Phong Vân

Tương truyền lúc sơ khởi thế gian này vốn là một vùng hỗn độn không biết cao thấp trên dưới trái phải.
Sau đó Bàn Cổ khai sinh ra trời đất, lúc đó vùng không gian hỗn độn ấy mới được chia thành trời và đất.
Trời ở trên, đất ở dưới.
Chỉ tiếc không lâu sau đó, bầu trời xuất hiện rất nhiều lỗ thủng, khiến cho sinh linh đồ thán.
Em gái Bàn Cổ là Nữ Oa vốn mang lòng từ bi, mắt thấy muôn dân chịu tai kiếp thì không đành lòng, vì thế bà không tiếc tổn hao tâm sức nghĩ ra một cách để cứu chúng sinh.
Bà quyết định luyện đá vá trời.
Nữ Oa bèn dùng tinh lực cả đời luyện thành ba vạn sáu ngàn năm trăm lẻ bốn viên thần thạch, mỗi viên khảm lên một lỗ thủng trên trời, cuối cùng nỗ lực đã được đền đáp, bầu trời được vá không còn một kẽ hở.
Nhưng lại xuất hiện một vấn đề khác…
Một vấn đề không phải quá nghiêm trọng nhưng nhất định phải giải quyết.
Hóa ra Nữ Oa ước tính có hơi lệch một chút, bà vá trời xong lại phát hiện ra còn dư bốn viên đá không giống nhau.
Bốn viên thần thạch!
Bốn viên thần thạch này đều là những viên đá thần kỳ mang trong mình phẩm chất xuất chúng, mang lực lượng thần kỳ nhưng đáng tiếc là không có duyên dùng phẩm chất bất phàm ấy để vá trời.
Nữ Oa cảm thấy vô cùng tiếc nuối, bốn viên thần thạch này do một tay bà khổ công luyện thành, bây giờ lại không biết dùng cách nào để tận dụng cho hết những tố chất của bốn viên thần thạch này, bỗng nhiên lại nghĩ đến câu nói “Có tài mà chẳng gặp thời”!
Để tránh phụ lòng bốn viên thần thạch hiếm có này, Nữ Oa lại phải suy nghĩ rất lâu, bà muốn tìm ra cách xử lý với bốn viên thần thạch này.
Bà nghĩ rất lâu, nghĩ rất rất lâu, sau cùng mới nghĩ ra được một biện pháp.
Bốn viên thần thạch này mỗi viên đều mang trong mình sức mạnh thần kỳ, sao không ném chúng xuống những nơi khác nhau dưới hạ giới, để tùy nhân duyên của từng viên mà tạo phúc cùng người có duyên với chúng?
Tâm ý đã quyết, Nữ Oa không do dự mà trịnh trọng đưa bốn viên thần thạch đến với nhân gian để tìm nhân duyên.
Viên thần thạch đầu tiên được ném xuống thế gian được gọi là…
“Băng Phách.”
“Băng Phách” là một viên thủy tinh trong suốt đẹp đẽ, long lanh như giọt lệ, sáng chói rực rỡ, Nữ Oa cầm Băng Phách lưu luyến không nỡ rời, dịu dàng cầu nguyện cho tương lai của nó:
“Băng Phách, mi là viên đá đẹp đẽ lộng lẫy nhất trong số bốn viên thần thạch, hơn nữa thạch tính mát mẻ, nếu như đặt mi ở trong miệng người chết thì có thể bảo vệ thi thể không bị mục rữa, vĩnh viễn không thay đổi…”
“Băng Phách à, hãy để ta chúc phúc cho nhân duyên của mi, chỉ mong sau này mi có thể gặp hai người thực lòng yêu thương nhau, nếu chẳng may một trong hai người chết trước, mi hãy bảo tồn vĩnh viễn di thể của người đó để cho kẻ cô độc đáng thương còn lại trên đời kia vẫn còn một chút an ủi lẫn kỷ niệm về người mà mình yêu thương.”
Nói tới đây, Nữ Oa cho dù ngàn vạn lần không muốn nhưng vẫn phải ném Băng Phách xuống nhân gian, đồng thời lúc này bà cũng không kìm lòng được mà nhỏ xuống một giọt lệ, không biết có phải vì không muốn để Băng Phách xuống nhân gian chăng?
Hay vì câu chuyện tình yêu đầy đau khổ mà cảm động lòng người sẽ đến với số phận của Băng Phách?
Viên thần thạch thứ hai được Nữ Oa ném xuống thế gian tên là…
“Bạch Lộ.”
Thực ra mà nói thì “Bạch Lộ” cũng không hẳn là một viên đá, bởi vì ở giữa chất liệu màu trắng của đá thì bên trong Bạch Lộ còn lẫn cả hàn thiết màu trắng phát sáng lấp lóa.
Nữ Oa nhẹ nhàng nâng Bạch Lộ lên, lại cầu nguyện:
“Thép ẩn trong đá, đá nằm trong thép, Bạch Lộ à! Mi là vật chí hàn trong trời đất, hàn khí của mi có thể hóa khí thành băng, đóng băng ba thước, hơn nữa mi còn là thứ hàn thiết có thể tạo thành tuyệt thế thần binh, cho dù mi không có duyên vá trời thì ta cũng hy vọng mi xuống thế gian rồi, có thể phát huy sở trường của mình…”
Nữ Oa nói xong liền vung tay lên, ném Bạch Lộ xuống hạ giới, miệng vẫn còn nói với theo:
“Đi đi! Hãy xuống nhân gian mà tìm kiếm nhân duyên đi! Chỉ mong rằng mi có thể được đúc thành một thanh tuyệt thế thần binh, chỉ mong mi có thể rơi vào tay một vị chủ nhân tâm địa thiện lương, nguyện vì hạnh phúc chúng sinh mà hy sinh bản thân, để cứu độ cho vạn vạn sinh linh ra khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng…”
Nói đến đây, Nữ Oa đã nghẹn ngào không biết nói gì nữa, chỉ yên lặng nhìn theo Bạch Lộ đang rơi xuống, thật lòng hy vọng nó có thể tìm thấy một chủ nhân xứng đáng…
Viên thần thạch thứ ba được đưa xuống thế gian chính là…
“Hắc Hàn.”
Nếu như nói Bạch Lộ là vật chí hàn bậc nhất ở trong trời đất thì viên Hắc Hàn này nói không ngoa chính là vật chí hàn thứ hai vậy! Bởi vì khi Nữ Oa ủ nó ở trong lòng bàn tay, khối đá màu đen này liền toản ra ánh sáng đen lập lòe, trong đá dường như có một luồng hàn khí sâu không dò được đang cuồn cuộn hút đi sức mạnh trong cơ thể Nữ Oa, khiến bà bất giác phải rùng mình một cái, nhưng Nữ Oa không buông tay mà chỉ sâu kín nhìn Hắc Hàn, nói:
“Hắc Hàn à! Mặc dù mi cũng là vật chí hàn, cũng là thứ thép ẩn trong đá như Bạch Lộ, nhưng giữa hơi lạnh đến buốt giá của mi chừng như còn thấp thoáng một trái tim đen, hàn khí tỏa ra của mi và Bạch Lộ lại hoàn toàn khác nhau, màu đen của mi, hơi lạnh của mi có thể hấp thụ hết thảy sức mạnh của nhân gian để biến thành sức mạnh của bản thân, hơn nữa lúc này ta lại có dự cảm, tương lai mi nhất định sẽ được đúc thành một thanh tuyệt thế hảo kiếm, cùng với Bạch Lộ tạo thành những thanh thần binh tuyệt thế trong thiên hạ…”
“Chỉ tiếc, mi lại là một thanh kiếm báu mang sát nghiệt quá nặng, mi có thể mang đến vô số cái chết cho nhân gian…”
“Ta vốn không muốn thứ hung vật như mi rơi xuống nhân gian, nhưng mi và Bạch Lộ đều là những viên thần thạch có đủ thực lực để cứu vớt nhân gian, bởi thế ta mới cho mi đi xuống nhân gian tìm vận may, cho nên mi nhất định phải chờ đợi, dù phải chờ đến thiên thu vạn kiếp…”
“Mi cũng phải đợi một kiếm thủ chân chính cũng lạnh lẽo và tăm tối giống như mi, chỉ có hắn mới xứng đáng làm chủ nhân của mi mà thôi…”
Nữ Oa nói tới đây, không khỏi thổn thức một tiếng:
“Chỉ có một người từng sống trong bóng tối và lạnh lẽo thật lâu mới biết tối tăm và lạnh lẽo đáng sợ ra sao, sau khi có được tuyệt thế hảo kiếm mới có thể hiểu được cách dùng kiếm này để cứu chúng sinh khỏi tối tăm, cuối cùng mới có thể đảo ngược vận mệnh bi ai trời sinh của hắn lẫn Hắc Hàn được…”
Không sai! Người có vận mệnh của người, đá cũng có vận mệnh của đá, chỉ không biết vận mệnh của Hắc Hàn lần này đi xuống nhân gian có thể đợi được một người thuộc về bóng tối giống như nó hay không?
“Bởi vậy, nếu cuối cùng mi không chờ được hắn đến thì cứ trở thành thép gỉ ở trong bóng tối, chớ bước vào nhân gian hỗn trọc!”
Thà làm ngọc vỡ hơn làm ngói lành, đây chính là mong đợi duy nhất của Nữ Oa dành cho Hắc Hàn, dù bà có bao lo lắng nhưng cuối cùng vẫn vung tay ném Hắc Hàn xuống nhân gian, sau đó bà lại nâng một viên thần thạch khác lên.
Đây cũng là viên thần thạch cuối cùng, tên là…”
“Thần Thạch.”
“Thần Thạch”, quả là một cái tên thực chí cao vô thượng! Thần Thạch cũng là viên đá thần kỳ nhất, uy lực lớn nhất trong số bốn viên .
Nữ Oa nhìn kỹ viên thần thạch này, chậm rãi nói:
“Đá của thần, thần ở trong đá, vận mệnh của mi cũng không khá hơn Hắc Hàn bao nhiêu, bởi vì với uy lực từ chất liệu của mi thì có thể trở thành một siêu cấp vũ khí lợi hại nhất trong trời đất!”
“May mà mi có một chỗ hơn Hắc Hàn đó là mi đồng thời có thể lập tức biến thành một thánh vật cứu người thoát chết…”
“Giết và cứu, lợi và hại, chính tà thiện ác ra sao còn phải xem tạo hóa của mi. Thần Thạch à, hãy tự lo liệu cho mình đi nhé.”
Nữ Oa thở dài một tiếng, cuối cùng cũng ném Thần Thạch đi, cuối cùng bà cũng bù đắp được sơ suất của mình, không phụ sự tiếc nuối của bốn viên kỳ thạch sức mạnh phi phàm ấy.
Bốn viên kỳ thạch sức mạnh khác nhau, cơ duyên vận mệnh cũng khác nhau rơi xuống bốn nơi khác nhau dưới hạ giới.
Tạm thời khoan bàn tới việc chuyện này thật giả ra sao, người ta thường thích dùng những truyền thuyết thần thoại lâm li ra để tự giải thích cho những chuyện không thể nào lý giải được.
Nhưng đúng là trên đời thực sự có rất nhiều thứ đá kỳ lạ vô cùng, cho nên chuyện viên kỳ thạch này cũng không phải quá quái lạ.
Hơn nữa có người nói trên đời này quả thực có bốn viên kỳ thạch khó có thể hình dung này.
Vận mệnh của đá xem ra cũng có đôi chút giống với lời cầu nguyện của Nữ Oa.
Chẳng hạn như Băng Phách…
Nghe nói Băng Phách đã rơi vào tay một thế gia trong võ lâm, hơn nữa còn dùng để bảo quản di hài tổ tiên để cho con cháu đời sau đến cúng bái. Có thể, đây chỉ là số mệnh tạm thời của Băng Phách mà thôi. Một ngày nào đó sẽ có một kẻ si tình đến lấy đi Băng Phách từ trong thi thể này để đặt vào trong miệng người yêu đã chết của mình, cho dù phải dùng bất cứ thủ đoạn nào…
Chỉ trách vì ái tình mà giết lầm bao nhiêu người vô tội.
Về phần viên kỳ thạch thứ hai là Bạch Lộ, đây có thể coi là viên đá may mắn nhất trong bốn viên. Nghe nói từ lâu lắm rồi, nó đã rơi vào tay một thế gia dùng đao, trải qua trăm rèn ngàn luyện cuối cùng đã được đúc thành một thanh bảo đao thiên hạ đệ nhất…
“Tuyết Ẩm!”
Thanh Tuyết Ẩm đao này có thể hóa nội lực người sử dụng thành băng, hàn khí kinh người, chừng như rất đúng với lời của Nữ Oa!
Còn một viên hàn thạch khác là Hắc Hàn dường như số mệnh kém hơn Bạch Lộ rất nhiều, đến nay vẫn không rõ tung tích, có lẽ nó vẫn đang nằm ở một góc tăm tối nào đó, lặng lẽ chờ đời chủ nhân chung vận mệnh với mình xuất hiện, mang nó rời khỏi bóng tối mãi mãi, thà làm ngọc nát cũng không thèm làm ngói lành…
Viên kỳ thạch cuối cùng là Thần Thạch, có người nói rằng hơn trăm năm trước từng bị một môn phái thần bí đoạt được, dùng nó luyện thành một thứ siêu cấp vũ khí lợi hại nhất trong thiên hạ, thứ siêu cấp vũ khí đó chính là…
“Vu Bát!"
Cuối cùng gã cũng đọc hết cuốn sự tích Nữ Oa mà thám tử viết lại, sau đó nhắm chặt hai mắt lại trầm tư.
Đây là một gian phòng trong khách điếm nhỏ trong Tây Hồ thị tập, chưa nói có đẹp hay không, đối với thân phận tôn quý của gã mà phải ở đây thì quả thực không hợp lý chút nào.
Chỉ có điều địa vị của gã tuy tôn quý nhưng gã lại là kẻ chẳng tham danh lợi, sinh hoạt bình thường chỉ cần đơn giản sạch sẽ là đã hài lòng lắm rồi, gã cũng chẳng phải thứ người xa xỉ, cho dù đích thực là gã có thừa tư cách để xa xỉ.
Chỉ có điều số mệnh đáng thương vẫn kéo gã vào trong những cuộc minh tranh ám đấu đầy thị phi của giang hồ. Năm năm, năm năm qua không lúc nào gã thôi mong ước có thể dừng lại nghỉ một chút, nhưng vì giao kèo với sư phụ năm năm trước, gã không thể không tiếp tục bôn ba cống hiến cho người sư phụ đó.
Mà giao kèo với sư phụ gã cũng chính là vì đám trẻ con mà “hắn” đã cứu năm năm trước, vì vô số nạn dân Nhạc Sơn năm đó…
Nói là làm, bao nhiêu nhiệm vụ chừng ấy năm gã đều dốc hết sức thực hiện, chưa bao giờ thất bại, bây giờ gã lại chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ mới…
Đi tìm Vu Bát!
Gã chính là người mà giang hồ vẫn coi trọng hơn hẳn đại sư huynh Tần Sương của gã…
“Nhiếp Phong!”
Nhiếp Phong đã mười sáu tuổi, vóc dáng cao lớn hơn rất nhiều so với năm năm trước, có thể gọi là một thanh niên bảy thước ngang tàng rồi, hơn nữa vẻ ngây thơ non nớt năm xưa cũng không còn nữa, thay vào đó là gương mặt anh tuấn cùng vẻ lãnh tĩnh không bao giờ thay đổi.
Chỉ có một thứ không thay đổi chính là mái tóc dài đen nhánh giống như lúc còn bé, không chịu bất kỳ ràng buộc nào của thế gian, tự do tung bay giữa sóng gió giang hồ, tự do tung bay trong mắt trong tâm người giang hồ…
Gã hào hiệp, trước sau gã vẫn hào hiệp.
Trái tim ấm áp, trước sau vẫn cứ ấm áp, có lẽ cả đời cũng không thay đổi.
Nhiếp Phong trầm tư rất lâu, sau đó chậm rãi mở mắt ra, gã lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ, thấp thoáng bóng dáng ngạo nghễ của Lôi Phong tháp ngoài nửa dặm, đứng hiên ngang dưới ánh mặt trời chói chang.
Đây là một trong những nguyên nhân gã chọn khách điếm này, ngoài việc gã thích sự giản dị tự nhiên của nó thì còn bởi vì gã thích cái cửa sổ này, từ đây gã có thể nhìn thấy tình hình xung quanh Lôi Phong tháp.
Dựa vào tư liệu do thám tử Thiên Hạ hội cung cấp, Lôi Phong tháp chính là nơi mà Bạch Tố Trinh vùi thân năm đó, mà Vu Bát rất có thể sẽ bị chôn dưới Lôi Phong tháp cùng nàng, còn Nhiếp Phong dù đã đến Tây Hồ ba ngày nhưng vẫn còn đang ở bên ngoài quan sát.
Thực ra Nhiếp Phong đã đọc đi đọc lại cuốn sự tích Nữ Oa của thám tử viết kia không biết bao nhiêu lần, nhưng vừa nãy gã vẫn đọc lại rất cẩn thận, trước hết là để hiểu rõ sự việc hòng đề phòng mọi tình huống bất trắc xảy ra, thứ hai là vì trong số bốn viên kỳ thạch được đề cập thì có một viên mà gã rất quen thuộc…
“Bạch Lộ!”
Đơn giản là vì hàn thiết trong đá Bạch Lộ cuối cùng đã được đúc thành thanh thần bình gia truyền của Nhiếp gia gã…
“Tuyết Ẩm đao!”
Bởi vì năm đó Nhiếp Phong thất lạc Nhiếp Nhân Vương lúc còn quá nhỏ tuổi nên Nhiếp Nhân Vương chưa có cơ hội nói cho Nhiếp Phong biết rốt cuộc Tuyết Ẩm là do loại kỳ thiết nào tạo nên, bởi vậy Nhiếp Phong cảm thấy rất băn khoăn. Cho đến khi đọc hết sự tích Nữ Oa này gã mới biết được đăng sau Tuyết Ẩm hàn khí lạnh lẽo kinh người ấy, sau sống đao lạnh lẽo âm trầm ấy cũng có một câu chuyện lâm li đến vậy…
Dù câu chuyện này chỉ là sự hư cấu của người đời sau nhưng Nhiếp Phong vẫn rất muốn tin vào câu chuyện ấy. Gã thật lòng rất hy vọng số mệnh thần thánh của Tuyết Ẩm là được gánh trách nhiệm cứu chúng sinh thoát khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng…
Đó chính là mong đợi của Nữ Oa từ vạn vạn năm trước dành cho Tuyết Ẩm…
Còn như Vu Bát, nếu như nó đúng là do Thần Thạch tạo thành thì nó không chỉ là một thứ siêu cấp vũ khí lợi hại nhất trong thiên hạ mà rất có thể nó sẽ trở thành một thánh vật cứu người nữa.
Cho nên chuyến đi này tuy nói là Nhiếp Phong vì lời hứa với Hùng Bá mà đi tìm Vu Bát nhưng kỳ tuhwjc trong lòng gã cũng thầm hy vọng rằng Vu Bát mà mình tìm thấy không phải là một thứ siêu cấp vũ khí, chỉ mong nó là một thánh vật cứu người.
Nhiếp Phong vừa nghĩ vừa nhìn ra cửa sổ, phút chốc trên gương mặt xưa nay trầm tĩnh bỗng thoáng hiện lên một tia nghi hoặc.
Gã bỗng nhiên phát hiện trên đường cái có hai người.
Trước giờ thị tập vốn là nơi náo nhiệt nhất trong trấn, hiện giờ trời đang v ề chiều nên người người chen chúc, làm sao lại nhận ra hai người?
Đơn giản là bởi vì trong khi Nhiếp Phong dời ánh mắt từ Lôi Phong tháp về thị tập ngoài khách điếm, giữa những khuôn mặt mơ hồ của người qua đường, gã nhìn thấy hai người áo tím kia!
Bởi vì trên người bọn họ có…
Sát khí cao thủ không tầm thường!
Hai người này đều đội nón cỏ, đầu cúi rất thấp, hơn nửa khuôn mặt đã bị che khuất dưới vành nón nên không ai nhìn thấy gõ gương mặt họ ra sao cả. Nhiếp Phong miễn cưỡng chỉ có thể thấy miệng của họ, mà hai người này khoác áo bào tay lớn nên nhất thời gã cũng khó phân biệt là nam hay nữ.
Hai người mang theo một bọc hành lý nhỏ, xem ra cũng mới đến Tây Hồ, chừng như rất vội, có vẻ thần bí nữa. Nhiếp Phong thấy hai người vừa đi vừa nói chuyện lập tức ngưng thần, dùng Băng Tâm quyết gia truyền để lắng nghe giữa những tiếng ồn ào của chợ xem hai người đang nói chuyện gì.
Nhưng không ngờ vừa cố lắng nghe đã phát hiện ra…
Hai người kia mấp máy môi mà lại không phát ra âm thanh gì cả!
Hóa ra bọn họ không phải đang nói chuyện!
Bọn họ chỉ đang mấp máy môi mà thôi.
Nếu chỉ là hai người qua đường bình thường thì hà cớ gì họ lại không ngừng mấp máy môi mà lại không nói gì cả?
Hai người này rõ ràng là mang theo mục đích không thể cho ai biết, cho nên không thể tỏ ra quá lộ liễu. Nhiếp Phong bỗng nhiên hiểu ra, hai người bọn họ chỉ mấp máy môi mà không phát ra âm thanh gì, nhưng thật ra là đang sợ nhỡ đâu có cao thủ nhất lưu ẩn nấp ở đâu đó đang nhòm ngó bí mật của mình, còn có một điểm nữa, cử động miệng của hai người này cũng không giống khẩu hình nói chuyện xưa nay, chứng tỏ hai người sớm đã có thỏa thuận, hai bên dùng một phương pháo giao tiếp khác với người thường để trao đổi với nhau.
Hai người vẫn tiến về phía trước, cuối cùng tiền vào một gian khách điếm.
Nhiếp Phong thầm cảm thấy lo âu trong dạ, Trung Nguyên vốn đầy rẫy cao thủ, có hai người xuất hiện ở Tây Hồ cũng chẳng có gì lạ. Chỉ có điều ngay lúc gã đến Tây Hồ để tìm Vu Bát thì lại đồng thời xuất hiện hai cao thủ thần bí khó lường không rõ diện mạo, không khỏi khiến sự cảnh giác của gã tăng lên.
Nhiếp Phong thầm nghĩ, để tránh đêm dài lắm mộng thì việc này xem chừng không thể để lâu.
Nếu đã như thế thì không bằng tiến hành nhiệm vụ thâm nhập Lôi Phong tháp tìm Vu Bát…
Ngay đêm nay!
Tây Hồ rất âm trầm.
Hình dung Tây Hồ như vậy bởi vì nó không chỉ trời nước một màu mà cĩnh viễn đều mang một sắc thái thần thoại bao phủ.
Tây Hồ càng không giống Hoàng Hà.
Hoàn Hà tuy là đất tổ của văn hóa ngàn đời Thần Châu nhưng nó lại mạnh quá! Hung hãn quá! Hoàng Hà sóng lớn cuộn trào, sóng dâng tận mây, lớn quá thành họa, khiến cho người ta vừa thích vừa ghét, ghét lại thương, thương thương ghét ghét, không biết làm sao.
Vì vậy so với Hoàng Hà lúc lạnh lúc nóng, Tây Hồ quả thực yên tĩnh như một cô gái mới lớn âm trầm.
Nhưng mà quân tử quá âm trầm, một khi bị vạch trần có khi chẳng qua chỉ là một tên ngụy quân tử.
Một nơi quá yên tĩnh quá đẹp đẽ có thể cũng là nơi nguy hiểm nhất.
Giống như Tây Hồ.
Tựa như Lôi Phong tháp của Tây Hồ…
Nghe kể rằng Lôi Phong tháo được bắt đầu xây dựng từ thời Ngô Việt.
Sách chép rằng năm đó Ngô Việt vương là Tiền Thục (Tiền Hoằng Thúc) nhân dịp sủng phi của mình là Hoàng thị sinh con trai bèn lên kế hoạch dựng lên một tòa tháp cao mười ba tầng bằng gạch, lấy tám vạn bốn ngàn quyển kinh Phật để cầu bình an cho Hoàng thị.
Cho nên Lôi Phong tháp còn có tên là Hoàng Phi tháp.
Thực ra một người đàn ông nếu không có tình yêu cực kỳ sâu sắc một người phụ nữ thì đời nào lại bỏ ra bao nhiêu của cải để xây dựng một tòa tháp hòng bảo vệ nàng bình an trường mệnh, an hưởng ngàn năm? Nếu không thì đã ước cho cô ta chết sớm để mau lấy vợ khác rồi!
Chính vì vậy Lôi Phong tháp cũng là một lời hứa của người đàn ông si tình dành cho người phụ nữ mình yêu thương.
Nhưng mỉa mai thay, truyền thuyết ghi rằng dưới tòa Lôi Phong tháp này lại là nơi chôn cất một người con gái đáng thương số khổ bị chính người nàng yêu thương nhất bán đứng, nàng và Hoàng phi quả thực khác nhau một trời một vực.
Lôi Phong tháp từ lúc xây dựng đến nay đã trải qua bao nhiêu lần tuế nguyệt, cũng đã được sửa chữa mấy lần.
Có người nói, lần cuối cùng Lôi Phong tháp được sửa chữa, hình như hơn trăm năm trước là do Pháp Hải hòa thượng đem mai táng Bạch Tố Trinh dưới đáy Lôi Phong tháp…
Lần sửa chữa này nghe đồn là do một tổ chức thần bí không rõ lai lịch quyên góp tiền bạc, đến nay vẫn không rõ tổ chức thần bí ấy có quan hệ gì với Bạch Tố Trinh hay không.
Sau lần sửa chữa thần bí ấy, liệu Lôi Phong tháp đã trở về là Lôi Phong tháp như trước…
Hay là trở thành chiếc hòm bảo vệ Vu Bát mà gắn đầy…
Cạm bẫy trùng trùng?
Ánh tà dương đỏ như máu.
Khi ánh tà dương của buổi hoàng hôn chiếc xuống Lôi Phong tháp, khi toàn bộ Lôi Phong tháp chìm trong màu đỏ đầy ma mị ấy…
Một cơn gió chiều nhẹ nhàng lướt qua đỉnh tháp, một người như hồng mao trong gió xuất hiện trên đỉnh tháp.
Nhiếp Phong!
Kỳ thực từ hôm đó đến nay gã vẫn lấy vai trò là du khách đi vào trong Lôi Phong tháp quan sát cẩn thận, phát hiện tòa tháp cao mười ba tầng này ngoại trừ bốn vách tường đều chất đầy kinh phật ra thì bên trong cũng không còn dụng cụ gì cả, chỉ là một khoảng trống đến vắng lặng. Nhiếp Phong thậm chí còn không tìm ra một chút manh mối nào của cơ quan bên trong cả. Tòa tháp này xem ra thật sự chỉ là một tòa di tích cổ để cho du khách tham quan thưởng lãm mà thôi, trong tháp cũng không có người trông coi nữa.
Bởi vì theo truyền thuyết thì Bạch Tố Trinh được chôn dưới đáy Lôi Phong tháp cho nên Nhiếp Phong đã quan sát rất tỉ mỉ tầng thấp nhất, kết quả là tầng này cũng không có gì đặc biệt, hơn nữa chất liệu đá lót dưới đất rất kiên cố, không có vẻ gì là rỗng ở dưới, càng không giống như có chôn giấu vật gì.
Nếu là như vậy thì chẳng lẽ những tin đồn về Bạch Tố Trinh và Vu Bát đều là giả?
Nhiếp Phong không phủ định khả năng này, cũng không khẳng định, cách nhìn nhận vấn đề của hắn trước giờ luôn đặc biệt, ba ngày nay hắn suy nghĩ rất nhiều, sau cùng chợt lóe lên ý nghĩ như thế này:
“NƠi yên tĩnh nhất thường là nơi nguy hiểm nhất, nơi khiến người ta chú ý nhất thường thì nó muốn phân tán sự chú ý của mọi người khỏi một nơi trọng yếu nào đó mà không muốn để người khác thấy, chỗ khiến người ta chú ý nhất thường không hẳn là điểm mấu chốt.”
Không sai! Thường nghe đồn Bạch Tố Trinh bị chôn dưới đáy tháp, rất có khả năng là để phân tán sự chú ý của mọi gười. Cho nên khả năng điểm mấu chốt sẽ nằm ở nơi hoàn toàn ngược lại: đỉnh tháp.
Mà ba ngày nay Nhiếp Phong chưa hề lên đỉnh tháp.
Bởi vậy hôm nay đợi đến hoàng hôn, chờ sau khi du khách đã rời đi hết thì Nhiếp Phòng mới xuất hiện trên đỉnh cao nhất của Lôi Phong tháp, đỉnh tháp xây trên bốn mặt ngói tam giác.
Gã đã đoán đúng! Vừa lên đỉnh tháp gã đã phát hiện một vài thứ mà gã hoàn toàn không nghĩ tới!
Chỉ thấy trên một viên ngói trên đỉnh có khắc mười sáu chữ thảo rất cứng cáp:
Tây Hồ cạn đáy
Nước triều không dâng
Lôi Phong tháp đổ
Bạch xà xuất thế!


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui