thiên địa đồng thọ, vĩnh viễn không có nỗi đau sinh lão bệnh tử. Nhưng phi thăng cũng có trở ngại. Đệ có biết đó là cái gì không?"
Thấy A Tư Mạc lắc đầu, Thương Hùng cười nói:"Đó là thiên kiếp. Khi đệ phi thăng thiên kiếp sẽ giáng xuống, lúc đó thiên kiếp sẽ trực tiếp công kích lên nguyên thần của đệ, lúc đó đệ/nó phải liều mạng bảo vệ bản thân. Vạn nhất nguyên thần bị thiên kiếp đánh nát vậy thì đệ chờ hồn phi phách tán đi thôi. Hơn nữa có một điểm quan trọng, đó là với nguyên anh phi thăng, không có tử, chỉ có vong thôi.”
“Tử và vong khác gì nhau?”
“Chúng sinh sinh lão bệnh tử, liền tiến nhập luôn hồi, đầu thai kiếp khác. Chúng ta người phàm tu chân cầu trường sinh bất tử, thực chất là làm chuyện nghịch thiên mệnh, thiên kiếp chính là thiên khiển, nếu nguyên thần bị thiên kiếp đánh nát, linh hồn tiêu tán, sau này không thể luôn hồi được nữa, chính là hình phạt cho kẻ đi ngược lại thiên mệnh vậy.”
A Tư Mạc hôm đó nghe đến đây, liền kinh hãi, lần nữa gương mặt trắng toát. Thương Hùng lúc trước cao hứng nói vanh vách, song đến đây thấy vậy lại lúng túng dừng một lát, rồi chỉ biết vò vò đầu nói: “Trước hết không nói đến những chuyện này nữa, tiểu sư đệ, huynh trước tiên truyền cho đệ công phu nhập môn, cùng cách hấp khí thổ nạp.”
Nói xong chuyện dài dòng, Thương Hùng liền chỉ cho A Tư Mạc đả tọa, minh tưởng là như thế nào, lại nói sơ qua một lượt về kinh mạch và vận hành của linh khí trong cơ thể, sau đó mới truyền cho nó tầng thứ nhất của pháp môn tu hành chân truyền của Ngọc Tiết cung, gọi là “Châu Nhật Thượng Thanh Đạo”.
“Châu Nhật Thượng Thanh Đạo” là tâm pháp tu luyện chánh tông của Ngọc Tiết cung. Tương truyền rằng thủy tổ của tất cả tu chân giả hiện nay có mạch truyền thừa theo Đạo gia là Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn Thái Thượng Lão Quân, mà hóa thân giáng trần của người chính là Lão Tử. Lão Tử chỉ dạy cho các học trò vô vàn tri thức, được tổng kết thành Đạo Đức Kinh, trong đó hàm chứa đạo pháp do Thái Thượng lão quân tự mình ngộ ra.
Song Ngọc Tiết cung, tuy vẫn cũng một gốc là Đạo gia, lại đi theo một hướng khác, bái Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn làm lão tổ, mà Phục Hy là hóa thân giáng trần của người.
Đến đây cần phải nói lại đến sự hình thành của xã hội loài người sau khi Bàn Cổ khai thiên lập địa vậy. Thái Cực Tam Thể (Xem lại chương 0) tồn tại đến bao giờ, không ai biết. Chỉ biết sau này, Thái Cực Tam Thể hầu như không bao giờ xuất hiện trở lại nữa. Bản thân Thái Cực cũng trở thành Âm Dương Lưỡng Nghi, giúp thế giới tiếp tục tiến lên. Trong đó Dương Nghi, như Thái Cực, cũng phân thành 3 thể: Sinh thể là Phục Hy và các tinh linh tinh thần, các vị thần của nguyên lý; khí thể là Dương Khí; còn nguyên thể là bản thân Dương.
Phục Hy luôn cảm thấy thế giới này, tuy có biết bao sinh vật, vẫn rất trật tự, nhưng không hiểu các quy luật là gì. Trong khi Phục Hy suy niệm, nhìn xuống dưới nước sông Lạc Hà, lúc đó, nước chuyển động liên tục, từ trong nước một con rùa bò lên, mai rùa in vân bóng hỗn độn. Khi đó, Phục Hy đã phát hiện giữa những mai vân rùa hỗn độn nhỏ nhoi ấy vẫn ẩn chứa quy luật của cả đất trời. Thế là Phục Hy mới ngộ ra, hợp lại, tinh chỉnh các quy luật thành hệ thống, đề ra chữ viết, ngũ hành, pháp luật, bát quái,… Tất cả mọi nguyên lý, khái niệm không có thể cầm nắm được, nhưng thiếu đi thì vũ trụ vạn vật không thể nào mà vận hành được đều được Phục Hy ghi lại. Rồi ông liền truyền cho con người tri thức của mình, sắp xếp phong tục, thứ bậc, nhiệm vụ để con người noi theo mà thực hiện. Thế là xã hội con người dần dần hoàn thành.
Phục Hy là sinh thể của Dương Nghi, sau này trở thành Linh Bảo Thiên Tôn, chỉ dưới Nguyên Thủy thiên tôn, trên cả Thái Thượng Lão Quân, đứng vị trí số hai trong Tam Thanh. Song thiên địa pháp tắc do người ngộ ra vẫn được lưu lại dưới trần gian.
Sư tổ của Ngọc Tiết cung năm đó vô ý có được chính là những gì Phục Hy ngộ được trong mai rùa đó. Đương nhiên, thứ người có được không đơn giản là những trang giấy, song chính xác năm đó sư tổ tao ngộ là gì, sau này trừ vị trí chưởng môn, không ai biết được, chỉ biết nó được gọi là “Quy Giáp Bản Thảo”, ám chỉ năm xưa Phục Hy từ trong mai rùa mà ngộ ra được. Còn thứ được ghi lại bằng chữ viết, các đệ tử đời sau của Ngọc Tiết sư tổ gọi là “Châu Nhật Thượng Thanh Đạo”, Châu Nhật ám chỉ cung Châu Nhật ở tầng trời thứ ba mươi tư, nơi Linh Bảo Thiên Tôn ngự ở, tương truyền có hàng vạn kim đồng ngọc nữ chầu ở đó, bản thân Linh Bảo Thiên Tôn có nhiệm vụ giữ gìn thiên địa pháp tắc, bảo hộ sinh linh trong càn khôn này. Còn Thượng Thanh là ám chỉ tôn hiệu của Linh Bảo Thiên Tôn trong Tam Thanh.
Ngọc Tiết cung cũng bằng vào “Châu Nhật Thượng Thanh Đạo” mà có được địa vị của một đại môn phái trong tu chân giới. Trải qua vô số đời Ngọc Tiết cung các đại tông sư hoàn thiện, cho đến hôm nay, “Châu Nhật Thượng Thanh Đạo” đã trở thành tâm pháp tu luyện trấn phái huyền diệu vô cùng. Ngọc Tiết cung trong Tu Chân giới xếp vào vị trí áp chót trong thập bát danh môn Tu Chân giới, trên thực tế là do kẻ ngoài dùng số lượng môn đồ để xếp hạng, bằng không Châu Nhật Thượng Thanh Đạo, nếu xếp bên cạnh tâm pháp tu luyện các nhà khác, xếp hạng không thể nghĩ bàn.
“Châu Nhật Thượng Thanh Đạo” tổng cộng có bốn trọng mục, mỗi trọng mục lại có mười sáu tầng, tổng cộng là bốn mục sáu mươi tư tầng. Bốn mục gồm: Thánh Nhân mục, Tường Địa mục, Thông Thiên mục, Vũ Ngoại mục. Các đời đệ tử của Ngọc Tiết cung bao gồm rất nhiều kẻ thông minh tài sĩ, song suốt chiều dài lịch sử đã hơn vạn năm, cũng không ai có thể đột phá đến đệ tứ trọng mục đỉnh tầng, chỉ cần có người luyện đến cảnh giới đệ tứ mục tầng thứ mười cũng đã là thế gian hiếm có.
Trong Ngọc Tiết Cung nhân số khoảng sáu trăm người, nhưng cho đến hôm nay có thể tu luyện đến đệ tam mục cảnh giới đỉnh tầng trở lên cũng không vượt quá ba vị trưởng lão lớn tuổi nhất, gọi là Tam Tài trưởng lão. Đến sáu vị đường chủ hiện tại cùng hơn hai chục vị trưởng lão khác cũng chỉ vẫn đang tu luyện đệ tam trọng mục Thông Thiên Mục, ứng với Phần Thần kỳ cảnh giới. Nhưng bằng vào chục mấy người này, Ngọc Hư cung trở thành một trong nhưng môn phái có thực lực mạnh nhất, thâm sâu nhất trong tu chân giới hiện nay. Đạt tới đệ tứ mục đỉnh tầng cảnh giới trong truyền thuyết, tương truyền chỉ có kỳ tài xuất thế tổ sư khai sáng ra Ngọc Tiết cung năm đó mới luyện tới.
Thương Hùng đại sư huynh lần đầu tiên làm sư phụ, thấy A Tư Mạc tay chống cằm nghe đến mê mẩn, bất giác nổi hứng nói chuyện, chậm rãi giảng giải.
“Châu Nhật Thượng Thanh Đạo” quá trình tu luyện từ dễ đến khó, song cũng phụ thuộc vào từng người, đệ nhất mục tầng thứ nhất ứng với Luyện Khí kỳ sơ tầng, đại đa số mọi người đều trong từ một đến hai năm thì có thể tu thành, nhưng từ đó về sau, những điểm khó khăn trắc trở liền từ từ lộ ra. Thánh Nhân mục tầng thứ hai người bình thường phải tu luyện ba bốn năm, cứ thế càng ngày càng dài, càng lên cao lại càng là một cái bước ngoặt, tư chất kém một chút, cho dù tu luyện năm sáu mươi năm không qua được đệ nhất mục đỉnh tầng cảnh giới, ngừng lại ở đó suốt đời cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
A Tư Mạc miệng khô khốc, Thương Hùng đại sư huynh khẽ cười nói tiếp.
Tu hành pháp môn chủ yếu của “Châu Nhật Thượng Thanh Đạo” đến hết đệ nhất mục cảnh giới đỉnh tầng cơ bản là truyền xong, càng về sau càng nhìn vào tư chất cao thấp và dựa vào tu hành của bản thân. Sư trưởng cùng sư phó, sư phụ tu hành cao thâm có lẽ có thể chỉ điểm được một hai chỗ, đó cũng là kinh nghiệm cá nhân của họ, để cho đệ tử bớt đi một đoạn đường vòng mà thôi. Đương nhiên, cái gọi là'đường vòng' ở đây được tính theo đơn vị chục năm.
Nếu đem “Châu Nhật Thượng Thanh Đạo” tu luyện đến Thánh Nhân mục đệ tứ tầng cảnh giới, đột phá lên Trúc Cơ kỳ, như vậy là đã có vạn pháp căn bản, có thể bắt đầu đồng thời tu tập pháp quyết, chính là cách vận dụng linh khí trong cơ thể, người phàm gọi đơn giản là “làm phép” vậy. Luyện đến Thánh Nhân mục đệ bát tầng cảnh giới, đột phá lên Ngưng Mạch kỳ thì có thể tu luyện pháp bảo của riêng mình.
Nói đến bí mật của pháp bảo, lưu truyền từ rất xa xưa, trong thần thoại truyền thuyết chư thiên thần linh mỗi vị đều có thần khí riêng, uy lực tuyệt luân. Mà ở nhân thế, những người tu chân luyện đạo mặc dù chỉ nắm được bề ngoài thiên địa tạo hóa nhưng cũng có uy lực rất lớn. Nhỏ thì có thể ngự không phi hành, nhanh như chớp điện, lớn thì càng có thể rung trời chuyển đất, san núi lấp biển. Mà tài liệu của pháp bảo thì cũng đủ loại, thiên kỳ bách quái, nhưng có một điểm, pháp bảo tài liệu như thế nào thì quyết định uy lực lớn nhỏ của pháp bảo sau này.
Tiếp đó, Thương Hùng đại sư huynh lại nói tiếp cho A Tư Mạc những điểm cần phải chú ý trong quá trình tu hành, cuối cùng nghiêm mặt nói:"Tiểu sư đệ, còn một chuyện cuối cùng huynh nhất định phải nói với đệ: bổn môn tu hành quý trọng ở tuần tự mà tiến, từng bước vững chắc. Nếu tham công liều lĩnh, chỉ sợ dục tốc bất đạt, ngược lại có đại họa. Thành hay bại là do mệnh số định sẵn, không cần cưỡng cầu. Ví dụ như đám yêu ma ngoại đạo, dị đoan tà thuật, ham muốn đốt cháy giai đoạn nhanh chóng thành công, đến cuối cùng hơn nửa bị trời trách phạt, đệ phải cẩn thận."
A Tư Mạc cũng tương tự nghiêm trang gật đầu nói: "Dạ, thưa đại sư huynh."
Đến đây đại sư huynh gật đầu đứng dậy, nói:"Trước tiên cứ như vậy đã, bắt đầu từ chiều nay đệ mỗi ngày đều phải đến Tĩnh Linh đường này, chọn một phòng đả toạn luyện công ba giờ. Nơi này rất rộng, mà Dược Đường ta chỉ có ba người, rất thanh tĩnh, bình thường sư phó, ta cùng nhị muội cũng không có đến đó, đệ cứ tự mình cố gắng thôi. Đệ đã nắm được những điều ta nói chưa?"
A Tư Mạc đứng dậy vái người trước đại sư huynh một vái, nói:"Đa tạ đại sư huynh."
Thương Hùng đại sư huynh đến đây liền cười sảng khoái một tiếng, xoa đầu hắn rồi xoay người rời đi.
A Tư Mạc tiễn Thương Hùng đại sư huynh rời đi rồi mới xoay người trở lại gian phòng, đóng lại cửa phòng hít sâu một hơi lấy lại bình tĩnh, chẩm rãi ngồi xuống bồ đoàn, rồi án chiếu theo tư thế đả tọa mà Thương Hùng đại sư huynh truyền thụ, nhắm mắt, ở trong lòng đem pháp môn Thánh Nhân mục sơ tầng vừa được Thương Hùng đại sư huynh truyền thụ từ đầu đến cuối nhớ lại một lần, chiếu theo đó bắt đầu tu luyện. Thời gian thấm thoát thoi đưa, mới như vậy đã bảy tháng, hôm nay hắn lại ngồi trong căn phòng này, như mọi ngày chăm chỉ cố gắng tu luyện.