Quan Cư Nhất Phẩm

Binh bộ, Đại học sĩ trị phòng (nơi chờ hoàng đế triệu kiến).

Thẩm Mặc khuôn mặt tươi cười nhìn hai vị quan viên tam phẩm trạc tuổi mình ngồi ở bên phải, chính là hai Binh Bộ Thị Lang tân nhiệm, Đàm Luân và Ngô Đoái.

Đàm Luân còn tốt, Ngô Đoái thì vẻ mặt kích động, lần này một hơi tăng qua tứ phẩm, từ ngũ phẩm lên hẳn tam phẩm, khiến cho tâm tình của hắn thật lâu rồi mà vẫn cứ lâng lâng.

- Hai vị đều là tri kỉ của ta.
Thẩm Mặc thản nhiên cười:
- Những lời khách sáo không nói nhiều nữa.
Nói rồi khuôn mặt nghiêm túc trở lại nói:
- Quan hệ của hai vị với ta trong triều ai cũng biết, nếu bị chụp cho cái tội nhiệm nhân duy thân là không xong đâu... Tử Lý huynh thì không nói, huynh vốn là quan tam phẩm, điều về làm Binh bộ thị lang thì không ai nói gì...
(nhiệm nhân duy thân: dùng người không khách quan)
Thoáng dừng lại nhìn sang Ngô Đoái, lại nói:
- Quân Trạch huynh thì không giống vậy, lẽ ra huynh nên đi lên từ binh bị một tỉnh, rồi sau đó mới làm chức thị lang này.

Vẻ mặt Ngô Đoái trở nên nghiêm túc, gật đầu nói::
- Lẽ ra nên như vậy.

- Nhưng chỉ có huynh làm hữu thị lang ta mới yên tâm.
Thẩm Mặc khẽ than một tiếng:
- Không biết là ta đang giúp huynh hay hại huynh.

- Đại nhân không nên nói vậy.
Ngô Đoái trầm giọng nói:
- Việc đại nhân làm, thuộc hạ ghi tạc trong lòng.

Nghe xong lời này, Đàm Luân không nhịn được liếc mắt sang, thầm nghĩ: "Xem ra không chỉ có dựa vào quan hệ, chí ít hào khí này cũng ít người có được".

- Xem ra là ta lo lắng quá.
Thẩm Mặc sờ sờ mũi, cười nói:
- Được, chúng ta thống nhất lần cuối, Vương Quốc Quang có lẽ sẽ không trở về.

Lần này vẻ mặt Ngô Đoái không có gì thay đổi, đối với việc Vương Quốc Quang không về Binh bộ hắn cũng không cảm thấy lạ. Nhưng trên mặt Đàm Luân lại lộ ra vẻ vui mừng, Thẩm Mặc có lẽ sẽ không tự rước lấy phiền toái, tám phần mười sẽ để Đàm Luân hắn tự mình kiêm nhiệm Bộ binh, cơ hội để phát huy năng lực cuối cùng cũng đến.

- Có người nói ta chuyên quyền độc đoán ở Binh bộ.
Thẩm Mặc thản nhiên nói:
- Bao nhiêu ánh mắt nhìn chằm chằm vào ta, rình chúng ta làm hỏng việc, xảy ra chuyện... Hắc hắc, người của thiên binh khoa (kiểu tòa án binh) đã ra tay trước, mắng chửi Thích Nguyên Kính thậm tệ, ha ha...

Hai vị thị lang biết Thẩm đại nhân đang vì việc Thích Kế Quang bị hạch tội mà căm tức, Ngôn quan cho rằng để một binh lính nắm giữ quyền lực lớn như vậy thật sự là quá nguy hiểm; hắn còn muốn điều binh phía nam lên phương bắc, chẳng may hắn có dã tâm thì khống chế làm sao?

Người lo ngại không chỉ có một hai người, Thẩm Mặc hàng ngày đều phải giải thích với họ, ngăn trở minh thương ám tiễn từ bốn phương tám hướng đánh tới.

- Thuộc hạ sẽ cẩn thận, cố gắng không gây thêm phiền phức cho đại nhân.
Hai người cam đoan nói.

- Nếu như vì giảm phiền phức mà bị vướng tay vướng chân...
Thẩm Mặc khoát tay nói:
- Ta đây cần gì phải tiếp tục cục diện rối rắm này?
Nói rồi lông mi nhếch lên:
- Hôm nay chúng ta cùng nắm chức nắm quyền, chính là muốn làm một phen đại sự, sao phải sợ hãi một chút lời nói ra nói vào?
Không cần biết trong lòng thế nào, nhưng đối với thuộc hạ không thể lộ ra vẻ kinh sợ.

Thấy hai người tập trung lắng nghe, Thẩm Mặc trầm giọng nói:
- Cố gắng làm việc hết sức, đừng để người khác bắt được lỗi, chỉ cần làm được, ta đảm bảo với hai vị, ngày nào ta còn thì hai vị còn.

- Vâng!
Đối với quan viên mà nói, có thể gặp được cấp trên như vậy thật là tam sinh hữu hạnh.

-o0o-

- Chúng ta bàn luận công việc một chút.
Thẩm Mặc nhìn Đàm Luân nói:
- Tử Lý huynh, nhiệm vụ của huynh là thúc đẩy cửu biên thay đổi chiến lược.
(cửu biên: chín trọng trấn vùng biên cương, gồm: Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Du Lâm, Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, Thái Nguyên, Cố Nguyên)

Đàm Luân gật đầu, hắn hoàn toàn hiểu ý của Thẩm Mặc, năm ngoái trong chiến dịch Vạn Toàn, bọn họ từng nghiên cứu qua sách lược biên phòng của Đại Minh, cuối cùng cho rằng cần phải phân làm ba bước. Bước đầu tiên, chuyển từ phòng ngự bị động sang phòng ngự chủ động; bước thứ hai sẽ tiếp tục chuyển từ phòng ngự chủ động sang phản công chiến lược; thứ ba thực hiện áp chế toàn diện Mông Cổ. Mỗi một bước đều lập ra kế hoạch cụ thể, toàn bộ kế hoạch sẽ được thực hiện trong khoảng mười đến mười lăm năm.

- Huynh ở Tuyên Đại (Tuyên Phủ và Đại Đồng) làm rất tốt.
Thẩm Mặc tán dương:
- Giúp cho Mã Phương và Doãn Phụng có thể tiến công vào mùa xuân, khiến cho thế lực ở biên cương được mở rộng.

- Thuộc hạ không dám kể công, việc này chủ yếu là do Mã tổng binh đề nghị.
Đàm Luân khiêm tốn nói:
- 'Địch muốn động đến ta thì ta động trước, đánh địch ngay trong biên giới địch', những lời này Mã tổng binh đã hô hào đến hai mươi năm, thuộc hạ chỉ mượn dùng mà thôi.

- Huynh không cần khiêm tốn.
Thẩm Mặc giơ tay nói:
- Không có huynh toàn lực ủng hộ, ở giữa bày mưu tính kế, thì chiến thắng đâu dễ dàng đến vậy.

- Đại nhân quá khen.
Đàm Luân mặc dù cố gắng thận trọng, nhưng vẫn không giấu nổi một tia đắc ý. Bản thân tuy làm tổng đốc không được một năm, nhưng những sự thay đổi ở biên phòng Đại Minh, đều có nguồn gốc từ hắn mà ra.

Có thể nói, bốn mươi lăm năm Gia Tĩnh chính là bắt đầu ác mộng của Yêm Đáp Hãn. Liên tục là những chiến thắng vang dội, đập tan những chiến thắng oanh liệt của Yêm Đáp Hãn trước đây, khiến cho đám người Đàm Luân, Mã Phương lên như diều gặp gió, một bước trở thành "Biên soái võ công chi thủ". Quan trọng nhất là ba người quyền khuynh một phương ở Tuyên Đại - tổng đốc Đàm Luân, tổng binh Mã Phương, Doãn Phụng, cuối cùng cũng có đất dụng võ, thực hiện sách lược tác chiến của bọn họ, lúc trước người Mông Cổ đến Đại Minh như vào chỗ không người, Đại Minh phòng ngự bị động, nhưng cục diện một chiều này cuối cùng cũng đã nghịch chuyển.

Cái gọi là 'Địch muốn động đến ta thì ta động trước, đánh địch ngay trong biên giới địch' đã chuyển thành tiếng lóng trong giang hồ, chính là - tiên phát chế nhân, dĩ bạo chế bạo. Năm xưa các đời biên tướng của Đại Minh ở bắc cương đều vì sợ Hồ kỵ đông đảo, cho nên trường kỳ bế quan tự thủ cầu thái bình, đã thành cố tật. Nhưng mấy người Đàm Luân cùng Mã Phương không chút do dự, đi trên con đường của kẻ mạnh, đi đầu tạo nên cuồng phong ở bắc cương.

Nhưng 'Địch muốn động đến ta thì ta động trước' nói thì dễ, làm mới khó. Vì để thực hiện tiên phát chế nhân, nhiều năm trước Thẩm Mặc đã sai Cẩm Y Vệ thâm nhập vào Mông Cổ. Việc hiểu rõ đối phương chính là sự chuẩn bị tốt nhất cho tương lai sau này, Lục Cương cùng đám người Thập tam thái bảo chắc chắn sẽ gắng hết sức để hoàn thành nhiệm vụ.

Bọn họ ra lệnh cho thủ hạ hóa trang lẫn vào nạm dân bị quân Mông Cổ bắt đi, rồi tìm cơ hội trà trộn vào nằm vùng; đối với những tên Hán gian mà Yêm Đáp tín nhiệm cũng không tiếc trả giá mà khổ tâm xúi giục, dần dần tạo thành nhiều vị 'Tuyến dân' (cơ sở ngầm, nội ứng); rồi tìm cách cài mật thám lẫn vào trong đó. Những người này đã được Cẩm Y Vệ lựa chọn cẩn thận, không ngừng truyền về các tin tức tình báo, vì thế đám người Đàm Luân, Mã Phương mới có thể đối đầu với bộ tộc Thát tử, đặc biệt là hoạt động của Yêm Đáp Hãn nắm rõ như lòng bàn tay.

Tướng soái Tuyên Đại không tiếc lời khen: 'Hồ kỵ đi đến mặc dù nhanh, nhưng khó thoát tai mắt của Cẩm Y Vệ', chính là sự biết ơn tốt nhất đối với họ.

Bằng sự thành công trong tình báo, Đàm Luân bắt đầu thực hiện mưu tính, để cho Mã Phương mạnh dạn thực hiện chiến lược 'Tiên phát chế nhân', mỗi khi tin tình báo Yêm Đáp Hãn xâm chiếm được truyền tới, Mã Phương sẽ phái đi 'Mã gia dũng sĩ' của mình, tạo thành hơn mười phân đội từ ba mươi tới bốn mươi người, bí mật tiến tới biên giới giữa hai nước. Tới khi người Mông Cổ tiến hành xâm chiếm ồ ạt, toàn bộ gia binh lập tức hành động, điên cuồng đánh vào hậu phương của địch, hoặc cướp ngựa, hoặc đốt cháy bãi cỏ, hoặc tập kích quân nhu lương thảo, phối hợp với bộ đội chủ lực tiền hậu giáp kích, đập tan sự xâm lấn của người Mông Cổ.

Ngoài ra, Mã Phương cùng Doãn Phụng còn tổ chức bộ đội chủ lực, nhiều lần tập kích bộ lạc Thát tử với quy mô lớn, hai người có khi tự mình đốc chiến, có khi lại phái phó tướng, một năm có đến mấy lần ra quân, đánh cho Thát tử thiệt hại vô số, có một lần Mã Phương tự mình dẫn khinh kỵ binh thâm nhập vào trong đất địch sáu trăm dặm, liên tiếp phá huỷ hơn hai mươi bộ lạc lớn nhỏ, làm suy yếu bộ lạc có thực lực mạnh nhất của bọn chúng, cuối cùng còn diễu binh xung quanh lăng Thành Cát Tư Hãn, khiến cho các bộ lạc Mông Cổ khiếp sợ.

Đương nhiên để có được thành công thì cũng phải trả giá, đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma. Tháng sáu năm nay, Mã Phương cùng Doãn Phụng suất lĩnh chủ lực, tách ra xuất kích ghềnh Bắc Sa, thực hiện ý đồ cũ làm tiêu hao chủ lực Yêm Đáp Hãn, nhưng Yêm Đáp Hãn đa mưu túc trí, khéo léo tránh được quân tiên phong của Minh quân, lại tập kích bất ngờ Tuyên Phủ, công phá trọng trấn Long Khánh, sau đó Tuyên Đại từ tổng đốc tới tổng binh, đều bị Ngự sử buộc tội làm ngơ để địch nhân xâm nhập.

Nếu là ngày xưa thì tội danh này cũng đủ để hai tổng binh phải bãi quan về nhà, nhưng vì Thẩm Mặc sắp xếp ổn thỏa, cho nên chỉ bị triều đình khiển trách giáng xuống một cấp, các công lao trước đây đều bị bãi bỏ, lệnh cho phải lập công chuộc tội, sau đó trong một lần bất ngờ đánh Hồi Hột, với chiến công suýt nữa thiêu được vương đình của Yêm Đáp, mà tất cả đã được phục hồi nguyên chức, thậm chí còn được khen thưởng lớn.

Chính là trên dưới một lòng, mạnh mẽ cùng tấn công, mặc dù Yêm Đáp đôi khi cũng thắng trận, nhưng đối với đám người Mã Phương hắn càng ngày càng sợ hãi, không cần hắn ra lệnh, người Mông Cổ đã mang bộ lạc rời xa biên cảnh, thàn rằng bớt đi một ít mục trường, còn hơn phải sống trong cảnh ngày đêm lo lắng. Từ trong tiềm thức chỉ muốn tránh những hung thần ác sát này... Một ví dụ rõ ràng nhất, đó là những nơi Thát tử quấy nhiễu từ trước đến nay như Duyên Tuy (Du Lâm), Ninh Hạ, Cam Túc, bởi vì nhìn cái gương Tuyên Đại mà không dám động tới nữa. Tính ra từ đó đến giờ cũng chỉ có một lần bị tập kích mà thôi, nếu không phải do đám người Mã Phương sơ suất, bọn chúng cũng không thể thực hiện được.

Chính thắng lợi trên chiến trường của bọn họ làm Thẩm Mặc thêm vững tin, cũng khiến sự cản trở đối với cải cách quân sự của Thẩm Mặc được giảm bớt.

Sắp xếp xong nhiệm vụ cho Đàm Luân, Thẩm Mặc nói với Ngô Đoái:
- Nhiệm vụ của Quân Trạch huynh nhiều và phức tạp, cũng quan trọng không kém Tử Lý huynh.
Thoáng dừng lại nói:
- Sức lực con người có hạn, phải biết bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, Bộ vụ hằng ngày thì giao cho mấy lang trung đi làm, huynh phải tập trung làm việc của mình cho tốt. Hãy dành sức cho cửu đại công binh xưởng, hết sức truyền dạy cho các công tượng của các phân xưởng nhỏ quy trình chế tạo, chú ý đào tạo nghiêm khắc để còn cho họ lên biên cương, để bọn họ ghi nhớ từng tiêu chuẩn của toàn bộ quá trình sản xuất.

- Còn về phần "Võ chức tỉ thí", huynh phải đốc thúc thường xuyên, đưa việc này đi vào thực tế, nếu có ai làm không tốt thì lập tức thay người.
Thẩm Mặc phân phó:
- Kế hoạch trăm năm lấy giáo dục làm gốc, với quân sự cũng như vậy.

- Vâng.
Ngô Đoái gật đầu đáp ứng.

"Võ chức tỉ thí" như lời Thẩm Mặc chính là một loạt các phương án cải cách, mục đích là đề cao tố chất cùng địa vị của các võ tướng, cái này không phải cứ nói là được, bởi vì trong mắt quan văn, cái gọi là võ tướng đều là những người thô lỗ, luôn thích tranh đấu tàn nhẫn, quan văn luôn coi thường những người này.

Bản thân Thẩm Mặc rất ngưỡng mộ các võ tướng đời trước như Thích Kế Quang, Du Đại Du. Y thấy họ đứng trước mặt những quan văn mà có phẩm cấp cao hơn vẫn phải cẩn thận ăn nói, gọi dạ bảo vâng thì trong lòng khó chịu. Nhưng mà y biết, nguyên nhân khiến địa vị của võ tướng thấp đến vậy không thể hoàn toàn trách quan văn. Thực ra các đời Binh bộ thượng thư đều cố vắt hết óc, hy vọng tìm ra phương pháp cải thiện sức chiến đấu của quân đội, nhưng tố chất của võ tướng lại là một vấn đề lớn.

Các chức quan võ tướng của triều đình phần lớn là được thừa kế, các võ tướng sau này đều không có được sự vũ dũng của các bậc cha chú, lại càng không chuyên tâm đọc sách. Mặc dù cũng có Thích Kế Quang, Du Đại Du là những nhân vật kiệt xuất, nhưng không thay đổi được sự thật phần lớn võ tướng là loại dốt đặc cán mai, phế tài vô dụng... Dù hiện nay đang thực hiện thay đổi lại quân chức, tất cả đều phải vào kinh tỉ thí, nhưng quả thực không mấy người đủ tư cách, nếu như Binh bộ nghiêm ngặt khảo sát, thì trong mười người phải có đến chín người không qua nổi. Nhưng Binh bộ cũng đành chịu, vì đây là hệ quả tất yếu không thể tránh được, đừng thấy một đám mũ mão kim quan mà nhầm, thật ra chỉ được cái mã, đén khi có việc thì không thể dùng được. Do đó nếu một võ quan mà được người khác kính trọng, thì quả thực là một chuyện lạ.

Nhưng chế độ thừa kế võ chức đã tồn tại từ thời khai quốc đến nay, không phải ai có thế lực muốn đổi là đổi được. Muốn nâng cao tố chất của võ tướng thì phải bắt đầu nâng cao tố chất của những thanh niên chưa được thừa kế. Sau khi Thẩm Mặc hiểu được cách làm của Từ Giai thì lấy danh nghĩa của hoàng đế hạ chỉ, sau đó chuyển cho binh bộ phát đi công văn nói: "Mỗi phủ án (gọi chung tuần phủ và tuần án), đốc học, ngự sử đều phải mang gia môn đệ tử, tuổi ngoài mười lăm, có tư chất để đưa đi bồi dưỡng, luyện tập. Đến năm hai mươi tuổi sẽ tổ chức thi tài, học sinh sẽ thi binh thư và võ kỹ, tất cả đều do phủ án xét duyệt. Binh thư quán thông mà võ kỹ thành thạo xếp loại tốt nhất, binh thư chưa thông mà võ kỹ thông xếp loại thứ hai, nếu cả binh thư và võ kỹ đều không thông thì xếp loại cuối cùng. Sau đó học sinh được chuyển sang các bộ phận, loại tốt nhất thì bổ khuyết làm quản sự, thứ hai bổng lộc kém một chút, loại cuối cùng bổng lộc chỉ còn một nửa, sau hai năm lại sát hạch thêm lần nữa. Lần thứ hai thứ hạng vẫn không thay đổi thì vẫn chỉ được trả nửa bổng lộc; nếu ba lần không đạt thì cho ra quân, tuyển chọn người khác".

Với điều kiện hiện tại, Thẩm Mặc chỉ có thể nghĩ đến những phương pháp hiện thực nhất, trực tiếp nhất để thực hiện. Đầu tiên đối với quân đội mà nói, với những quan quân trung cấp trở lên đều phải thông cả văn lẫn võ, biết được binh thư thao lược; quan quân hạ cấp phải thành thạo võ kỹ, từ đó mới có thể đảm bảo tố chất của quan quân được.

Thứ hai, đối với triều đình mà nói, đây cũng chính là một tin mừng. Phải biết rằng đại đa số gia đình võ tướng chỉ có thể duy trì cơm áo, số gia đình có thể cho con cái đến trường cũng chỉ có ít mà thôi. Hiện giờ triều đình tạo cơ hội, để cho con cái họ thành tài, họ đương nhiên nguyện ý... Về phần con cái, nếu như họ thi ba lần không đạt, cũng sẽ không tước đoạt tập chức (chức quan thừa kế) của họ, chỉ phải đổi người khác mà thôi. Như vậy ngoại trừ con trai cả ra, tất cả thành viên khác trong gia đình đều được hoan nghênh, cho nên cũng không là vấn đề.

Cuối cùng, đối với các tỉnh còn nghèo thì kinh phí vấn đề lớn, nhưng Binh bộ sẽ có một khoản riêng, thậm chí đối với những tỉnh có thành tích đứng đầu Binh bộ còn gánh vác toàn bộ chi phí; hơn nữa việc này cũng coi như thành tích tính cho mỗi đốc phủ (tổng đốc và tuần phủ). Cho nên tính ra vấn đề cũng không phải là lớn.

Trương Cư Chính có nhận xét: Phương pháp này khảo hạch quan võ rất nghiêm ngặt, thời gian tuy lâu mà không lãng phí, rất được hoan nghênh', ông rất ủng hộ phương pháp này, hơn nữa còn tỏ ý giải quyết vấn đề kinh phí của các tỉnh.
(Trương Cư Chính: chính trị gia nổi tiếng triều Minh)

-o0o-

- Quá phức tạp.
Sau khi phân phó xong nhiệm vụ, Thẩm Mặc cười khổ nói:
- Muốn làm tốt nhiều việc, nói thì hay nhưng nhân thủ quả thật rất thiếu.
Nói rồi cười với hai người:
- Năm đó Cao các lão nói qua, tình huống Binh bộ rất đặc biệt, theo như lời ông phải có hai thượng thư, bốn thị lang mới đủ dùng. Hiện giờ xem ra lời ấy quả thật không sai.
Kỳ thật Thẩm Mặc cùng Cao Củng đã nghiêm túc thảo luận qua, thấy rằng việc tăng đường quan cho Binh bộ là rất cần thiết, nhưng vì trong tay không có đại quyền, cho nên không thực hiện được.
(đường quan: tên thường gọi của thượng thư, thị lang)

- Thuộc hạ không ngại vất vả.
Đàm Luân mỉm cười nói:
- Chỉ sợ làm hỏng việc của đại nhân.

- Các vị cứ cẩn thận làm việc, phần còn lại giao cho ta.
Thẩm Mặc cười nhẹ:
- Thắng nhiều trận lớn cho ta, ta sẽ bớt áp lực.

- Cái này...
Đàm Luân cười khổ nói:
- Gấp quá cũng không được, với quân bị của Đại Minh ta nếu không có mấy năm chuẩn bị thì không đánh được.
Dừng một chút lại nói tiếp:
- Hơn nữa chiến tranh cũng không phải chuyện của Binh bộ chúng ta.

- Cho huynh biết một tin.
Thẩm Mặc trầm giọng nói:
- Trương Thái Nhạc đã hứa với ta cho hắn một năm chuẩn bị tài chính, hai năm sau nữa nếu vốn nhiều lên thì năm thứ ba sẽ có tiền đánh một trận.

- Sau đó thì sao?
Con mắt Đàm Luân tức thì phát sáng.

- Chuyện sau này ai mà biết được.
Thẩm Mặc nói:
- Nhưng ba năm này để khôi phục Hà Sáo hoặc Tùng sơn, kế hoạch đã được vạch sẵn, huynh chỉ có thể thực hiện theo mà thôi.

- Vâng.
Thấy đại nhân bưng trà tiễn khách, Đàm Luân đứng dậy cáo từ, Ngô Đoái cũng nhanh chóng đứng lên theo.

Thẩm Mặc đưa họ ra sân viện, nhìn hoa cúc đầy xung quanh thì chợt nhớ tới một câu: 'Đãi đáo thu lai cửu nguyệt bát. . . Mãn thành tẫn đái hoàng kim giáp', không khỏi cảm thấy rùng mình, vội vàng dứt ra khỏi suy nghĩ hoang đường này.
(Thơ của Hoàng Sào: Hoàng Sào tuy giỏi nhưng thi nhiều năm không đỗ, cho nên lấy quyết tâm khởi nghĩa lập chính quyền của riêng mình, sau này là lãnh tụ nghĩa quân chống lại Đường triều thối nát, cuối cùng bị thất bại - trong đoạn này có ý Thẩm Mặc sợ một cuộc khởi nghĩa như Hoàng Sào xảy ra)

Trở về phòng Thẩm Mặc thở dài một hơi, đối với việc chỉnh đốn Binh bộ cũng coi như đã chu đáo, việc cuối cùng bây giờ là tổng kết lại rồi viết thành tấu chương, xem như tô điểm cho cái kết hoàn hảo.

Thẩm Mặc tự tay viết đến tận giờ ngọ, đem mọi chuyện thành bại viết ra một tấu chương dài ba nghìn chữ, nhưng lại không đề tên lên đó. Bởi vì một Đại học sĩ hô phong hoán vũ như y thực ra cũng chỉ là người hỗ trợ, người trực tiếp khâm mệnh làm tổng lý đại nhân chính là Thành quốc công, mặc dù ông ta chưa từng lộ mặt, nhưng Thẩm Mặc cũng không thể không để ông ta ký tên được.

Vốn định dùng công văn gửi đi, nhưng nghĩ đi nghĩ lại cảm thấy không nên sơ suất, người ta dù sao cũng là quốc công, tốt nhất là vẫn nên đi một chuyến.

Mặt trước phủ Thành quốc công cùng Định quốc công tựa như được đúc ra từ cùng một khuôn, có điều cũng khó trách, vì quy định như thế cũng chỉ có thể làm theo như thế, ngói nhiều hơn một viên, hoặc thiếu đi một viên đều không được. Đương nhiên hậu phủ chắc chắn là mỗi người một vẻ, nhưng Thẩm Mặc không quen Thành quốc công, cho nên y cũng không có cơ hội ra hậu viện để nhìn.

Nhưng Thành quốc công cũng không để Thẩm Mặc phải đợi lâu, mau chóng mời y vào đại sảnh, còn đích thân mời y ngồi xuống. Thẩm Mặc không vì được yêu quá mà sợ, nhưng y cảm giác Thành quốc công ân cần tới mức này chắc chắn có việc muốn nhờ.

Ông ta không nói, Thẩm Mặc cũng không hỏi đến, y đưa tấu chương để ông ta ký lên, sau đó ngồi nói chuyện phiếm, cũng không vội ra về.

Thành quốc công Chu Hi Trung tuổi cũng đã năm mươi, nhưng luôn chú ý chăm sóc bản thân nên trông trẻ hơn tuổi rất nhiều, ông thấy Thẩm Mặc không chủ động đặt câu hỏi, đành phải mở miệng nói:
- Có một chuyện muốn cùng Thẩm Tương nói một chút.

- Công gia cứ nói.
Thẩm Mặc trong lòng mấp máy, ân cần nói.

- Nghe nói hoàng thượng muốn cho cấm quân tứ vệ làm Ngự Mã giám.
Thành quốc công nhíu mày nói:
- Còn muốn một lần nữa phái giám quân đến tam đại doanh.
Tin tức này quả thật không hay, nhất là tin tức trước, vì huynh đệ của ông còn đang chưởng quản cấm quân.

- A...
Thẩm Mặc bình tĩnh nói:
- Công gia nghe ai nói vậy? Sao ta không biết chút gì?

- Hãy nói cho Thẩm Tương biết đi.
Thành quốc công nói:
- Trong cung có người tới đây, nói qua cho ta biết chuyện này.

- Là ý của hoàng thượng sao?
Thẩm Mặc nheo mắt hỏi.

- Chắc chắn hoàng thượng đã biết rõ.
Thành quốc công nói:
- Ngươi cũng không phải không biết, vị kia có tiếng là ưa nịnh, chỉ cần người bên cạnh nói khéo một chút, rất có thể vị kia sẽ gật đầu.

- Ừm...
Thẩm Mặc trầm ngâm:
- Công gia thấy sao?

- Ta?
Thành quốc công lặng lẽ cười nói:
- Không nói gạt ngươi, ta không hề muốn. Hôm nay giao cho thái giám làm một chuyện, hy vọng không có điều gì sai lầm, nhất là chưởng quân... Thẩm Tương muốn cải cách quân chế, nhất định không thể để bọn họ trà trộn vào.

Thẩm Mặc liếc ông ta một cái, thầm nghĩ chuyện này là của ông chứ, lôi ta vào làm chi? Ngoài miệng thì cười nói:
- Chuyện này cũng chưa chắc đã đúng.

- Có lẽ vậy.
Thành quốc công vui vẻ nói.

- Vậy tấu chương của công gia có dâng lên hay không?
Thẩm Mặc nhìn ông ta hỏi.

- Ha ha...
Ý của Thẩm Tương thế nào?

- Ha ha...
Thẩm Mặc cười rộ lên, nhìn Thành quốc công nói:
- Công gia cứ tự quyết định.

- ...
Biết bản thân không cách nào nói lại Thẩm Mặc, cuối cùng Thành quốc công không vòng vo nữa:
- Ta không muốn dâng bản tấu này lên, nhưng bọn họ giả truyền thánh chỉ, ta cũng đành phải tuân theo. Mong đại nhân nghĩ cách giúp, xem có thể vẹn toàn...
Nói rồi ôm quyền nói:
- Ân tình này bản công ghi nhớ trong lòng, ngày sau nếu có gì cần tới, bản công chắc chắn toàn lực hồi báo.

- Công gia đừng đa lễ.
Thẩm Mặc trầm ngâm chốc lát, rồi mới nói nhỏ:
- Bọn họ có thể làm gì được công gia?
Giọng điệu trở nên lạnh nhạt:
- Không ai muốn trở về thời Chính Đức cả, mọi người đều phải cùng nhau cố gắng, nếu như công gia thỏa hiệp, quan văn sẽ càng cảm thấy chuyện không liên quan tới mình.

- Lẽ nào...
Thành quốc công phát sầu:
- Không có cách nào khác sao?

- Phải dứt khoát rõ ràng.
Thẩm Mặc lắc đầu nói:
- Không thể có cách vẹn cả đôi đường.

- Ôi...
Thành quốc công không nói gì nữa, mãi cho đến lúc tiễn Thẩm Mặc ra về vẫn còn thấy không yên, xem ra trong lòng đang rất khó xử.

-o0o-

Ngồi trong kiệu về phủ, Thẩm Mặc trầm tư suy nghĩ, kỳ thật ý đồ của thái giám đều bị y phát hiện... Xem ra việc thái giám liên hệ với đại quan là không sai, bọn thái giám sớm thử qua ý tứ của y, nhưng bị y khéo léo từ chối, cho nên bọn chúng mới trở lại tìm Chu Hi Trung thử vận may, nếu như không tìm được câu trả lời từ Thành quốc công thì rất có thể bọn chúng sẽ trực tiếp du thuyết hoàng đế, để giao cho bọn chúng việc này.

Suy đoán này rất phù hợp với thực tế, bởi vì Long Khánh không giống với cha, hắn cực kỳ ỷ lại hoạn quan bên người, từ lúc đăng cơ đến nay liên tiếp đề bạt hoạn quan, còn ban cho rất nhiều vinh dự đặc biệt. Dù còn trong thời gian chịu tang, nhưng hắn đã không đợi được mà thưởng cho hơn năm mươi người theo hắn từ lúc còn là thái tử, trong số những người cũ trong cung, người có công cũng hơn hai mươi người, con em của chúng làm quan viên Cẩm Y Vệ đều được hưởng lợi.

Tỷ như tiền nhiệm Ti Lễ thái giám Hoàng Cẩm, có cháu Hoàng Phổ làm chỉ huy Cẩm Y Vệ, tới khi lão ta từ nhiệm tổng quản đi Nam Kinh dưỡng lão, Long Khánh lập tức gia phong cháu ông ta lên làm đô đốc, lo sự vụ Cẩm Y Vệ. Tháng sáu năm nay Hoàng Cẩm ốm chết, lại chấp thuận cầu xin của Hoàng Phổ, ban cho sáu tộc nhân của Hoàng Bảo làm Cẩm Y Vệ, thủ mộ cho Hoàng Cẩm. Ti Lễ giám lại tấu xin, lệnh ba mươi người nhà Hoàng Bân vào Ngự Mã giám làm dũng sĩ.

Như vậy chỉ vì một thái giám Ti Lễ giám mà trong Cẩm Y Vệ, từ đô đốc đến các chức quan thêm bảy người, dũng sĩ Ngự Mã giám ba mươi người, còn thêm sáu người thủ mộ, ân sủng to lớn, còn hơn cả cửu khanh, các quan còn xa mới bằng, có thể nói một người được sủng ái thì gà chó cũng được lên tiên.

Còn phong thưởng của đại đương cận thị (hoạn quan cạnh hoàng đế) mặc dù không bằng, nhưng cũng không kém là mấy, chỉ trong một năm ngắn ngủi, trong Cẩm Y Vệ, Ngự Mã giám xuất hiện thêm gần nghìn quan quân, tình trạng rất lộn xộn. Việc này đương nhiên làm trong ngoài triều giận dữ, nhưng vì những phong thưởng này do hoàng đế độc đoán, không bàn bạc trên triều, cho nên đại thần có muốn cũng không xen vào được. Còn về can gián cũng có không ít Ngôn quan chỉ trích, nhưng với oán niệm của Long Khánh với họ, luôn cho rằng "Ngay cả chuyện riêng của mình mà bọn chúng cũng muốn can dự vào", cho nên Long Khánh cũng không thèm để ý.

Quả vậy, từ sau khi Cao Củng lui về, Long Khánh đối với ngoại thần ngày càng chán ghét, thậm chí cho rằng ngoại trừ Thẩm Mặc, Trương Cư Chính cùng những người theo hắn từ ngày còn là thái tử ra, còn lại đều cho hắn là kẻ xấu, cho nên hắn không chịu gặp ngoại thần, đã có đến hơn nửa năm hắn không lên triều, bỏ bê chính sự. Cả ngày ở hậu cung ngoài việc tới chỗ các cung tần thì là chơi đùa với lũ thái giám. Đằng Tường, Mạnh Xung của Ti Lễ giám luôn ra sức làm vừa ý hắn, sự việc nổi tiếng nhất chính là tái hiện lại Ngao sơn đăng của tiền triều... Tại hồ Bắc Hải dựng một đăng lâu cao mấy trượng, trên bố trí đến mấy vạn đèn lồng các loại. Sau đó hoàng đế ngồi trên hoa thuyền suốt đêm yến tiệc, như lạc vào tiên cảnh, vô cùng hài lòng.

Tuy nhiên số tiền chi ra để có sự hài lòng đó không tính nổi. Đương nhiên phần lớn đều rơi vào túi của lũ thái giám, còn lừa được Long Khánh hoàng đế tước thưởng của lục khanh. Điều này làm cho thế lực của hoạn quan ngày càng bành trướng, lợi dụng chiêu bài của hoàng đế vơ vét mỹ nữ, sai người đến các nơi đòi cống vật quý hiếm, ở kinh thành trắng trợn cướp mồ hôi nước mắt của nhân dân... Mặc dù sau đó đã bị Cao Củng nghiêm khắc trừng phạt, nhưng do được Long Khánh hoàng đế hết sức che chở, cho nên bọn chúng chẳng mảy may ảnh hưởng gì. Đến khi Từ Giai khiến Cao Củng lui về thì bọn chúng lại càng được thể không coi ai ra gì, không chỉ mở ra hoàng điếm (của hàng của vua), thu thuế mới, thậm chí được đằng chân lân đằng đầu, bắt đầu triển khai thế lực ra ngoài triều.

-o0o-

Thiệt thòi đầu tiên tất nhiên là Hộ bộ, bởi vì bọn họ luôn để mắt tới thái giám.

Thượng thư Hộ bộ Cát Thủ Lễ đến kỳ kiểm tra, phát hiện thuế khóa của vùng Thái Hòa sơn không bằng một phần mười năm ngoái. Truy ra mới biết được tiền thuế đa phần đã bị lũ giám thuế thái giám mới biển thủ mất... Mặc dù theo quy định việc xử lý tiền thuế phải do quan phủ địa phương và giám thuế thái giám cùng làm, nhưng trên thực tế mọi việc đều do trung quan (hoạn quan, quan trong triều) cố tình chiếm hết. Vì vậy thượng thư Cát Thủ Lễ mới tấu lên, chiếu theo thông lệ thời Gia Tĩnh, lệnh cho phủ, án quan chọn ra một người chuyên thu thuế ở ngoài, không cho nội thần can thiệp.

Lúc đầu hoàng đế không những không đồng ý, mà còn làm ngược lại. Cát Thủ Lễ bất đắc dĩ đành phải tấu lên:
- Thần ngu muội không thể theo lệnh, mạo phạm thiên uy, tội ác tày trời, nhưng thần làm đúng chức trách, thấy kẻ gian đục khoét không từ công quỹ, chỉ muốn thu lại tiền của cho triều đình .
Cuối cùng hoàng đế trách ông kháng chỉ, còn nhiều lần dâng tấu quấy nhiễu, vốn định bãi chức nhưng vì niệm tình ông công lao gian khổ, cho nên "chỉ" tước bổng lộc nửa năm.

Đây quả là chuyện không thể tưởng tượng nổi, với một vị quan tài chính đại thần luôn làm việc tận tụy theo chức trách thì việc yêu cầu hoạn quan giao tiền sung quỹ quốc gia là chuyện đúng đắn, sao lại bị phạm vào tội "mạo phạm thiên uy, tội ác tày trời?" Càng không tin được hơn nữa là chính vì chuyện này mà ông bị khiển trách, bị cắt bổng lộc! Quả thật không còn đạo lý, không coi quốc pháp ra gì.

Cát Thủ Lễ từ khi nhậm chức tới nay luôn vì việc chống lại hoạn quan xâm quyền, bảo vệ công quỹ mà phải chịu sự uất ức kiểu này. Hoàng đế lúc nào cũng theo ý mình che chở cho bọn thái giám, cho nên bọn chúng càng làm càn, trăm phương nghìn kế nghĩ cách chiếm đoạt quốc khố, có một lần gần đây, bọn chúng lấy lý do phải thay đổi trang phục cho hoàng đế, thái tử, quý phi, mà tiền trong cung không đủ, nên mang trát tới đòi Hộ bộ phải chi ra hai mươi vạn lượng.

Cát Thủ Lễ đương nhiên là không đồng ý, ông lấy lý do trát không có ấn, không có ký tên, làm sao biết thật giả để từ chối, còn nói giữ quốc khố là nhiệm vụ mà hoàng đế trao cho Hộ bộ, nếu lần này đưa tiền thì sẽ tạo tiền lệ xấu cho lần sau. Nhưng hoàng đế lại nghe lời xúi giục của thái giám, không những không tuyên dương đại thần tận tâm, ngược lại còn tức giận hạ chỉ trách cứ, phạt bổng lộc nửa năm, còn tiếp tục lấy tiền trong quốc khố ra dùng.

Mặc dù Cát Thủ Lễ đến giờ vẫn chưa từ chức, nhưng đã lao lực quá độ, mấy ngày liền ốm đau nằm nhà, chẳng qua là cố gắng kéo dài mà thôi.

Còn tình cảnh của Công bộ thượng thư Lôi Lễ cũng không khá hơn là mấy, ông vốn tưởng rằng năm nay dừng việc tạo hành cung, thì dự toán Công bộ hẳn là sẽ rất dư dả, ai ngờ gặp phải đầu lĩnh Đằng Tường của lũ hoạn quan, hắn xen vào công việc của ông ở khắp mọi nơi, nói láo vu khống, cản trở mọi chuyện làm ông khó mà tiếp tục, khổ không nói nổi thành lời. Như việc Đằng Tường lấy việc tạo thụ quỹ (tủ kệ), mua sắm tất giao(sơn, keo dán), tu bổ thất đàn nhạc khí mà tăng thêm người, gây lãng phí rất nhiều; còn ở nhà xưởng có một cây gỗ lớn, chu vi hơn một trượng bốn xích, trị giá nghìn vàng, nhưng trong cung lại muốn dựng xưởng làm ngự khí (đồ sứ dùng trong cung), nên đã cho chặt sạch, tiêu phí vô cùng. Lôi Lễ không đủ sức làm chủ, còn bị nội quan làm nhục, nhưng cũng chỉ đành phẫn uất nuốt nước mắt mà thôi.

Lôi Lễ không cam lòng mới viết sớ trần tình, mang mọi chuyện bẩm báo lên hoàng đế, cũng nói "Trung quan lộng quyền, sự tình không phải như thế, nếu như lưu thần một ngày thì thêm chuyện một ngày, xin sớm cho thần lui về để bảo toàn toàn quốc thể", có ý không thể có chuyện cả hai cùng tồn tại. Ông chỉ muốn cảnh tỉnh hoàng đế, nên quản giáo chặt chẽ với Đằng Tường, không cho hắn can thiệp vào Bộ vụ, nhưng ai ngờ sự thực ngược lại, trên đọc xong thấy phật lòng nên muốn cho ông về quê. Nếu không có Từ Giai cực lực giúp đỡ, nói rằng chỉ là vài câu bực tức vì chức quyền bị chia sẻ, thì thật sự đã mất mũ ô sa rồi.

Những chuyện như vậy còn rất nhiều, đại thần mà tranh chấp cùng hoạn quan chưa bao giờ thắng được, lúc nào phần thua thiệt cũng thuộc về các đại thần, các quan viên khác nhiều người cũng bị giáng chức chỉ vì buộc tội hoạn quan.

Hoạn quan lòng tham không đáy, ngang ngược hoành hành, quyền thế ngày càng lớn, từ thời Gia Tĩnh trước nay chưa từng có, hiện tại cánh tay của bọn chúng cũng đã vươn tới quân sự và chính trị rồi.

Ngồi ở trong kiệu Thẩm Mặc không khỏi cười nhạt liên tục, xem ra hổ không ra uy thì chúng tưởng ta là mèo bệnh chắc.

-o0o-

Quả nhiên không tới mấy ngày, thấy Thành quốc công còn chưa có động tĩnh gì, bọn thái giám liền xúi giục hoàng đế hạ một đạo chỉ xuống nội các.

Hôm đó Thẩm Mặc cũng có mặt ở đó, sau khi Từ Giai xem xong liền đưa chỉ dụ cho y, Thẩm Mặc vừa xem qua liền thấy trên đó ghi "Đằng Tường tứ Vệ vẫn thuộc Ngự Mã giám, phái thêm thái giám Lữ Dụng, Cao Tương, Đào Kim vào đoàn doanh". Quả nhiên là đã bắt đầu, lòng tham cũng thật không nhỏ.
(Sau biến Thổ Mộc Bảo, kinh quân tam đại doanh (ngũ quân, tam thiên, thần cơ) tổn thất gần hết, Cảnh Thái Trung, Vu Khiêm bèn lựa chọn từ trong tam đại doanh ra mười vạn tinh binh, chia làm mười doanh tập trung thao luyện, gọi là đoàn doanh)

- Làm sao bây giờ?
Từ Giai nhìn Thẩm Mặc, trong ánh mắt lại có chút hả hê. Hắn vẫn cho rằng mới đây Thẩm Mặc hành động quá lớn, cuối cùng cũng gọi sói tới rồi. Cho nên mới nói, thanh niên à, ngươi còn chưa trưởng thành đâu... Có điều so với Trương Cư Chính của Hộ bộ thì khác, Từ Giai ủng hộ Thẩm Mặc làm như vậy bởi vì Cao Củng, Quách Phác lần lượt từ chức, khiến cho danh tiếng bản thân bị hao tổn nghiêm trọng, Từ Giai mau chóng phải có hành động để dời đi sự chú ý.

- Tất cả nghe sư tương làm chủ.
Thẩm Mặc mặc dù đã sớm chuẩn bị tâm lý, nhưng nhìn ngự bút đang mở ra vẫn thấy trong lòng lửa bùng lên từng đợt.
(sư tương: cách gọi kính trọng với tể tướng)

- Cấm quân từ trước đến nay lệ thuộc Ngự Mã giám, Binh bộ chẳng qua là quản lý thay. Kinh doanh cũng có truyền thống có thái giám làm giám quân, là từ thời tiên đế mới sửa lại.
Từ Giai cũng không có nhiều hứng thú, liền chậm rãi nói:
- Cho nên đạo ý chỉ này của hoàng thượng muốn sửa đổi rất khó.
(kinh doanh: tên gọi khác của tam đại doanh)

- Như vậy...
Thẩm Mặc nhíu mày:
- Sư tương đồng ý cho hoạn quan chấp chưởng lại quân quyền sao?

- Không...
Khi đứng trước một vấn đề nghiêm trọng, Từ Giai cũng trở nên nghiêm túc:
- Sao có thể để loạn Chính Đức tái hiện?

- Vậy phải làm sao?
Thẩm Mặc hỏi.

- Ngươi là người quản lý việc quân, chuyện này giao cho ngươi lo liệu đi.
Nhưng giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, Từ Giai trôi chảy nói:
- Thái độ của ngươi chính là thái độ của nội các.

Vốn Thẩm Mặc cũng không trông chờ vào việc Từ Giai có thể đứng ra, gần đây quan hệ của ông ta cùng hoàng thượng đã có nhiều rạn nứt, Long Khánh giống như con lừa cứng cổ không chịu nghe lời, làm cho Từ các lão có phần hao tổn tinh thần. Từ Giai đã không mong chờ vào một minh quân như Nghiêu Thuấn nữa, trên không thượng triều, trên triều không bàn chính sự đều không có gì đáng kể nữa, đại thần ai làm cứ làm, ai chơi cứ chơi.

Tháng này theo lệ hoàng thượng tế tự Thái miếu, loại tế tự tổ tông này chính là quốc điển to lớn, ai cũng không được vắng mặt. Thế nhưng chính hoàng đế lại lệnh cho Thành quốc công Chu Hi Trung thay mặt. Lễ bộ thượng thư Triệu Trinh Cát thấy vậy liền mời hoàng đế đích thân tới, nhưng Long Khánh không đồng ý. Vì vậy Từ Giai đành phải tấu lên: "Nghi thức tế lễ, quốc gia đại điển. Hoàng thượng nhất định phải trai giới, sau đó để tỏ lòng thành với liệt tổ liệt tông, hoàng thượng cũng cần phải tự mình hiếu kính, tự mình ngưỡng bái. Hơn nữa từ trong cung tới miếu đường cũng không xa, hoàng thượng cũng biết, không lễ không phồn. Đàn ông lấy tổ tông làm trọng, dù có vất vả đi nữa thì cũng không được trốn tránh, huống hồ việc này vất vả lắm ư? Kính mong hoàng thượng tới Thái miếu hành lễ".

Tấu chương của Từ Giai sau khi công bố, trong triều không biết nên khóc hay cười, đâu không phải là thần tử tấu mời hoàng đế nữa, mà rõ ràng là giống với giọng điệu của người cha khuyên con, nói rõ lí lẽ, khuyên răn, thúc giục đều đủ cả. Long Khánh hoàng đế bất đắc dĩ mới làm theo. Thế nhưng miễn cưỡng cũng chỉ một lần, sau này vẫn là không tự mình tới miếu tự, khuyên như thế nào cũng vô ích. Đây là sự lười biếng hay còn có ẩn tình nào, thì người thường không ai biết được.

Nhưng Từ Giai có thể lý giải, đây là sự cảnh báo của hoàng đế đối với mình, trong lòng sinh ra tâm lý trái ngược, có thể nắm quốc gia đại sự hay chỉ ngồi chơi? Từ Giai cũng có chút nản lòng, với thái độ gần đây của hoàng đế thì hắn không cần biết chuyện ầm ĩ hoang đường đến đâu, chỉ cần ông không can thiệp vào quốc chính là hắn mặc kệ.

Nhưng quân chính đại sự nào phải trò đùa, Cho nên Từ Giai vừa bắt đầu đã tỏ rõ thái độ, có điều vì không muốn xảy ra xung đột với hoàng đế, cho nên mới để cho Thẩm Mặc tới xử lý. Đương nhiên để cho Thẩm Mặc an tâm thì ông ta vẫn đồng ý, nếu xảy ra tình huống xấu nhất thì sẽ dùng phong bác quyền với đạo chỉ còn phong ấn của hoàng đế... Nhưng tốt nhất là không xảy ra tình huống này, nếu không thì quan hệ với hoàng đế sẽ hoàn toàn đổ vỡ.
(phong bác quyền: với những chiếu thư sau khi đã ban ra nhưng chưa gỡ niêm phong, thì phong bác quyền chính là quyền thay đổi nội dung hoặc thay bằng chiếu thư khác)

Sau khi biết rõ thái độ của Từ Giai, Thẩm Mặc liền làm rõ trách nhiệm. Kỳ thật với quan hệ của y cùng hoàng đế, nếu như là chuyện khác thì chỉ cần tự thân đi tiếp kiến là được. Nhưng chuyện này quan hệ đến quyền khống chế cấm quân, kinh doanh, thần tử như y làm sao mở miệng? Nói lung tung không khéo sẽ chuốc họa vào thân... Cho dù Long Khánh có tín nhiệm y một lần nữa, cũng sẽ không chịu nổi bọn thái giám ngày ngày léo nhéo bên tai, cố sự ba người thành cọp cũng không phải chỉ là chuyện nói cho vui.

Cho nên y phải có sắp đặt, từ từ mưu tính. Ngày hôm sau, Binh Bộ Thị Lang Đàm Luân liền dâng tấu phản đối:
- Kinh quân doanh chế đã được tiên đế quyết định, thay đổi đoàn doanh, cố gắng khôi phục lại tam đại doanh thời nhị tổ, quan viên có số người quy định, không cần nội thị, điều này muôn đời không được thay đổi, di huấn rất rõ ràng. Nay muốn thay đổi là không được.

Long Khánh rất nhanh đã trả lời: "Trẫm xem [Đại Minh hội điển], có chế độ nội thần giám doanh, y lệnh lần trước mà làm".

Lúc này có Binh khoa Cấp sự trung Thạch Tinh nói đỡ: "Việc bố trí trung quan mặc dù từ xua không cấm, nhưng hầu như không thích hợp, lại còn gây rắc rối. Như đám người Vương Chấn, Uông Trực, Tào Cát Tường, Lưu Cẩn, Trần Hồng, tự tiện quyền uy, can thiệp triều chính, khai xưởng sản xuất, tàn sát vô tội, chèn ép binh quyền, phá hoại biên cảnh, mưu đồ gây rối, hãm hại trung lương, xúi giục bè cánh, xưng công tụng đức, quốc sự bỏ bê, rất nhanh lụn bại, cho nên phải hết sức cảnh giác, lấy đó làm gương. Cố tiên đế hết sức xoá trung quan giám quân, thu quân quyền với Binh bộ, cũng quyết định nội quan cùng nha môn phụ trách, pháp chế anh minh. Đây là tiên đế thánh huấn, cúi xin hoàng thượng minh giám"

Lời này đã đánh trúng lòng người, nhưng bọn thái giám nói với hoàng đế: "Đây rõ ràng là sự thoái thác của triều đình, quân quyền kinh sư đương nhiên phải ở trong tay bệ hạ mới an tâm, nay chẳng qua chỉ phái cận thị làm giám quân mà đã ra sức khước từ, như vậy trong lòng ra sao? Rất mong bệ hạ suy nghĩ."

Hoàng đế nghe vậy quả nhiên bị lừa, trong cơn giận dữ sai Cẩm Y Vệ bắt Thạch Tinh lại, mang ra ngọ môn đánh cho tám mươi trượng.

Tử Cấm thành, bên ngoài ngọ môn.

Thạch Tinh bị gỡ mũ xuống, đang đứng trên thanh thạch bản giữa lối đi.
(thanh thạch bản: tên một loại đá)

Bốn chiếc đình trượng xung quanh bốn phía, chia ra hai bên người hắn, người cầm đội mũ nhọn, giày trắng, mặc áo đen bó chặt, chính là phiên tử của Đông Xưởng. Hai bên cách đó không xa còn có hai hàng Cẩm Y Vệ cầm đao cảnh giới.
(đình trượng: gậy dùng để đánh quan lại trên cung điện)
(phiên tử: sai dịch truy bắt tội nhân)

Người giám sát chính là Đông Xưởng thái giám Vương Bản, hắn có lông mày hình chữ bát rất buồn cười, hắn thấy có nhiều người như vậy thì trong lòng hưng phấn, vẻ mặt càng thêm âm trầm nhìn Thạch Tinh nói:
- Phụng chỉ hỏi ngươi, là ai sai ngươi dâng đạo sớ này lên?

- Ta là Binh khoa Cấp sự trung, nói lời ngay chính là chức trách của ta.
Thạch Tinh không thèm nhìn hắn, mà ánh mắt nhìn thẳng về phía trước, nhìn sâu vào cung điện âm trầm.

- Hừ!
Vương Bản hừ lạnh một tiếng, nói:
- Vi phạm quy củ tổ tông, cũng là bổn phận sao?

- Ngươi cũng xứng nói chuyện quy củ của tổ tông với ta sao?
Thạch Tinh nhẹ nắm lấy ống tay áo, lạnh lùng nói:
- Các ngươi cho rằng ẩn núp dưới thiết bài của Thái tổ hoàng đế, mà quên đi tổ huấn "Hoạn quan không được tham gia vào chính sự" sao?

- Ngươi...
Hai mắt Vương Bản tỏa sát khí, nói:
- Muốn tìm chết sao?

- Ha ha ha...
Thạch Tinh đã biết bản thân chết chắc... Tám mươi đình trượng nếu như đánh hết, chắc chắn không còn đường sống. Lòng nghĩ đằng nào cũng chết, bèn lớn tiếng nói:
- Đại trượng phu trên đời, xả thân vì nghĩa, chết có làm sao?
Nói rồi cười nhạo:
- Đúng rồi, quên mất ngươi không phải là đại trượng phu, nói với ngươi những lời này có ích gì?

- Ngươi cứ cười đi.
Vương Bản không tức mà lại cười nói:
- Ta muốn xem xem lát nữa ngươi còn cười được hay không.
Nói rồi vung phất trần chỉ bạc (phất trần có sợi trắng như cước) nói:
- Hành hình.

Bốn tên phiên tử Đông Xưởng lập tức động thủ, hai chiếc đình trượng xỏ qua nách, còn hai chiếc khác đánh mạnh vào khuỷu chân khiến cho Thạch Tinh phải quỳ xuống, hai chiếc phía trước lại tiếp tục đè, làm cho toàn bộ cơ thể hắn bị ép nằm lên phiến đá ngoài ngọ môn, khiến hắn đau đến xây xẩm cả mặt mày. Lúc này bốn tên phiên tử mỗi tên dùng chân lần lượt giẫm lên hai mu bàn tay, bàn chân của hắn, bắt hắn nằm thành hình chữ đại.

Vương Bản nhìn hắn, nhưng vẫn chưa ra hiệu đánh mà từ từ ngồi xuống, dùng ngón tay gạt những sợi tóc tán loạn trên trán hắn, nói nhỏ chỉ đủ cho hai người nghe:
- Hôm nay là tết trung thu, người nhà của ngươi đang đợi ngươi về đoàn tụ. Sửa lại đi, nhận sai với hoàng thượng, vạn tuế gia nhân từ có thể đặc xá cho ngươi.
Kỳ thật cũng không phải Vương Bản muốn kéo dài vậy, mà là Long Khánh hoàng đế luôn do dự, chỉ là một tên tiểu thần mà thôi, đánh thì đánh, không đánh thì thôi, cứ lề mề khiến người khác buồn bực.

- Lời này... là hoàng thượng bảo ngươi nói?
Thạch Tinh chậm rãi ngẩng đầu lên, ánh mắt quái dị nhìn Vương Bản.

- Phải, không thì ngươi nghĩ ta sẽ phí lời với ngươi chắc?
Vương Bản khinh miệt liếc nhìn hắn.

- Ta đây cũng có lời để ngươi chuyển tới hoàng đế.
Thạch Tinh dùng hết sức còn lại ngẩng đầu lên, lớn tiếng nói:
- Ngươi đi hỏi hoàng thượng, rằng người đã quên lời hứa của mình lúc đăng cơ rồi ư? Vì sao mới đăng cơ có nửa năm đã sa vào ăn chơi, bỏ bê triều chính, tấu chương không đọc... Nội thần thì tác quái nhúng tay vào Bộ vụ không coi ai ra gì, cứ thế thiên hạ ai cứu nổi đây...

- Câm miệng!
Vương Bản bị hắn nói cho đờ ra, lập tức dùng tay bịt miệng hắn, không ngờ lại bị Thạch Tinh cắn cho một phát, đau đến nỗi phải gào to lên.

Cẩm Y Vệ vội vàng bước đến đánh một chưởng vào gáy Thạch Tinh, lúc này mới khiến hắn nhả miệng ra. Vương thái giám ôm bàn tay phải đã bị cắn nát đứng dậy, giậm chân oán độc nói:
- Đánh, đánh chết hắn.

"Bịch!"
Đình trượng đánh mạnh vào lưng Thạch Tinh, âm thanh nặng nề đập vào da thịt từ ngọ môn lan truyền đi rất xa.

-o0o-

Trên Ngũ Phượng lâu có hai thái giám quần áo đỏ thẫm đang hả hê khi nhìn cuộc hành hình, thỉnh thoảng còn im lặng lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Thạch Tinh.

Máu của Thạch Tinh theo từng trượng đánh xuống mà thấm ra ngoài y phục, cuối cùng hắn cũng không nhịn được mà kêu lên thảm thiết. Tiếng kêu thê thảm truyền đi khắp lục khoa, khiến cho mỗi khoa trưởng của lục khoa đang ngồi trong trị phòng Ngôn quan các, phải đứng dậy mà đi ra xem. Tất cả từ nơi làm việc chạy tới trước ngọ môn, chỉ một lát đã vây kín nơi hành hình.

Cẩm Y Vệ vội xếp thành hàng bảo vệ, cảnh giác nhìn những Ngôn quan đang phẫn nộ này.

- Muốn làm gì?
Vương Bản mạnh miệng nói:
- Các ngươi muốn tạo phản sao?

- Ngươi đánh chết Thạch Tinh khiến cho hoàng thượng phải mang trên lưng tội danh giết gián thần, sử sách sẽ ghi nhớ kỹ chuyện này.
Ngôn quan Mục Văn Hi là đồng hương của Thạch Tinh, thấy hắn bị đánh đến nỗi máu thịt mơ hồ thì trong lòng khẩn trương, lại không biết làm sao để vào bên trong, đành chỉ vào Vương Bản lớn tiếng nói.

Nghe xong lời này sắc mặt Vương Bản liền biến đổi, mấy tên phiên tử đang hành hình cũng chậm lại.

Mấy người trên Ngũ Phượng lâu cũng khẩn trương lên, hậu quả này quả thật rất nghiêm trọng.

Thừa dịp lúc bọn chúng còn đang ngây ra, Mục Văn Hi lao tới chắn trước người Thạch Tinh nói:
- Không thể đánh nữa, đánh nữa sẽ chết người.

Vương Bản sai người định lôi hắn ra, nhưng hắn là người có có công phu nên mặc cho ba, bốn người kéo chân tay, hắn cũng không hề suy chuyển. Lúc này các Ngôn quan còn lại cũng muốn tiến lên hỗ trợ, bị Cẩm Y Vệ vội vàng ngăn cản, hai bên xô đẩy lẫn nhau, chẳng mấy chốc mà trở nên hỗn loạn, tiếng gào thét chửi bới, còn có tiếng chói tai đặc thù của thái giám, vang lên trên bầu trời Tử Cấm thành.

- Các ngươi đang làm gì vậy?
Một tiếng thét uy nghiêm vang lên, làm cho hai bên đang xô đẩy cũng phải dừng lại. Nhìn ra mới thấy nội các thứ phụ Lý Xuân Phương cùng Đại học sĩ Thẩm Mặc đang từ cực môn (cửa chính) đi tới. Người lên tiếng chính là Thẩm các lão Thẩm Mặc:
- Dám ẩu đả tại cấm địa đại nội, muốn tạo phản sao?
(thứ phụ: phụ giúp Đại học sĩ, kiểu phó Đại học sĩ)

Ánh mắt uy nghiêm của y nhìn tới đâu, thì bất kể là quan viên hay thái giám đều phải ngoan ngoãn cúi đầu. Vương Bản còn liếc đôi mắt tam giác, cố sức nhìn lên Ngũ Phượng lâu, nhưng đại thái giám trên lâu khi nhìn thấy hai người xuất hiện thì đã vội vã lui đi, chỉ sợ bị phát hiện, nào còn hơi đâu mà quản chuyện phía dưới nữa.

Thẩm Mặc đi tới trước ngọ môn, ánh mắt lạnh lùng nhìn qua tất cả mọi người, thấy một quan viên không đội mũ, thân hình tàn tạ, bộ dạng vô cùng khổ sở thì hừ lạnh nói:
- Còn ra cái thể thống gì?
Sau đó ánh mắt nhìn vào Cẩm Y Vệ đang đứng thành một vòng nói:
- Mau tránh ra.

Cẩm Y Vệ không tự chủ được liền mau chóng lui ra, tạo thành lối đi cho Lý Xuân Phương cùng Thẩm Mặc đi vào. Các quan viên khác muốn đi theo nhưng lập tức bị ngăn lại.

Nhận ra người bị đánh tàn tạ là Thạch Tinh, mặt Thẩm Mặc như sương lạnh nhìn Vương Bản nói:
- Ai cho ngươi đánh người này thành như vậy?

- Cái này...
Vương thái giám nuốt nước bọt:
- Đương nhiên là hoàng thượng cho phép.

- Vậy đưa đây.
Thẩm Mặc đưa tay ra.

- Đưa... cái gì?
Ánh mắt Vương thái giám lóe lên.

- Chỉ dụ.
Thẩm Mặc gằn từng chữ:
- Ta làm sao biết ngươi y mệnh hành sự hay là giả truyền thánh chỉ.
Câu vừa hỏi cũng không phải cho vui, vì hoàng đế ở sâu trong cấm cung không tiếp xúc với ngoại thần, cho nên một số hoạn quan to gan lớn mật dám mượn danh nghĩa của hoàng đế để mưu lợi riêng, việc này cũng chẳng lạ gì, như việc Đằng Tường hãm hại Lôi Lễ vậy.

- Không... có.
Vương thái giám run giọng nói:
- Hoàng thượng truyền chính là khẩu dụ.

- Hừ.
Thẩm Mặc hừ lạnh một tiếng, Vương Bản tức thì phát run, trời tuy cuối thu mà toàn thân lại phát ra mồ hôi hột.

Đại thái giám trên Ngũ Phượng lâu cũng cuống cả lên, Đằng Tường trừng mắt nhìn Mạnh Xung nói nhỏ từng chữ:
- Ngươi nghĩ ra ý nghĩ thiu thối, giờ phải làm sao bây giờ?

- Sẽ không có chuyện gì đâu.
Mạnh Xung khẩn trương xoa xoa mũi nói:
- Dù sao thì hoàng thượng cũng đã biết rồi.

- Đấy chỉ là ngươi tự suy ra từ ý hoàng thượng.
Đằng Tường gầm nhẹ nói:
- Giờ làm sao mà giải quyết?

Trong lòng Mạnh Xung cũng đang loạn cả lên, vừa thò đầu ra nhìn thì đột nhiên mừng rỡ:
- Ơ, họ Thẩm không thấy đâu nữa, có phải hắn đi tiểu rồi không?

- Đồ con lợn, ta không nghe ngươi nói nữa.
Đằng Tường nói xong cũng ngó đầu ra nhìn, lập tức mở miệng mắng:
- Chắc chắn hắn đi tìm hoàng thượng đối chất rồi.
Nói xong vội vàng bật người lên chạy về phía cầu thang.

- Ngươi định đi đâu?
Mạnh Xung ở phía sau hỏi với theo.

- Cho ngươi chùi đít...
Bóng hình Đằng Tường đã biến mất.

- Còn không phải là ngươi muốn trị hắn à.
Mạnh Xung bĩu môi, cũng đi theo xuống lầu.
- Sao giờ đổ hết cho ta vậy.

Đằng Tường vội vã chạy tới cổng thành, không để ý đụng phải hai quan văn trẻ tuổi ngã lăn ra, trong đó có một người đang bưng gì đó bị rơi ra, vừa lúc đập trúng gáy hắn.

- Không có mắt à.
Thái giám tuỳ tùng của Đằng Tường lúc này mới chạy tới, thấy vậy chửi ầm lên.

Đằng Tường ngửi thấy có mùi mặn mặn, không nhịn được mà thè lưỡi liếm một cái, đúng là nước tương thái (dưa góp) Lục Tất Cư mà hắn rất thích. Nhưng khi hắn cảm nhận được nước chảy theo cổ xuống bụng thì nhất thời hóa đá tại chỗ.
(Lục Tất Cư: tên một cửa hàng thời Minh)

- Ai ô, đây chẳng phải là Đằng công công sao? Thực sự xin lỗi, xin lỗi.
Hai quan viên vừa xin lỗi vừa lau cho hắn, chỉ là càng lau càng lem nhem, đến nỗi hắn không dám gặp người khác nữa.
- Các lão làm việc đến giờ vẫn còn chưa ăn điểm tâm, chúng tôi xuống phòng ăn của lục khoa lang mang một ít tương thái để cho ông ấy dùng.

Đằng Tường vừa nhìn thấy hai người liền nhận ra, đều là người thỉnh thoảng lui tới nội các Ti trực lang của ti Lễ giám, một người gọi là Thân Thì Hành, một người là Dư Hữu Đinh, đều là người rất có tiền đồ, không nên tùy tiện đắc tội.

Đằng Tường ngơ ngác đứng đó mà không giận nổi, dù sao cũng là hắn đụng vào người ta, cởi chiếc mũ đang chảy nước xuống phiền muộn nói:
- Quên đi.
Trong lòng tự thấy mình xúi quẩy.

Nhưng hai người lại kéo hắn đi về phía cực môn:
- Công công mau tới Văn Uyên các tắm rửa đi.

- Không cần phiền như vậy.
Đằng Tường nhìn phía xa đã không thấy hình dáng Thẩm Mặc, bèn nói:
- Ta về ti Lễ giám tắm rửa là được rồi.

- Vậy sao có thể được chứ.
Hai người nhiệt tình nói:
- Các lão mà biết thì sẽ trách tội chúng tôi mất.

- Ta đang có việc gấp.
Đằng Tường muốn giằng thoát ra, lại bị hai người kéo lấy. Cuối cùng tức giận thét lên:
- Ta thật đang có việc gấp, các ngươi đừng làm phiền nữa.
Vẻ mặt lúc này quả thật như nước tương thái, không còn nể nang gì nữa.

Hai người lúc này mới ngượng ngùng buông tay ra, áy náy nói:
- Ngài sẽ không giận chúng tôi chứ?

- Sẽ không.
Đằng Tường chỉnh lại cái mũ ô sa bị lệch, thét lớn:
- Đừng tới đây.
Sau đó được thái giám tuỳ tùng dìu đỡ cùng với Mạnh Xung chạy đi, giống như một lũ đang chạy trốn vậy.

Nhìn bóng lưng bọn chúng, Thân Thì Hành cùng Dư Hữu Đinh nhìn nhau cười, cảm giác thật là sung sướng.

Sau khi bị hai người cản lại, Đằng Tường cuối cùng cũng không đuổi được Thẩm Mặc, mà với hình dạng này cũng không đi được Càn Thanh cung, đành phải gọi Mạnh Xung vội vàng đi tìm Phùng Bảo nghĩ cách.

Mạnh Xung tới tìm nhưng không gặp Phùng Bảo, hỏi ra mới biết hắn đang hầu hạ trong cung. Mạnh Xung trong lòng nóng như lửa đốt, luôn mồm lẩm bẩm phải làm sao bây giờ?

Trong đại điện, Long Khánh hoàng đế thấy Thẩm Mặc đến thì vô cùng vui thích, đến nỗi tự mình đứng dậy nói:
- Hôm nay thế nào mà lại rảnh rỗi đến đây, mau bồi trẫm chơi cờ.
Phùng Bảo liền vội vàng đi chuẩn bàn cờ.

Thẩm Mặc mặc kệ Phùng Bảo đi, vẻ mặt lo lắng nói với hoàng đế:
- Bệ hạ, ngoài ngọ môn đang đình trượng đại thần, bệ hạ có biết không?

Quả nhiên không ngoài dự đoán, Long Khánh ngơ ngác quay sang nhìn Phùng Bảo hỏi:
- Đình trượng cái gì?

Phùng Bảo nghe xong liền biết chuyện này đến tám phần mười là có liên quan đến hai tên phế vật kia, nhưng lúc này sao lại đi rước họa vào thân, bèn cẩn thận cười nói:
- Nô tài cũng không biết, để nô tài cho người đi hỏi.

Thừa dịp này Thẩm Mặc mang chuyện vừa thấy nói cho Long Khánh nghe, vẻ mặt lo lắng nói:
- Ngôn quan nói không sai, nếu như thánh thượng giết gián thần thì tội danh này sẽ được lưu lại trong sử sách.

Trên mặt Long Khánh âm trầm như nước, hắn cuối cùng cũng nhớ ra được là chuyện gì.

Chẳng mấy chốc, tiểu thái giám dẫn theo Mạnh Xung đi vào, hoàng đế hỏi hắn mấy câu, Mạnh Xung theo lời Đằng Tường quỳ xuống đáp:
- Bọn họ vốn cũng chỉ theo lời thánh thượng muốn hù dọa hắn, nào ngờ tên Thạch Tinh nói lời xằng bậy, nhục mạ thánh thượng. Bọn Vương Bản nhất thời xúc động nên mới dạy hắn một bài học.

Sắc mặt Long Khánh có vẻ bớt giận, nhưng khẩu khí vẫn gượng gạo nói:
- Không phải đã dặn các ngươi, không được làm hại tính mệnh hắn sao?

- Bệ hạ thứ tội, chúng nô tài cũng chỉ là trung tâm hộ chủ, nghe lời nhục mạ hoàng thượng của hắn mà không chịu nổi.
Mạnh Xung vừa nói vừa khóc nức nở.

- Trước tiên mau lăn đi, ta sẽ giáo huấn ngươi sau.
Long Khánh không nhịn được quát một câu, nhưng kẻ ngu cũng nhìn ra là hắn đang bao che cho bọn chúng.

Thẩm Mặc âm trầm nhìn Mạnh Xung lui ra, cũng không nói thêm gì.

Sau khi sai Phùng Bảo đi thả Thạch Tinh, Long Khánh kéo Thẩm Mặc đến cạnh bàn cờ nói:
- Hôm nay tới đây không chiến ba trăm hiệp thì đừng mong trở về.

Thẩm Mặc cười khổ ngồi xuống, Long Khánh mặc dù cũng biết một chút cờ vây, nhưng lại thích cờ tướng hơn, Thẩm Mặc cũng chỉ có thể phụng bồi. Hai người bày trận trên bàn cờ đấu nhau qua lại, thế cờ lúc nhanh lúc chậm, biến hóa vô cùng, mỗi người đã thắng một ván, đánh đến nỗi Long Khánh sung sướng lâm ly mà hô to lên.

Thấy trời thoáng cái đã đến trưa, mà buổi chiều Thẩm Mặc còn phải tới Binh bộ, cho nên hai người bèn hẹn nhau trận thứ ba này quyết phân thắng bại. Vì thế ván thứ ba này tốc độ chậm lại, hai bên đều đi quân rất cẩn thận. Cứ thế đến khi tàn cục, Thẩm Mặc bị Long Khánh dùng xe dọa bắt một lúc cả pháo lẫn sĩ, tình thế lúc này đương nhiên là sẽ phải mất một quân. Theo lẽ thường thì sĩ sẽ là quân bị vứt bỏ.

Nhưng sau một hồi suy nghĩ, Thẩm Mặc đã đánh một nước ngoài ý muốn của Long Khánh là bỏ pháo giữ sĩ... Hại Long Khánh suy tư hồi lâu, sợ rằng còn có âm mưu nào đó, cuối cùng nghĩ trước nghĩ sau, nghĩ đi nghĩ lại mới ăn con pháo trong lo sợ. Kết quả vốn thế cờ đang ngang nhau, nhưng Thẩm Mặc sau nước cờ dở này mà bị lâm vào bị động, mặc dù cố gắng chống đỡ khổ sở nhưng kết quả vẫn bị thất bại.

Ba thắng hai, Long Khánh hoàng đế cuối cùng cũng giành được thắng lợi, nhưng hưng phấn chưa hết, hắn còn yêu cầu phải phục bàn. Thẩm Mặc vẻ mặt ảo não đành phải đi quân lại lần nữa, còn phải chịu đựng Long Khánh luôn mồm tự khen.
(phục bàn: thuật ngữ cờ tướng, ghi lại các nước đã đánh trong ván cờ để làm lưu giữ)

Lúc phục bàn đến chỗ bỏ pháo giữ sĩ kia, Long Khánh hiếu kỳ hỏi:
- Rốt cuộc là ngươi mưu tính gì?

- Ôi, vi thần phạm vào sai lầm nhiệm nhân duy thân.
Thẩm Mặc thở dài nói:
- Vì cảm thấy quân sĩ là cận thần, so với pháo thì sẽ đắc lực hơn, nhưng kết quả cho thấy thần đã sai rồi, quân sĩ chưa từng ra khỏi soái doanh, nên không có tác dụng gì lớn.
(nhiệm nhân duy thân: dùng người không khách quan)

Long Khánh thoạt đầu còn cười, nhưng nghe xong sắc mặt liền ngưng trọng, hắn đương nhiên có thể hiểu, Thẩm Mặc đang mượn chuyện chơi cờ để khéo léo phê bình hắn, đã quá mức thiên vị thái giám mà không coi trọng đến các đại thần.

Thấy hoàng đế cũng hiểu ra, Thẩm Mặc lập tức nói ngay cho nóng:
- Chơi cờ và trị quốc cũng cùng một đạo lý, nên lựa chọn người tài chứ không nên chỉ lựa chọn người thân tín.
Dừng lại một chút, y nói tiếp với giọng trầm trầm:
- Một năm qua bệ hạ thiên vị nội thần, khiến cho bọn họ trong lòng sinh kiêu ngạo, khinh thường bách quan, ức hiếp bách tính, gây thị phi náo loạn kinh thành, người ngã ngựa đổ... Thậm chí bọn chúng còn vi phạm tổ huấn, ngang nhiên can dự vào lục bộ, hiện nay Hộ bộ, Công bộ, Binh bộ đều đã bị bọn chúng nhúng tay vào, đường đường là cửu khanh thượng thư, mà đâu với lũ hoạn quan nho nhỏ đều bị thua thiệt, sao không khiến cho lòng người giá lạnh?

- Cứ như thế các quan viên có lẽ sẽ không giữ vững bổn phận, mà lựa chon quy thuận thái giám, đến lúc đó không khí trong triều sẽ càng ngày càng tệ, thậm chí có thể xảy ra tình cảnh như thời Anh Tông, Võ Tông.
Thẩm Mặc thành khẩn nói:
- Hoàng thượng cũng đọc qua hai mươi mốt sử, thấy các triều đại từ thượng cổ đến nay, có hoàng đế nào dựa vào thái giám mà an bang trị quốc được chứ? Ngược lại, mỗi khi thái giám chuyên quyền, chính là thời khắc tối nguy nan của quốc gia - Triệu Cao thời Tần giả mạo chỉ dụ bức sát thái tử Đan, chỉ hươu bảo ngựa khống chế Tần nhị thế, Hán triều do Trương Nhượng cầm đầu Thập thường thị, đổi trắng thay đen, diệt trừ đối lập, bịa đặt tội danh mưu sát triều thần, khiến cho vua và bề tôi lục đục, cuối cùng làm vương triều nhà Hán độc chiếm thiên hạ năm trăm năm bị suy vong.
(Thập thường thị: chỉ mười hai tên hoạn quan làm loạn thời Đông Hán: Trương Nhượng, Triệu Trung, Hạ Uẩn, Quách Thắng, Tôn Chương, Tất Lam, Lật Tung, Đoạn Khuê, Cao Vọng, Trương Cung, Hàn Khôi, Tống Điển)

- Giai đoạn cuối Đường triều đều có hoạn quan chuyên quyền, một lũ hoạn quan bức cung thí đế, chuyên quyền hoành hành, không chuyện ác nào không làm. Từ khi Lý phụ quốc ức hiếp hoàng thượng, liền đó xuất hiện bức cung thí đế Câu Văn Trân cùng Vương Thủ Trừng, còn tên Cừu Sĩ Lương trải qua sáu đời hoàng đế, tên Điền Lệnh Tư cùng Dương Phục Cung còn tự xưng hoàng đế chi "phụ", còn đám người Lưu Quý Thuật, tất cả đều lưu rõ trong sử sách, là một đoạn huyết sử của hoàng gia Lý Đường.

- Triều Tống nếu như không phải tại tên Đồng Quán Đồng vương gia là giám quân hại nước, gây họa bốn biến, thì cũng sẽ không mất minh hữu Liêu quốc, để rồi bị Kim quốc tiêu diệt.
Thẩm Mặc kể sử một thôi một hồi, đến đương triều thì nói:
- Sau tổn thất trí mạng từ biến Thổ Mộc Bảo, đến nay Đại Minh cũng đã hồi phục phần nào. Trương Vĩnh làm rất tốt bổn phận của mình, luôn luôn đấu tranh với bè phái Lưu Cẩn, mới giữ được thân thể cho Võ Tông tiên đế, lúc này mới tạo nên cơ nghiệp thống nhất huy hoàng, nói hắn là công thần cũng không quá.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui