Chốn này là lãnh cung. Nơi quanh năm cô tịch tăm tối, lạnh lẽo như Quỷ Vực[1].
[1] Quỷ Vực: theo truyền thuyết Trung Quốc cổ đại, con người sau khi chết sẽ biến thành ma quỷ, tồn tại ở nơi gọi là Quỷ Vực, là thế giới của âm hồn ma quỷ.
Lộ Ánh Tịch từ từ đẩy cánh cửa nặng trĩu để bước vào trong. Tên thị vệ đứng canh gác không dám cản nàng, chỉ kính cẩn bám theo gót chân nàng.
“Ngươi lui ra ngoài đi.” Nàng quay lưng về phía tên thị vệ, bình thản ra lệnh.
Tên thị vệ lưỡng lự không quyết một lúc, nhưng cuối cùng cũng cung kính dâng lên chiếc đèn lồng trao cho nàng, sau đó mới lui ra ngoài.
Lộ Ánh Tịch cầm chiếc đèn lồng trên tay đi dạo xung quanh lãnh cung. Lãnh cung này vừa mới được tu sửa, nhưng nó vẫn âm u tĩnh mịch như cũ. Nơi đây không có một chút hơi người, không một ngọn đèn dầu le lói nào. Nó giống như một tòa thành trống không vì vừa trải qua một trận đánh cướp kinh hoàng.
Không gian hoang vắng khiến người ta có cảm giác sợ hãi, cả người nàng phát run.
Nàng đi qua tiền điện vắng vẻ, lại bước dọc theo một hành lang dài gấp khúc mới đến được vườn hoa trước tẩm cung. Lộ Ánh Tịch nhếch môi cười nhạt nhìn quanh. Thật ra ở đây rất tốt, mặc dù hơi u ám quạnh vắng, nhưng lại rất thanh tịnh và nhất là không có phân tranh.
Lúc còn thơ bé, nàng cũng từng rất hiếu kỳ không biết lãnh cung trông như thế nào. Có một hôm nàng len lén chạy đi xem trộm. Nàng trèo lên tường thành lãnh cung đã cũ kỹ loang lổ, liếc ngang liếc dọc thế nào lại trượt chân rơi thẳng xuống đất. Sau đó nàng có kể chuyện này cho sư phụ nghe, ánh mắt sư phụ bỗng chốc trở nên thương xót, giống như lúc đó người đã thấy trước tương lai nàng cũng sẽ trở thành một nữ nhân đáng thương chết dần chết mòn trong thâm cung.
Lãnh cung ở Ô Quốc không giống Ưu Cung này, ở đó vô cùng rách nát, hoang phế, có thể nói cả trăm năm chưa từng được tu sửa cũng không ngoa. Ở đó có khoảng bốn hay năm vị phế phi sinh sống. Trong đó có một người đã năm mươi tuổi và từng là phi tử của hoàng tổ phụ. Ngày ấy nàng nằm sấp trên đầu tường đã nhìn thấy vị lão thái phi kia.
Lão thái phi kia mặc một bộ váy áo nhàu nát, rách rưới màu đỏ tươi, chắc hẳn nó đã cũ lắm rồi. Mái tóc của bà đã bạc trắng, mặt đầy nếp nhăn, nhìn qua cứ tưởng bà đã bảy tám chục tuổi. Thế nhưng phong thái đi đứng của bà khoan thai với sống lưng thẳng tắp, đầu ngẩng cao, cánh tay buông lỏng hai bên. Thần thái của bà vẫn rất tao nhã, quý phái.
Nhưng điều kỳ lạ chính là bà luôn lẩm bẩm một mình, khi thì cúi lạy hành lễ, lúc lại oai phong quát tháo. Đáng sợ nhất là bà ngồi bên một gốc cây dương, nghiêng đầu dựa vai vào thân cây, vẻ mặt nũng nịu cùng ánh mắt mơ màng. Bà tâm sự nỉ non với thân cây.
Lộ Ánh Tịch tìm một chỗ trên lan can hành lang ngồi xuống, nàng ngẩng đầu thở dài. Vị thái phi bị phế truất kia đã bị giam cầm trong lãnh cung ba mươi năm. Từng ấy năm bà chưa từng hít thở không khí bên ngoài phòng giam vô hình đó. Nếu bà không tự tìm cách giãi bày tâm tư, nỗi khao khát thầm kín, thử hỏi làm sao không sớm phát điên? Mặc dù nữ tử trong chốn hậu cung đều có lòng dạ hiểm ác, đáng trách nhưng cũng có một mặt đáng thương.
Cơn gió thổi qua người nàng, làm ánh nến trong chiếc đèn chập chờn chực tắt.
Lộ Ánh Tịch bỗng đứng bật dậy, quát to: “Ai đó?”
Một thân hình ốm cao đi ra từ chỗ tối ở cuối hành lang. Bóng dáng đó từ từ đến gần nàng, còn nàng dần dần hóa đá.
“Sư phụ?” Nàng không dám tin chỉ gọi nhỏ, nhất thời không biết là vui hay buồn.
Người kia càng đến gần thì khuôn mặt anh tuấn càng hiện rõ dưới ánh đèn. Đôi mắt đen huyền, dịu dàng như ngọc cùng khuôn mặt tươi sáng bàng quan, không có chút khác biệt nào so với lúc trước.
“Sư phụ! Sao người lại ở đây?” Một lúc sau Lộ Ánh Tịch mới hoàn hồn, ngạc nhiên hỏi.
“Đương nhiên là sau khi ngươi đến Tu La Môn lần trước, ta đã ở đây chờ ngươi.” Nam Cung Uyên cười nhã nhặn, cứ như y hoàn toàn không biết rằng những lời y nói đã khiến nàng kinh ngạc đến bàng hoàng.
“Vậy nói cách khác người…” Lộ Ánh Tịch trợn trừng mắt, cơn giận sôi sục đem những lời muốn nói ách tại cổ họng, muốn nuốt xuống cũng không trôi.
“Ánh Tịch, ngươi có biết ngươi càng ngày càng ngu ngốc?” Ánh mắt Nam Cung Uyên tối đi, nghiêm giọng nói: “Chỉ là thuốc mê là có thể khống chế được sư phụ sao?”
“Không phải sư phụ tự nguyện dâng hai tay chịu trói sao?” Lộ Ánh Tịch hỏi ngược lại, từng cơn khí lạnh chiếm giữ toàn thân đã đông cứng của nàng.
“Đúng vậy. Nhưng ta lại không ngờ Lăng nhi lại dùng ta đối phó với ngươi.” Nam Cung Uyên nhìn nàng chăm chú, con ngươi trong đôi mắt như hai viên ngọc trai đen lóe lên tia sáng nhưng ngay lập tức lại trầm tối. “Ta nằm trong quan tài nghe được cuộc nói chuyện của ngươi với người của Tu La Môn, biết ngươi sẽ vào lãnh cung ở nên muốn tương kế tựu kế. Nhưng ta thật không ngờ ngươi lại xuẩn ngốc đến vậy.”
“Sư phụ mắng Ánh Tịch ngu xuẩn, không biết con có thể rửa tai lắng nghe cao kiến của sư phụ?” Lộ Ánh Tịch bật cười, thanh âm trong trẻo nhưng ấm ức, khóe mắt ngân ngấn nước mắt, lòng quặn thắt rỉ máu. Nàng đã sớm hối hận, đã sớm biết bản thân ngu dại, trong hoàn cảnh như vậy lại dâng hiến bản thân cho Mộ Dung Thần Duệ. Trên hết nàng dù thế nào cũng không ngờ sư phụ lại đâm một nhát trí mạng ngay trái tim của nàng.
Nam Cung Uyên chìm trong yên lặng, vầng trán cau lại dần dần giãn ra, chỉ còn lại vẻ đau đớn khuôn nguôi nơi đáy mắt. Y đã tính toán trăm phương ngàn kế. Y chỉ muốn lợi dụng thời cơ để đưa nàng vào lãnh cung ở tạm nhằm tránh một kiếp nạn sắp xảy ra, nhưng không lường trước được vì cứu y mà nàng phải cùng Hoàng đế…
Mặc dù mọi chuyện xảy ra ở Hồ Bích Ngọc y không tận mắt chứng kiến, nhưng với thính giác cực nhạy của mình, dù ở khá xa y vẫn có thể nghe thấy tất cả. Ngay tại khoảnh khắc đó, y muốn bất chấp hậu quả mà xuất hiện ngăn cản. Cuối cùng lý trí đã chiến thắng tâm tình kích động. Trái tim y dường như chảy máu không ngừng, một vết thương không nhìn thấy miệng nhưng y rất đau, rất rất đau. Có lẽ là vết thương nhức nhối suốt cuộc đời y.
Thay vì y trách nàng không bằng y trách chính bản thân, hận chính mình. Y từng chút một đẩy nàng ra xa, giờ đây nàng đã ở rất xa tầm tay của y…
“Sao sư phụ lại lừa Ánh Tịch?” Lộ Ánh Tịch thu lại nụ cười gượng trên môi, ngẩng đầu nhìn thẳng vào y.
“Trong cung sắp xảy ra một chuyện lớn, nếu ngươi chờ ở lãnh cung thì có thể tránh một kiếp nạn.” Giọng Nam Cung Uyên bình thản, đôi mắt đen trong veo bình lặng.
“Chuyện lớn thế nào? Sư phụ cho rằng Ánh Tịch không có năng lực tự vệ? Nên cần phải lấy cách thức mờ ám vằn vèo thế này để cứu Ánh Tịch phải không?” Ánh mắt nàng lành lạnh, giọng nói hung hăng.
“Đúng vậy, ta cho rằng ngươi không có cách tự bảo vệ bản thân.” Nam Cung Uyên thản nhiên nhìn nàng, cố giấu đi nỗi buồn đang chấp chới trong lòng. Cho đến nay, y vẫn luôn cho rằng cách thức của y không hề sai. Y muốn bảo vệ nàng, không phải vì nàng không có bản lĩnh tự vệ mà điều đó xuất phát từ sự quan tâm lo lắng thật tâm của y, khó lòng bắt y nhắm mắt ngó lơ cho được. Thế nhưng hiện tại, y lại bắt đầu hoài nghi chính mình. Phải chăng y đã sai? Có phải y đã vô tình thao túng vận mệnh của nàng?
Lộ Ánh Tịch nở nụ cười cay đắng.
Sau một lúc im lặng, Lộ Ánh Tịch ngẩng đầu nói rành mạch: “Sư phụ, Ánh Tịch không tin vào số phận. Con người có thể tự giải thoát chính mình, không cần phải dựa vào thiên cơ, càng không cần phải trốn trách kiếp nạn. Ánh Tịch quyết định sẽ quay về Phượng Tê cung, sẽ không đến đây ở, cũng sẽ không từ bỏ Hậu vị.”
“Ánh Tịch, ngươi đừng hành động tùy tiện.” Giọng nói Nam Cung Uyên ấm áp, lại mang chút bất lực. Nửa cuộc đời y đã thờ phụng thiên mệnh, còn trong mắt nàng nó chẳng là gì. Nhưng đó mới chính là nàng, sao hắn có thể đem tín ngưỡng của mình áp đặt lên người nàng được?
“Bất kể tương lai có tai họa nào giáng xuống, Ánh Tịch luôn tin rằng mọi chuyện đều phụ thuộc vào con người. Nếu sức người nhỏ bé không cách nào xoay chuyển Càn Khôn, thì chí ít cũng phải dũng cảm đối mặt, dốc hết toàn lực, như vậy cũng đủ rồi.” Nhìn qua Lộ Ánh Tịch vô cùng tự nhiên, thực ra nội tâm tràn đầy bi thương và chua xót. Mộ Dung Thần Duệ không tin nàng, sư phụ cũng không tin nàng, căn bản trên đời này không có ai tin tưởng nàng. Chuyện lạc hồng nàng không có cách nào chứng minh, nhưng chí ít nàng có thể chứng minh cho sư phụ thấy một điều, nàng không cần biết trước tai họa nhưng vẫn có thể vượt qua số kiếp.
Nam Cung Uyên nhìn nàng chằm chặp hồi lâu, miễn cưỡng cười gượng gạo, chỉ nói bốn chữ: “Cẩn thận mọi việc.” Cái giá phải trả cho lần này lớn như vậy, có phải ông trời đang trừng phạt y vì đã toan tính hòng thay đổi số trời đã định? Vốn dĩ y cũng không hy vọng viển vông, dù giữa nàng và Hoàng đế trong sạch như nước. Nhưng cho đến khi chuyện đó thực sự phát sinh, y mới nhận ra bản thân lại đớn đau tận xương tủy như vậy. Thì ra y rất yêu nàng, yêu sâu đậm đến mức ngay cả y cũng không ngờ đến.
Màn đêm đen tối bao trùm bầu không khí lạnh vắng. Hai người đều chìm trong sự trầm mặc của bản thân, làm tăng thêm bứt rứt khó chịu cho cả hai.
“Sư phụ, vì sao Diêu Hiền phi hận người?” Lộ Ánh Tịch khẽ hỏi, nhất quyết nén chặt hết thảy ưu tư đang cuồn cuộn xuống đáy lòng.
“Lúc ta còn quấn tã đã bị sư tôn Huyền môn ẵm đi. Về lâu về dài ta đều nghĩ mình là trẻ mồ côi, mãi cho đến vài năm trước ta mới biết rõ thân thế của bản thân.” Biểu cảm trên mặt Nam Cung Uyên không khác mấy, ngửa đầu nhìn bầu trời đêm, hờ hững nói tiếp: “Lúc đầu Huyền môn và Tu La Môn là bằng hữu có quen biết qua lại, cũng chính vì thế mà khi ta vừa mới chào đời thì sư tôn đã bồng ta đi mất. Sư tôn phát hiện bát tự[2] của ta khác hẳn với người thường, vả lại gân cốt đặc biệt nên liền lén mang ta đi.”
[2] Bát tự: là tám chữ giờ, ngày, tháng, năm sinh theo Thiên can và Địa chi, là một cách xem số mệnh. Người xưa cho rằng giờ, ngày, tháng, năm con người được sinh ra đều bị Thiên can và Địa chi chi phối. Mỗi giờ, ngày, tháng, năm sinh ấy được thay bằng hai chữ, tổng cộng là tám. Dựa vào tám chữ ấy, ta có thể suy đoán ra vận mệnh của một con người.
“Trộm trẻ sơ sinh?” Lộ Ánh Tịch không khỏi nhíu mày. Nàng cũng được tính là một đệ tử Huyền môn, nhưng không biết sư tôn lại là nhân vật như vậy.
“Sư tôn say mê với sự huyền bí của thuật kỳ môn đến mức gàn dở. Người nói với ta rằng ta là một kỳ tài Huyền môn trăm năm khó gặp.” Nam Cung Uyên nhìn vòm trời xa xăm không ánh sao, nàng chỉ nhìn thấy một bên mặt hiện vẻ cô quạnh.
“Khoảng hơn chục năm trước, Tu La Môn không ngừng quấy rối và ám sát rất nhiều đệ tử Huyền môn. Ta không rõ nguyên do vì đâu, sư phụ cũng một mực không chịu nói vướng mắc của hai phái. Về sau tình hình ngày càng nghiêm trọng, sư phụ chỉ phòng thủ chứ không phản công, bên phía Tu La Môn sử dụng thủ đoạn càng thêm tàn nhẫn. Huyền môn dần dần lụn bại, sau đó biệt tích giang hồ. Sư tôn không muốn ta bị mai một tài năng ở núi rừng, muốn ta tự tiến cử vào hoàng cung. Hơn nữa còn nói, hơn mười năm sau thiên hạ sẽ đại loạn, người hy vọng ta có thể cứu bách tính khỏi khói lửa chiến tranh. Sư tôn quả thực đánh giá ta quá cao rồi.”
Hắn cười giễu, lại nói tiếp: “Về sau này, phân nửa thời gian của ta sống ở trong cung, còn lại đều dành thời gian cho việc ngao du đó đây. Khi ở ngoài, ta trùng hợp gặp một tiểu cô nương, nàng nói phụ thân của nàng bị bệnh nặng, thuốc và châm cứu cũng vô dụng. Ta liền nhận lời theo nàng ta về nhà để chuẩn bệnh cho phụ thân nàng ta.”
Y ngừng lại một chút rồi tiếp tục dùng giọng đều đều kể chuyện, “Bệnh tình của ông ta quả thật nghiêm trọng, nhưng vẫn có cách xoay chuyển. Thế nhưng ta không cứu ông ta ngay, bởi vì ta cảm thấy ngôi nhà này không tầm thường. Bên trong ngôi nhà bày bố trận pháp, oán khí rất nặng. Ta viện cớ muốn ra ngoài tìm thảo dược để âm thầm điều tra thân phận của bọn họ. Hóa ra người bị bệnh là môn chủ Tu La Môn. Ta nhớ đến những sư huynh đệ Huyền môn phải chết thảm dưới tay họ, liền nhẫn tâm không cứu ông ta mà tìm đường vòng vèo về cung. Sau đó mấy ngày, lòng ta vẫn phập phồng bất an. Cuối cùng ta cũng đầu hàng lương tâm, chạy thẳng đến đó thì cô nương kia lạnh lùng nhìn ta, chỉ nói với ta đúng bốn chữ ‘hung thủ giết người’.”
“Cô nương kia bây giờ là Diêu Hiền phi?” Lộ Ánh Tịch nhẹ nhàng hỏi.
Nam Cung Uyên gật đầu, giọng nói đau thương: “Vì chuyện này, ta thẹn với lòng mình nên đi tìm sư tôn, hy vọng người có thể khuyên giải. Nhưng mà do đó ta biết được thân thế của ta.”
“Sư phụ, cái này không phải lỗi của người, đây là chuyện trời xui đất khiến, ngoài ý muốn mà thôi.” Lộ Ánh Tịch dịu dàng an ủi.
Dường như Nam Cung Uyên không nghe lọt tai những điều nàng nói, vẫn kể tiếp: “Sau đó ta đi tìm Lăng nhi, quỳ gối cúi đầu chịu tội. Tính tình nàng ấy ương ngạnh không chịu tha thứ, nàng ấy muốn ta nợ máu phải trả bằng máu. Nàng ấy dùng dao găm đâm từng nhát từng nhát lên người ta. Nàng ấy còn nói muốn lấy hết máu trong người ta ra vì ta không xứng là người của Diêu gia. Vì mất máu quá nhiều mà ta rơi vào trạng thái hôn mê, trong khoảng không mơ mơ màng màng ta cảm thấy quanh mình xuất hiện bầu không khí dâm đãng. Ta cố mở mắt nhưng cái gì cũng mờ ảo nhìn không rõ, chỉ nghe thấy bên tai tựa hồ có âm thanh cầu cứu. Sau này ta mới biết đại sư huynh của Lăng nhi muốn xâm phạm nàng ấy. Nàng ấy vừa giãy giụa vừa nhìn ta mong ta cứu nàng ấy. Có điều ta mở mắt chỉ là phản ứng vô thức, nhưng nàng ấy lại cho rằng ta cố ý phớt lờ, thấy chết mà không cứu.”
“Vậy…” Lộ Ánh Tịch muốn hỏi phải chăng Diêu Lăng đã bị nhúng chàm.
“Tính cách của Lăng nhi thà chết cũng không để người khác làm nhục. Đại sư huynh của nàng xem như còn chút nhân tính, sau đó đã buông tha cho nàng ấy. Đương nhiên sau đó Lăng nhi đã kiên quyết muốn thoát ly khỏi Tu La Môn. Chuyện đến đây thôi.” Nam Cung Uyên thở dài thườn thượt. Y là một kẻ nghiệp chướng đầy mình, dù không tự tay giết chết nhưng cũng gián tiếp hại chết phụ thân.
Lộ Ánh Tịch cũng thở dài. Trước đây sư phụ từng nói y đã quen Diêu Lăng từ rất lâu, hóa ra cái đó không phải chỉ thời gian quen biết mà chỉ mối quan hệ huyết thống ăn sâu vào máu thịt. Xấu xa quá quắt mà y nói là để chỉ chính y. Tận sâu trong lòng y, y căm hận chính mình.