Quan Cư Nhất Phẩm

Hiệu quả của trận chiến thảm liệt với Thổ Nhĩ Hỗ Đặc bộ vài ngày sau mới hiện ra. Từ Y Kim Hoắc Lạc cho đến dưới thành Đông Thắng, Minh quân cũng không lọt vào tiến công của người Mông Cổ, chỉ có một số du kỵ như ruồi quấy rầy chẳng quản ban ngày đêm tối, nhưng sợ cái loại vũ khí kinh khủng có thể đánh xa trăm trượng nên cũng không dám đến gần quá, chỉ quấy rầy ở bên ngoài.

Minh quân không thèm để ý tới loại hành động ruồi bu này, vẫn bảo trì đội hình hành quân, mỗi ngày tiến lên bốn mươi dặm. Sau đó hạ trại, nên làm gì thì làm, cứ như vậy vững vàng đi hết ba ngày. Chạng vạng ngày mùng 9 thì đến dưới thành Đông Thắng.

Đại quân của người Mông Cổ cũng đã tập kết sẵn ở hai mặt đông tây ngoài thành, chờ đợi đã lâu. Các quý tộc Mông Cổ dũng cảm là sẽ không thừa nhận mình sợ quân Minh. Họ giải thích với thủ hạ lần trước không chủ động tiến công là dĩ dật đãi lao, đợi quân Minh đến dưới thành Đông Thắng, đặt chân chưa vững là sẽ phát động một kích sấm sét!

Không quan tâm có nghĩ như vậy thật hay không, dù sao thì mạnh miệng nói ra rồi. Hiện tại quân Minh cũng đã đến, chung quy không thể kéo dài tiếp tục được. Huống hồ họ cũng biết đợi quân Minh lập xong doanh trại rồi, muốn tiến công thì khó khăn càng thêm khó khăn. Cho nên chỉ có thể kiên trì, đồng thời phát lệnh tiến công, cấp cho quân Minh một đòn phủ đầu...Theo họ, trận chiến này không nhất định phải sát thương bao nhiêu quân Minh, nhưng nhất định phải đả kích sĩ khí của đối phương, cho nên đưa hết ra toàn bộ lực lượng có thể điều động. Từ ba mặt khởi xướng mãnh công.

Hơn hai vạn kỵ binh tụ quần xung phong, cát bụi phủ khắp bầu trời, tràng diện hết sức đồ sộ khiến người khác không khỏi nhớ tới đội thiết kỵ vô địch của thời Thành Cát Tư Hãn.

Nhưng mà đối thủ lần này của họ cũng không phải là các tướng lĩnh xoàng xĩnh tự đại vô năng, mà là Thích Kế Quang, tướng lĩnh ưu tú nhất suốt 200 năm qua của Minh vương triều từ sau Từ Đạt. Hơn nữa dưới trướng của hắn còn tập trung phong vạn quân đội cường hãn nhất của thời đại này, sở hữu trang bị hoàn mỹ nhất, sĩ khí đang cao ngất. Đối với tướng lĩnh như Thích Kế Quang, mức độ cường hãn của thủ hạ quân đội có quan hệ trực tiếp với sức chiến đấu chỉnh thể của quân đội. Hắn đã sớm phòng bị thủ đoạn này của người Mông Cổ rồi, cho nên thủy chung khống chế tốc độ hành quân của bộ đội, cũng mệnh lệnh các quân quan nhiều lần tuyên đạo tư tưởng với các tướng sĩ, thời khắc đến dưới thành Đông Thắng đó là lúc đại chiến.

Cho nên bộ đội đã làm tốt chuẩn bị đầy đủ, chiến xa doanh, sĩ trùng doanh đã sớm di chuyển đến tuyến đầu phòng tuyến. Một khắc người Mông Cổ khởi xướng tiến công thì đã đầu đuôi tương liên, hợp thành ba đạo phòng tuyến vững chắc. Mà bộ đội kỵ binh thì di chuyển đến hậu trận, phòng bị người Mông Cổ từ sườn tập kích, cũng thời khắc chuẩn bị giảm bớt áp lực cho phòng tuyến vì gặp phải nguy hiểm. Bộ binh sĩ tốt thì dựa vào chiến xa chuẩn bị xạ kích. Lần này trong mấy vạn bộ binh chỉ có không tới một vạn trường mâu binh, còn lại tất cả đều là Hỏa thương binh được trang bị lưỡi lê... Ngoại trừ một vạn Toại phát thương, còn lại cũng đều được trang bị Hỏa thằng thương do các binh công xưởng sản xuất, chất lượng đề cao rất nhiều so với trước đây, sẽ không xuất hiện tình trạng một loạt đạn bắn qua mà địch nhân không ai bị thương.

Nhưng mà khai hỏa trước tiên lại là 80 khẩu thần uy đại pháo nặng 3000 cân, dài gần một trượng trực thuộc trung quân... Loại pháo này bắt nguồn từ Châu Âu, quân Minh thu được từ trong nhân thủ phật giáo. Thật ra nó là hồng y đại pháo thuộc thời đại trước kia của Thẩm Mặc. Đương nhiên dựa vào nguyên tắc đặt tên trước đó của ai đó, y đặt cho nó cái tên này. Loại pháo giật trọng hình không nòng xoắn này có tầm bắn ngoài 7 dặm, uy lực cực kỳ kinh người. Cho dù nhét vào đạn bồ đào cũng có thể bắn xa bốn năm dặm. Khi thấy quân đội Mông Cổ trong tầm mắt của quân Minh chỉ còn là một đường thẳng, liền có trên trăm phát đạn pháo kèm với tiếng pháo ù ù bắn ra. Dưới lục trùng kích to lớn, thân đạn tại giữa không trung phân giải thành mấy miếng thiết đạn hình cầu, lập tức hóa thành một trận mưa đạn rơi xuống trận địa quân Mông. Phàm là rơi vào trong đoàn người, trong nháy mắt có thể quét ngã một vòng mười mấy kỵ binh. Chỉ một vòng xạ kích bốn năm trăm quân Mông đã bị té ngựa, không chết cũng tàn phế.

Thông qua kính thiên lý Thích Kế Quang thấy được chiến quả, thoả mãn gật đầu, thầm nghĩ đốc sư đại nhân bỏ số tiền lớn mời giáo quan của Phật Lãng Cơ truyền thụ pháo binh học, quả nhiên dạy cho tụi nhỏ biết bắn pháo thế nào. Cái này nếu như lại thêm vài ba đợt nữa, có lẽ sẽ đánh cho đối phương chạy luôn.

Chỉ tiếc... Thích Kế Quang bất đắc dĩ nhìn trận địa pháo binh, thấy nơi đó hết sức lộn xộn. Sau khi bắn ra một lần, các pháo binh phải tưới nước vào pháo để dập lửa, lấy vải khô lau bên trong phần thân pháo rồi mới nhét hỏa dược vào, chất dẫn cháy, nhét vào đạn pháo, sau đó mới có thể bắn nữa. Những động tác này khá lề mề và phiền phức, còn chưa bao gồm tu chỉnh ụ súng... Bởi vì lực phản chấn rất lớn nên mỗi lần bắn ra đều làm cho ụ súng bị chếch đi.

Đây là bệnh chung của hoả pháo nạp đạn đầu nòng, có thể hai phút một phát đã tốt lắm rồi, cho nên khi đối mặt với kỵ binh căn bản không kịp bắn đệ nhị pháo. Song Thích Kế Quang mang chúng tới đây cũng không phải dùng cho dã chiến, vòng xạ kích lúc nãy chỉ thể xem như là tặng phẩm, và vua của dã chiến chân chính, khi quân Mông chạy tới cự ly ba dặm mới coi là gặt hái khấm khá!

500 khẩu đại tướng quân pháo đồng thời nổ súng, tràng diện đồ sộ hơn nhiều so với lúc nãy, hiệu quả cũng tuyệt vời... Mỗi khẩu đại pháo phóng ra viên đạn lớn nhỏ như hột đào, trên đầu quân Mông tạo ra một cơn mưa đá đoạt mệnh, khiến trận hình địch như vỡ tung, bất kể là người hay ngựa chỉ cần bị bắn trúng đều lập tức bị mất đi sức chiến đấu, kỵ binh quân Mông như bánh chẻo ngã hết xuống đất, trên chiến trường chớp măt chỉ còn lại tàn chi đoạn thể bay tứ tung, máu me nội tạng tung tóe, tràng diện như Tu La địa ngục!

Khác với Thần uy đại pháo, Đại tướng quân pháo được Đại Minh chế tạo. Thân dùng gang đúc, diễn sinh từ Hổ tôn pháo, phân đại trung tiểu ba loại, dài ba năm xích, nặng ba năm trăm cân. Vì dưới tiền đế khinh lượng hóa phòng ngừa tạc thang, trên ống pháo có nhiều vòng sắt siết chặt thêm, miệng pháo có vuốt sắt. Thân pháo dùng đinh sắt lớn cố định trên mặt đất để giảm độ giật sinh ra sau khi phóng, khắc phục được nguy hiểm đối với pháo thủ, sau khi xạ kích cũng không cần chỉnh lại ụ súng. Càng đáng khen hơn nó là một loại xe chở pháo, bánh xe trước cao sau thấp. Nhưng ở trên xe trực tiếp phóng ra tạo thành lực sát thương rất lớn đối với kỵ bộ binh. Thiết kế của nó tiên tiến hơn nhiều so với hoả pháo của Châu Âu.

Pháo này dễ dàng cơ động tại vùng sơn lâm kênh rạch chằng chịt, điều khiển được tại nơi hiểm yếu, càng có thể bắn ra trên trăm viên đạn nhỏ hoặc hơn mười viên đạn lớn, toả ra mặt đất, hiệu quả sát thương hơn cả Phật Lãng Cơ khi nhằm vào quân địch lấy đội hình dày đặc mà tiến công. Trong tác chiến kháng Oa đã phát huy tác dụng quan trọng. Trong năm Long Khánh khi Thích Kế Quang đến Kế trấn luyện binh lại sáng tạo ra đem pháo này trang bị cho kỵ binh sử dụng, hơn nữa hoả pháo sản xuất mới nhất đã hấp thu sở trường của hoả pháo phương tây, dưới tình huống có độ tin cậy cao hơn lại càng nhẹ hơn. Hơn nữa trang bị thiết bị ngắm đã khắc phục nhược điểm lớn nhất là không thể nhắm chuẩn xác lúc trước, trở thành kỵ binh pháo tốt nhất đương đại.

*******

Dưới ảnh hưởng của Thẩm Mặc, độ coi trọng của Thích Kế Quang đối với hỏa pháo đã đến tình trạng độc nhất vô nhị. Khi kỵ binh Mông Cổ phải trả giá thảm trọng, rốt cuộc chạy đến trong vòng hai dặm, lại thêm trên 1000 khẩu Phật Lãng Cơ thiết lập trên chiến xa phát hỏa. Loại hỏa pháo đường kính nhỏ này hoặc là nói hỏa súng đường kính lớn uy lực của nó không thể so sánh với các huynh trưởng. Nhưng mà tán đạn mà nó phóng ra lại dày đặc mà chuẩn xác, lại có thể liên tục phóng ra mà các đại pháo làm không được.

Đây là bởi vì cấu tạo đặc biệt của Phật Lãng Cơ, nó cấu thành từ mẫu súng (ống pháo) và tử súng (tiểu hỏa súng). Mẫu súng thân ống dài nhỏ, đường kính nhỏ dần lại, thân súng phối hợp với ống ngắm, có thể tiến hành nhắm vào xạ kích đối với mục tiêu cự ly xa. Hai bên thân súng có pháo nhĩ, có thể đem thân súng đặt trên giá, có thể giơ lên giơ xuống điều chỉnh góc độ xạ kích, cho nên có thể đạt được độ chính xác tương đối cao. Phần sau thân súng khá to mở ra cái rãnh dùng để nhét vào tử súng. Tử súng cùng loại như tiểu hỏa súng. Mỗi một mẫu súng có tất cả từ năm đến chín tử súng, có thể nhét đạn dược vào sẵn để chuẩn bị dùng, khi chiến đấu thay phiên lắp vào mẫu súng phóng ra, cho nên tốc độ phóng ra được đề cao.

Mặc dù như vậy sẽ bởi vì sức nén không đủ dẫn đến uy lực hữu hạn, nhưng dưới hình thức thiết kế ba tầng hỏa lực của Thích Kế Quang có hai loại đại pháo chiếu cố đường xa, Phật Lãng Cơ chỉ cần đối phó với địch nhân tầm trung là được, cho nên có thể dương trường tị đoản, tạo thành sát thương lớn nhất.

Trên thực tế, loại hỏa lực xấp xỉ với bắn liền này đả kích nghiêm trọng nhất đối với sĩ khí của người Mông Cổ, uy lực của đại pháo tuy lớn nhưng chỉ có thể vang một lần, chịu một lần rồi qua, khẽ cắn môi còn có thể chịu được. Nhưng loại vũ khí phun ra đạn liên miên không dứt này đã khiến cho chúng triệt để tan vỡ...

Trong tiếng nổ đinh tai nhức óc, vô số đinh sắt, mảnh đạn vô cùng sắc bén văng ra tứ tán, dưới sự trợ giúp của lực nổ mạnh trong nhiệt độ cao và sức nén cao, đinh sắt mảnh đạn bắn tung toé như mưa không thể tránh né phun về phía trận địa của kỵ binh Mông Cổ, khiến chúng cả người lẫn ngựa nổ tung máu thịt không rõ. Trong tiếng nổ mạnh và khói đặc cuồn cuộn, binh sĩ quân Mông lửa cháy khắp người gào thét thê lương, chiến mã lăn mình kêu thảm trên mặt đất. Tràng cảnh giống như Tu La địa ngục!

Các quý nhân Mông Cổ đang quan chiến ở trên sườn núi đằng xa không nhẫn nổi nữa, nhất là Bố Dương Cổ và Ba Đặc tổn thất nhiều nhất kêu la muốn Ba Tang hạ lệnh lui binh.

- Lúc này lui binh chẳng phải là chết uổng bao nhiêu người rồi sao? - Ba Tang đỏ mắt nói: - Sẽ nghịch chuyển ngay thôi, tin tưởng ta!

Liên tục lừa với dọa mới trấn an được hai người, rồi tiếp tục nhìn chiến trường vô cùng thê thảm, chờ đợi chiến cuộc biến hóa.

Nhưng mà đợi được chỉ là súng trường kiểu Long Khánh của quân Minh gia nhập giết chóc, đạn dày đặc mà chính xác tuy không có thanh thế của pháo hỏa nhưng làm cho nhân số sát thương tăng lên nhanh chóng. Chỉ bắn một vòng đã có hơn 1000 kỵ binh ngã ngựa, hơn 1000 chiến mã bay tung lên, sau đó mới bị thương ngã xuống đất.

Lúc này, kỵ binh Mông Cổ biểu hiện ra phẩm chất ưu tú của con cháu Thành Cát Tư Hãn, trước mặt thương vong nhưng họ dũng mãnh không sợ chết, cứ xông về phía trước. Nhưng Hỏa thằng thương với số lượng càng nhiều hơn công kích mới là vũ khí phổ cập nhất trong tay binh sĩ Đại Minh, mặc dù tốc độ và tầm bắn không thể so sánh với cái trước nhưng ăn nhau ở độ dày của đạn. Thẩm Mặc cũng chơi tới bến rồi. Sau khi cải chế chín xưởng công binh lớn, số vũ khí sản xuất trong hai năm toàn bộ phân chia hết cho Phục Sóc quân, khiến trang bị hỏa khí của nhánh quân này bất kể là số lượng hay là chất lượng đều vượt qua bất cứ nhánh quân nào tại đương đại.

Vũ khí nóng đào thải vũ khí lạnh đó là cơn thuỷ triều lịch sử không thể nghịch chuyển, làm không được điểm này chỉ có ba nguyên nhân. Một là vũ khí nóng chất lượng quá kém, hai là tố chất quân đội quá kém, ba là quan chỉ huy là một tên ngốc. Phục Sóc quân hiện tại hiển nhiên không có duyên với ba tố chất này...

Nhưng mà đội ngũ kỵ binh dày đặc như mây lại vẫn hung hãn không sợ chết chạy về phía trước. Các kỵ binh trên lưng ngựa hô to tên của Thành Cát Tư Hãn, khẩn cầu thánh chủ bệ hạ ban tặng cho họ dũng khí cùng lực lượng để tiêu diệt những kẻ xâm lấn đáng sợ này!

Rốt cuộc, kỵ binh trước nhất đã vọt tới cách quân Minh chưa tới 50 mét. Họ dừng lại, giơ lên cung đã cài tên dùng tốc độ bình sinh nhanh nhất bắn như mưa về xa trận quân Minh.

Đáng tiếc họ đụng phải là Thích gia quân tuyệt không nao núng, đối mặt với mưa tên tập kích đến, các bộ binh ở hàng trước mặc Tỏa tử giáp bất động, nửa bước không di, chuẩn xác dùng Long Khánh thức của họ tiến hành xạ kích. Tỏa tử giáp có thể chống đỡ uy lực của cung tiễn rất tốt, nhưng bì giáp trên người quân Mông trước mặt đạn sắt thì chỉ như thùng rỗng kêu to. Dưới ba tầng hỏa thương xạ kích dày đặc của quân Minh, cùng với bắn cự ly gần của Phật Lãng Cơ, quân Mông khó ổn định địa thế, đảo mắt hàng nhân mã đầu tiên đã tử thương hầu như không còn.

Vì vậy kỵ binh Mông Cổ lại lần nữa cất bước đi tới. Đúng lúc này, hoả pháo của quân Minh lại được nhồi vào, kèm với tiếng cảnh báo dồn dập chói tai, binh sĩ quân Minh đồng loạt nằm xuống, để rồi mấy trăm khẩu Đại tướng quân pháo trong cự ly 30 bước phóng ra một vòng lựu pháo.

Kỵ binh Mông Cổ đổ ngã như cắt lúa, chiến trường trong nháy mắt trở nên im ắng, toàn bộ dũng khí cũng theo một vòng pháo kích này mà hôi phi yên diệt, quân Mông tại trung lộ liền ngừng lại...

Nhưng ở hai cánh quân Minh có hỏa lực tương đối yếu vẫn có quân Mông vọt tới trước trận. Sáp chiến bắt đầu rồi. Trên hỏa thương của hàng trước quân Minh đều trang bị lưỡi lê, một lần xạ kích cuối cùng hoàn tất liền đem hỏa thương dùng làm trường thương. Những chiến sĩ cảm tử tinh nhuệ nhất này đều là lão binh kinh nghiệm sa trường, họ vững vàng đứng ở trên chiến xa, lợi dụng độ dài của vũ khí khi dễ quân Mông cầm trong tay Mã đao. Phía sau họ còn có đội vũ khí lạnh duy nhất của Phục Sóc quân cầm trong tay trường mâu một trượng trợ chiến, khiến quân Mông không thể nào chiếm được tiện nghi.

Trước trăm cay nghìn đắng vọt tới trận địa địch lại bị chiến xa ngăn trở sít sao, căn bản không thể phá tan phòng tuyến của quân địch, đội quân có ngoan cường mấy cũng triệt để tan vỡ. Trong nháy mắt khi tiếng kèn lệnh rút quân vang lên, quân Mông liền đồng loạt giục ngựa dùng tốc độ nhanh hơn so với lúc đến lao ra khỏi chiến trường.

Quân Minh tự nhiên dùng thương pháo mãnh liệt vui vẻ đưa tiễn, khi quân Mông rời khỏi ngoài ba dặm thì Thần uy đại pháo của quân Minh rốt cuộc lần thứ hai lên tiếng, lại một nhóm nhân mã ngã xuống. Quân Mông đã triệt để sợ hãi, chúng điên cuồng chạy ra xa hơm 10 dặm, cách quân Minh càng xa càng tốt.

Nói đến thì hình như thời gian rất dài, nhưng thật ra từ khi quân Mông phát động cho đến khi chúng rút quân cũng chỉ chốc lát như mặt trời từ lúc sắp xuống núi đến khi xuống núi mà thôi. Thi thể chết trận của quân Mông nằm la liệt khắp nơi, nhìn qua cũng phải tới năm sáu nghìn. May mà sắc trời đã tối nên quân Minh không thể phái kỵ binh truy kích, bằng không còn không biết sẽ tử thương thành bộ dáng gì nữa.

Một trận đánh thành như vậy đã hoàn toàn vượt qua sự tưởng tượng của các phương. Nặc Nhan Đạt Lạp đứng trên tường thành sắc mặt tái nhợt, vã mồ hôi lẩm bẩm:
- Ma quỷ, ma quỷ...

Thì ngay cả bản thân quân Minh cũng khó có thể tin, đây vẫn là kình địch số một của Đại Minh triều, sao lại chịu không được một kích rồi?

Duy nhất có thể bảo trì thanh tỉnh cũng chỉ có Thích Kế Quang. Hắn biết, những người Mông Cổ này chưa kiến thức qua xa trận của mình, càng chưa lĩnh giáo qua uy lực của hỏa khí chân chính, tùy tiện xông lên đương nhiên sẽ bị va phải đầu rơi máu chảy. Chỉ là trải qua lân này, quân Mông khẳng định sẽ không trứng chọi đá lần nữa. Cho nên cũng không có gì mà kích động.

Hắn phân phó bộ hạ lập tức thu thập chiến cuộc, cứu trị thương binh. Bộ đội chưa tham chiến thì vội vàng dựng doanh trại, thành lập phòng ngự, để ngừa vui quá hóa buồn, bị người Mông Cổ chưa tham chiến thừa cơ đánh lén, vậy thì xấu hổ quá.

Đến khi liên doanh kết trại, dựng lên đại trướng thì đã là lúc đêm khuya.

Trong soái trướng than lửa cháy hừng hực, hơn 10 ngọn nến to như cánh tay chiếu sáng rõ trong và ngoài lều. Thích Kế Quang, Lưu Hiển mấy vị tướng lĩnh đứng ở trước sa bàn, một bên nghiên cứu địa hình, một bên nghe thám báo bẩm báo. Căn cứ tra xét, hiện nay quân Mông tụ tập tại khu vực Đông Thắng có năm bộ lạc...trong đó bao gồm Ngạc Nhĩ Đa Tư bản bộ, cùng với đông tây bắc ba bộ lạc lân cận với nó, phía nam nam Đạt Nhĩ Hỗ Đặc bộ đã bị đánh tàn, hiển nhiên sẽ không tái xuất chiến. Lại thêm Ô Lạp Đặc bộ tới đây hôm qua, tổng cộng hơn 35000 người.

Nhưng số nhân mã này cũng không ở cùng một chỗ. Hơn 1 vạn người của Ngạc Nhĩ Đa Tư bản bộ canh giữ trong thành Đông Thắng, nhân mã của bốn bộ khác phân biệt đóng quân ở đông tây ngoài thành Đông Thắng 20 dặm, hiển nhiên mặc dù họ không muốn khốn thủ trong thành, nhưng nghe khuyên bảo của Nặc Nhan Đạt Lạp ở bên ngoài và trong thành hô ứng. Tuy nhiên ngày hôm nay sau khi bị một kích đã tổn thất thảm trọng, còn có thể trợ giúp cho trong thành lớn thế nào nữa thì khó nói rồi.

Sau khi đại thể lý giải tình hình quân địch, Thích Kế Quang liền cùng đám người Lưu Hiển thương nghị an bài tiến công cho ngày mai... Cản trở lớn nhất ở chỗ, trải qua hai đời Tể Nông tu kiến, Đông Thắng thành cao hào sâu, phòng bị hoàn thiện, nếu như cường công thì tổn thất khẳng định không nhỏ, cho nên đối với việc áp dụng loại phương án nào các tướng lĩnh tranh luận rất sôi nổi. Nhất là sau một trận triệt để đại thắng thì càng không muốn tổn thất thêm quan binh ở dưới thành Đông Thắng này nữa.

Đang thương nghị thì có thân binh đi vào bẩm báo, nói có người của Cẩm Y Vệ có việc trọng đại cần báo. Lần này xuất chinh có thể rõ ràng tình huống của người Mông Cổ như lòng bàn tay thì cũng nhờ có hơn 3 năm công tác bí mật của Cẩm Y Vệ. Người bình thường không biết, nhưng đám người Thích Kế Quang lại trong lòng biết rõ. Hơn nữa Thích Kế Quang càng biết, Cẩm Y Vệ phụ trách quân sự tình báo chính là lão nhân năm đó đi ra từ Trấn phủ ti rất hiểu được nặng nhẹ. Lúc này đến đây quấy rối thì tất có đầy đủ lý do.

Hội nghị tạm dừng, Thích Kế Quang mệnh chúng phó tướng, tham mưu đi ra ngoài trước, chỉ có hắn và Lưu Hiển lưu lại, sau đó mời người của Cẩm Y Vệ vào.

Vào là Lục Cương, gió cát quan ngoại đã làm cho khuôn mặt người thanh niên này đậm nét tang thương, công tác bí mật trường kỳ càng khiến hắn trở nên trầm mặc.

- Không biết các hạ xưng hô thế nào? - Thích Kế Quang tự mình rót cho hắn một chén trà nóng rồi mỉm cười hỏi.

Lục Cương tiếp nhận trà nhưng không chạm môi, thản nhiên nói:
- Làm cái nghề như chúng tôi không có tên, chỉ có một danh hiệu, gọi Hôi Lang, đại soái chớ trách.

- Hôi Lang, tên rất hay. - Thích Kế Quang cười nói: - Không biết Hôi Lang huynh đệ đến đây có gì chỉ giáo?

- Tại hạ đến đây là vì hiến kế sách lấy Đông Thắng.

Lục Cương nói không lớn, nhưng làm cho Thích Kế Quang và Lưu Hiển chấn động.

Lấy trả giá cực nhỏ mà giành được một trận đại thắng, hơn nữa là tại trong dã chiến chính diện đánh với thiết kỵ Mông Cổ. Điều này tuyệt đối có khích lệ cao hơn đối với tướng sĩ Đại Minh so với lần trước thủ chiến thắng lợi và ngay đêm tập kích địch doanh. Dù sao hai trận chiến lần đó do bộ đội kỵ binh đảm trách, vả lại ở ngoài tầm mắt của đại bộ đội, không thể so sánh với loại tràng diện khi tự mình trải qua.

Tướng sĩ quân Minh sĩ khí tăng vọt, suốt đêm chế tạo khí giới công thành. Cùng sử dụng trúc và da dê chế tạo 20 cái cầu phao, sau đó gắn lên xe ngựa nối liền trước sau, chuẩn bị khi công thành mắc vào. Lúc bình minh lên, chuẩn bị sẵn sàng, quân Minh giết trâu mổ dê, ăn no nê rồi mới tranh thủ từng phút từng giây tĩnh dưỡng tinh thần. Giờ Mẹo vừa đến đại quân tập kết, dưới quan quân suất lĩnh ầm ầm xuất doanh, tại ba mặt đông tây nam thành Tế Nông liệt trận đợi lệnh.

Các kỵ binh xuất phát sớm hơn để tới lui tuần tra ngoại vi chiến trường, phòng bị có quân Mông tới quấy rầy công thành.

Thấy tràng cảnh này, người Mông Cổ trên thành Tế Nông biết quân Minh muốn công thành rồi. Thấy ngoài thành đông nghịt quân đội càng tụ càng nhiều, nghĩ đến thảm bại gặp phải ngày hôm qua như ác mộng, họ nhịn không được sắc mặt tái nhợt, nắm chặt cung tiễn trong tay, đều lo lắng cho số phận của mình.

- Tế Nông tới rồi...

Không biết ai hô to một tiếng, quân Mông trên thành theo tiếng nhìn lại. Thấy Nặc Nhan Đạt Lạp mặc quân trang chói mắt di cùng với đôi nữ nhân xuất hiện ở trước mặt mọi người.

Thấy ánh mắt mọi người nhìn sang minh đều lộ ra do dự ít hoặc nhiều, Nặc Nhan Đạt Lạp khẽ ho một tiếng:
- Các dũng sĩ của Ngạc Nhĩ Đa Tư, chúng ta đối mặt với một trường nguy cơ trước nay chưa có, 10 vạn quân Minh trang bị hoàn mỹ lập tức sẽ triển khai tiến công đối với thành trì của chúng ta rồi. Nếu như thành Tế Nông bị mất, chúng ta sẽ bị đẩy ra khỏi gia viên của chúng ta, từ nay về sau sẽ không còn nơi mà về, hoặc là bị các bộ lạc khác chiếm đoạt, vợ con nữ nhân sẽ thành nô lệ của chúng. Hoặc là tiêu vong ngay lúc này, hóa thành xương trắng không ai thu gom...

Nói đến đây hắn cũng có chút động tình, đề cao giọng nói:
- Cho nên chúng ta đã không còn đường lui, chỉ có bảo vệ cho thành Tế Nông, đợi khi viện binh của Yêm Đáp hãn tới rồi, Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ của ta mới có thể vượt qua nguy cơ hiện tại. Bằng không, chúng ta sẽ triệt để mất đi thảo nguyên Ngạc Nhĩ Đa Tư, biến thành kẻ không nhà! Các ngươi nguyện ý biến thành kẻ không nhà sao?

- Không muốn...

Mọi người đáp.

- Nói còn nhỏ quá. - Nặc Nhan Đạt Lạp lớn tiếng nói: - Ta hỏi lại một lần, các ngươi đồng ý không?

- Không đồng ý! - Lần này câu trả lời vang dội hơn nhiều.

- Ta cũng không đồng ý!

Nặc Nhan Đạt Lạp rút ra bảo kiếm bên hông, trở tay cắt rách đầu ngón tay của mình, điểm máu lên trán và nói:
- Ta, con trai của Cổn Tất Nhĩ Khắc, hậu duệ của gia tộc hoàng kim, Tế Nông Mông Cổ Bột Nhi Chích Cân Nặc Nhan Đạt Lạp ở đây lập thệ với trời xanh, thành còn người còn, thành mất người mất, tuyệt không vứt bỏ gia viên của mình!

Những lời động viên này rất là thành công, các dũng sĩ Mông Cổ không khỏi nhìn với cặp mắt khác xưa đối với Tế Nông xưa nay văn nhược này. Người Mông Cổ tín phục nhất anh hùng hào kiệt. Nếu cao quý như Tế Nông cũng có thể làm được không chút nào lui bước, vậy những con dân như họ hiển nhiên không có đạo lý dao động rồi. Vì vậy người Mông Cổ trên thành đều noi theo Tế Nông cắt rách ngón tay mình rồi điểm máu lên trán, phát thệ cùng tồn vong với thành Tế Nông!

Chung Kim Biệt Cát, viên vô song minh châu của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ rất được kính yêu và Triết Hách Đài Cát, nhị nhi tử của Tế Nông cũng tự mình cầm túi châm rượu sữa dê cho các dũng sĩ trên ngựa. Tướng sĩ quân Mông thấy công chúa tôn quý của họ rủ xuống mái tóc dài đen nhánh, dùng dây da buộc lại theo kiểu nam càng có vẻ giỏi giang lưu loát. Nàng khoác chiếc áo mỏng màu đỏ, bên trong mặc nhuyễn giáp màu trắng nửa người, hông thắt một đai lưng to màu bạc, tô điểm thêm cho thân thể yểu điệu của nàng càng tươi đẹp quyến rũ. Dưới ánh nắng sớm, gương mặt tuyệt mỹ càng có vẻ trắng trẻo sinh động, đôi mắt long lanh ánh lên sự kiên định, làm cho các dũng sĩ Mông Cổ không khỏi huyết mạch sôi sục, thầm phát thệ dù cho trả giá bằng tính mạng cũng phải bảo vệ công chúa yêu dấu.

- Bảo vệ gia viên!

Mọi người bưng lên bát rượu uống một hơi cạn, sau đó ném xuống dưới thành cùng đồng thanh hô:
- Tử chiến tới cùng!

************

Hôm nay bốn doanh bộ binh của Thích gia quân hợp với hai vạn bộ binh của Du Lâm, Duyên Tuy tổng cộng 4.4 vạn người làm chủ công. Lộc trùng doanh chức trách vận chuyển củi đá, vận chuyển khí giới công thành, bộ đội pháo binh hiển nhiên nhận nhiệm vụ áp chế phòng ngự đầu thành, cung cấp hỏa lực trợ giúp. Đứng ở trên đài cao, Thích Kế Quang từ xa nhìn bộ đội như đàn kiến đang bận rộn, trong lòng dâng lên chút tâm tình bi thương... Mặc dù đều nói, nhất tương công thành vạn cốt khô, nhưng hắn cũng không phải một cuồng nhân chiến tranh, ngược lại hắn hy vọng có thể tận khả năng đem binh sĩ của mình được nhiều hơn, giảm thiểu bi kịch "Khả liên Vô Định hà biên cốt, do thị thâm khuê mộng lý nhân."(Đáng thương thay nắm xương bên sông Vô Định, vẫn còn là người trong mộng xuân của khách.- LŨNG TÂY HÀNH)

Lắc đầu, đuổi hết những tâm tình lỗi thời này đi, Thích Kế Quang tập trung tinh thần, cầm lên kính thiên lý nhìn lên thành xa xa, nhìn địch một lúc lâu không nói.

- Sao hả Nguyên Kính, tâm tình không tốt à? - Lão tướng quân Lưu Hiển bên cạnh hăng hái, tay cầm chuôi kiếm, sang sảng cười nói: - Công tích chiếm lại Đông Thắng chẳng lẽ còn không thể khiến ngươi hưng phấn sao?

- Ài, Duy Minh huynh, chớ trách ta đề cao sĩ khí người khác. - Thích Kế Quang khẽ than một tiếng thấp giọng nói: - Ta thấy trên thành quân Mông đang bận rộn, chuẩn bị rất có thứ tự, không giống như là làm qua loa chống lại rồi sẽ vứt bỏ.
Rồi hắn đặt kính xuống, chỉ vào đối diện nói:
- Thành này tường cao hào sâu, nếu có người biết phòng thủ, chỉ cần hai vạn quân luân phiên thủ thành, quân ta khó có thể công phá.

Lưu Hiển là tướng lĩnh ưu tú Nam chinh Bắc chiến, kinh nghiệm và tư lịch của hắn còn trên cả Thích Kế Quang, nhất là trong trận bình Tứ Xuyên đã ăn không biết bao nhiêu trái đắng của người Khương, tự nhiên có lĩnh ngộ sâu sắc đối với đạo thành phòng công thủ. Nghe vậy sắc mặt hắn cũng trở nên nghiêm túc, gật đầu nói:
- Đúng vậy, không ngờ được thành trì của người Mông Cổ lại tường cao kiên cố, lâu lỗ đủ cả, thoạt nhìn vũ khí cũng không thiếu. Chỉ cần quyết tâm chống lại, thủ thành đúng phương pháp, quân ta ngay cả gấp 10 lần chúng, nếu như không được một tuần đến một tháng chuẩn bị, nửa tháng không ngừng cường công, sợ khó mà phá thành.

Rồi hắn lại thở dài một tiếng:
- Đáng tiếc xe ngựa của quân ta đều dùng hết vào vận chuyển đại pháo, đạn dược, thảo nguyên lại không gì dùng được, vội vàng không kịp chế tạo khí giới công thành cỡ lớn... Nếu không có kế phá địch, ta sẽ không tán thành công thành vội vàng thế này đâu.

- Hiện tại chúng ta đơn độc thâm nhập, quanh mình tất cả đều là địch nhân! - Thích Kế Quang lại kiên định nói: - Phải mau chóng lấy Đông Thắng, đạt thành kế hoạch tác chiến sơ bộ. Bằng không kéo dài càng lâu thì tình cảnh sẽ càng thêm nguy hiểm!

Rồi hắn nói với quan truyền lệnh bên cạnh:
- Truyền lệnh toàn quân. Hôm nay phá thành xong, toàn bộ tài vật đoạt được sẽ phân thưởng quan binh!

Quan truyền lệnh lập tức truyền mệnh lệnh xuống, dẫn tới toàn quân hưng phấn đến xao động!

Giờ Mẹo canh ba vừa đến, Thích Kế Quang hạ lệnh phóng ra pháo hiệu. Sau ba tiếng pháo vang tận trời, 80 khẩu thần uy đại pháo, 500 khẩu đại tướng quân pháo của quân Minh, bắt đầu ngửa bắn công kích, trong tiếng ầm ầm rung trời động đất, đạn pháo gào thét bay lên tường thành. Bộ đội hoả pháo Đại Minh trải qua huấn luyện pháo binh học quả nhiên không như bình thường. Đạn pháo tập trung rơi vào chỗ lâu thành của địch đoạn chuẩn bị công thành. Những tòa lâu trên thành bằng gỗ là chỗ xạ thủ bí mật của quân Mông, tùy thời có thể xạ kích quân Minh dưới thành. Những công trình này trải qua dụng tâm gia cố nên có năng lực chống đỡ đạn pháo rất mạnh, nhưng một vòng xạ kích của quân Minh dùng đều là khai hoa đạn(lựu đạn), chỉ cần một quả rơi vào trong lâu, mảnh đạn và đinh sắt bắn ra bốn phía sẽ làm bị thương quân Mông bên trong. Dưới thành đều có thể nghe được tiếng kêu thảm thiết không ngớt.

Bộ binh quân Minh nhân cơ hội phát động tiến công, một trăm dũng sĩ đánh trần đang thúc xe ngựa vận chuyển cầu phao, chung quanh có đồng đội giơ cao trướng bằng da trâu ba tầng yểm hộ, hú la lao tới thành Đông Thắng. Sông Ô Lan Mộc Luân ôm lấy thành, là con sông hộ thành tự nhiên của thành Đông Thắng, người Mông Cổ lại mấy lần mở rộng thêm, nếu là tại mùa lượng nước cao, quân Minh thậm chí khó có thể lướt qua được cái lạch trời này.

Cũng may sớm có chuẩn bị, các tướng sĩ đẩy xe thẳng vào giữa sông, ngay cả người cũng nhảy xuống theo, trên bờ giữa sông đồng thời ra sức, chuyển cầu phao qua bờ bên kia.

Quân Mông đã phát hiện ra ý đồ của quân Minh, không để ý pháo thạch bay lượn khắp trời bắn tên xuống phía dưới từ lỗ châu mai, đồng thời dùng trên trăm khẩu hoả pháo kiểu cũ lớn nhỏ không đồng nhất thu được từ chỗ quân Minh trước đây đánh trả. Mặc dù xạ thuật của họ dở tệ, uy lực tầm bắn của pháo cũng không thể nào uy hiếp được hoả pháo của quân Minh, nhưng đối phó với quân Minh ở trên sông hộ thành thì vẫn có thể đảm nhiệm được.

Tên pháo như mưa rơi vào nước làm bọt nước bắn lên tung tóe, dũng sĩ quân Minh không chỗ tránh né, tử thương hết sức thảm trọng. Nhưng sự dũng mãnh không biết sợ của Thích gia quân tại giờ khắc này mới lộ ra. Phía trước ngã xuống, phía sau lập tức bổ sung, không có bất kỳ ai lui về phía sau. Mà các tướng sĩ giơ trướng da trâu ba tầng thì vọt lên cầu phao khi chưa đến bờ, được các dũng sĩ đỡ cầu phía dưới chống đỡ...Loại trướng phòng ngự do ba tầng da trâu làm mặt ngoài, lấy một tầng sắt lót bên trong, trong lều có chín xà tám trụ, tên đạn bắn lên mặt trên đều bị bắn ngược lên, không thể tiến vào. Thương vong của quân Minh giảm xuống ngay. Các tướng sĩ hô to khẩu hiệu, sử xuất sức lực bú sữa rốt cuộc đưa được cầu phao lên bờ bên kia.

Đến bờ rồi, các dũng sĩ quân Minh đã tình trạng kiệt sức cố nhảy lên bờ sông, dưới sự yểm hộ của trướng da trâu, rút ra hai cây cọc gỗ ở đoạn trước cầu phao rồi cắm trên mặt đất, lại dùng chùy sắt đập chặt cố định lại cầu.

Khi cây cầu phao đầu tiên được dựng lên, ngay sau đó cây thứ hai, thứ ba, thứ tư...Dưới tường thành ở phía Tây chỉ rộng 200 dặm đã dựng lên tám cây cầu phao, chiếm gần phân nửa tổng số.

Mà lúc này pháo hỏa của quân Minh cũng hơi biến đổi, không oanh kích đầu thành nữa mà lấy hỏa lực dày đặc oanh kích đoạn tường thành này. Chỗ bị bắn trúng đá bùn vỡ nát, tường thành sụp đổ, lực phá hoại của nó vượt xa sự tưởng tượng của người Mông Cổ.

Lúc này, tiên quân của quân Minh đã xông qua cầu phao và khởi xướng tiến công tường Dương Mã dưới thành...Cái gọi là tường Dương Mã chính là một vòng tường vây xây ngoài thành hào, có thể mượn cái này chống đỡ quân địch, lại tiện bề cho thủ quân trên thành lấy tên đạn sát thương đối phương, thường là thành phòng tương đối cao cấp mới có thể xây cái này. Người Mông Cổ hiển nhiên hết sức dụng tâm đối với thành Đông Thắng nên cũng thiếp lập cái này. Tường này bằng đất cao sáu xích, dày ba xích chạy thẳng đến cạnh thành hào. Nếu là mùa nước cao, quân Minh không thể mắc cầu được.

Thế nhưng dù sao cũng là tường đất, bị nước ăn mòn hằng năm nên khó tránh khỏi xuất hiện vết nứt, quân Minh liền dùng công cụ trong tay mở rộng nó ra, dự định lợi dụng thuốc nổ phá vỡ. Bởi vì tường thành chính diện bị đạn pháo làm cho lắc lư, quân Mông chỉ có thể xạ kích từ hai bên, song ỷ vào uy lực của hoả pháo vẫn khiến quân Minh thương vong nghiêm trọng. Nhờ đội viên cảm tử người trước ngã xuống, người sau tiến lên, rốt cuộc móc ra được một lỗ to như trái dưa hấu, rồi lập tức nhét vào thuốc nổ được chứa trong thùng sắt, dùng đuốc châm vào, các đội viên cảm tử tay chân cùng sử dụng triệt thoái ra phía sau.

Ngay khi họ vừa mới nhảy vào trong nước thì ánh sáng lóa mắt lóe lên, tiếng nổ rung trời liên tiếp vang lên, rất nhiều binh sĩ quân Minh bị tiếng nổ làm cho ngất xỉu.

Nhưng càng có nhiều người hơn đã sớm có chuẩn bị, khi bùn đất đầy trời rơi xuống, họ liền liều lĩnh đứng lên, vượt qua tường Dương Mã bị nổ tung thành đất bằng rồi vọt tới dưới tường thành... Không quăng thang mây, không có lâu xa, cứ chẳng hề để ý lao tới dưới thành.

Quân Mông trên thành đã định thần lại từ trong vụ nổ, trừng mắt nhìn quân Minh chỉ cầm cuốc, thầm nghĩ những người này sao cả một cây thang mây cũng không mắc, chẳng lẽ muốn bay lên sao? Tường thành cao chừng ba trượng, dù có dùng khinh công cũng làm gì mà lên tới được? Mà đến lúc nào rồi quân Minh nghèo đến nỗi dùng nông cụ để đánh trận, chẳng lẽ là dân binh?

Sau một khắc, bọn họ đã có được đáp án, thấy binh sĩ quân Minh bắt đầu lóc cóc gõ móc ở chân tường, đây không phải là hiện tượng cá biệt, mà là hành vi tập thể của toàn bộ quân Minh lao tới dưới thành.

Quân Mông bỗng nhiên phát giác được ý nghĩ của quân Minh, lẽ nào loại tường thành móng dày tới ba trượng này cũng muốn dùng thuốc nổ phá sao? Mặc dù người Mông Cổ không quá tinh thông hỏa dược, nhưng cũng biết đây là điều tuyệt đối không thể được. Tuy nhiên tuân theo nguyên tắc, phàm là thứ địch nhân kiên trì thì chúng ta phải phản đối. Họ liều mạng dùng đá, gỗ và dầu ngăn cản. Đây cũng là thời khắc có lực sát thương lớn nhất đối với bộ đội công thành. Một chậu dầu đổ xuống liền có vài quân Minh hét thảm ngã xuống đất. Một cây gỗ lăn xuống thì quét sạch một mảng luôn.

Binh sĩ quân Minh lao tới dưới thành, pháo hỏa tự nhiên không thể xạ kích tường thành nữa, ngược lại tiếp tục áp chế đầu thành. Nhưng mà quân Mông có tường thành chống đỡ, không cần lộ ra nhiều cũng có thể trút xuống gỗ dầu. Cho nên hoả pháo của quân Minh cũng chả giúp được gì nhiều, rất nhanh liền dời đi mục tiêu, không quan tâm đến binh sĩ thương vong phe mình tiếp tục dùng đạn pháo cỡ lớn oanh kích tường thành, bắn cho ngoài tường thành phía tây lửa cháy, cát đá tung tóe. Lúc này trướng da trâu ba tầng của quân Minh rốt cuộc đến dưới thành. Dưới sự yểm hộ của họ, binh sĩ đến tiếp sau mới dám tiếp tục đến gần, liều mạng đào móc móng tường thành. Người Mông Cổ là mục nhân, từ nhỏ đã tiếp xúc với da trâu, cự ly gần thế hiển nhiên không thể bị ba tầng da trâu làm khó. Họ dùng phân người trộn lẫn với dầu cây trẩu đổ xuống. Da trâu liền bị bỏng rách, tầng sắt cũng bị bỏng khó mà nắm chặt được. Binh sĩ quân Minh đành phải buông tay, trướng ầm ầm hạ xuống, dầu vẩy ra trút lên người binh sĩ khiến họ da cháy thịt nát, tiếng la hét inh ỏi.

Quân Minh đành phải tạm thời lui ra, thứ đợi họ lại là lưỡi đao vô tình của đốc chiến đội...

Nhìn các tướng sĩ không bị chết dưới gỗ lăn, dầu đổ của quân Mông mà lại bị chết dưới tay đồng bào, thống lĩnh bộ quân Trương Nguyên Huân chỉ huy công thành tại mặt trận đau đến toét mắt. Trong đó có cả cháu ruột của hắn! Nhưng mà tình thế chiến trường không cho phép hắn có chút dao động. Người chưa nghe thấy tiếng la mà lui là trảm. Đây là thiết quy của Thích gia quân, huống chi đang ở trong công thành chiến tàn khốc nhất.

Đợt xung phong lần ba lập tức triển khai. Lần này quân Minh tại trướng da trâu đã được thêm hai tầng chăn bông thấm nước trong sông hộ thành, mặc dù khiến nó rất nặng nề, nhưng tốt xấu gì cũng có thể chống đỡ được dầu hỏa chết người kia một lúc.

Tướng sĩ quân Minh tru lên như dã thú, lại nhằm dưới thành điên cuồng đào móng...

***********

Màn điên cuồng này đã sớm lọt vào mắt các thủ lĩnh quân Mông trong vọng lâu ở trên thành. Họ một mặt đốc thúc binh sĩ liều mạng ngăn chặn, một mặt suy đoán quân Minh đang phát điên cái gì.

Ngay lúc mồm năm miệng mười thì một giọng nữ có phần hoảng loạn vang lên:
- Chúng ta phải làm tốt chuẩn bị tường thành bị công phá rồi!

Chúng đầu lĩnh nhìn qua, nói chính là Chung Kim Biệt Cát. Từ khi quân Minh xâm lấn, cô bé ngày xưa trong mắt mọi người này lấy sự bình tĩnh và thông minh đã giành được sự tín nhiệm của mọi người trong bộ lạc, chí ít các thúc thúc của nàng sẽ không mãi coi nàng như trẻ con nói lung tung.

- Sao có thể được? - Nặc Nhan Đạt Lạp nói: - Tường thành dày thế, ngoại trừ động đất, trên đời này không có gì làm nó sụp đổ được hết.

- Nhìn từ trận đánh hôm qua, tướng lĩnh của quân Minh cực kỳ ưu tú, không có khả năng đột nhiên ngu đi được. Lại nhìn biểu hiện của họ hôm nay, vẫn mục đích minh xác, không tiếc tất cả trả giá chuyên tấn công đoạn tường thành này. Cho nên họ nhất định có biện pháp.

Chung Kim nhìn một người mập bên cạnh nói:
- Đạt Hàn Nhĩ thúc thúc, năm ngoái là ai phụ trách tu sửa đoạn tường thành này?

Năm ngoái vùng Thiểm Tây, Mông Cổ động đất, thành Tế Nông bị phá hoại, ba mặt tường thành đều xuất hiện khe nứt, vì thế thành Tế Nông đã trả giá tiền cao để mời công tượng từ thành Hồi Hột đến đây sửa chữa.

Tên mập được gọi là Đạt Hàn Nhĩ bị lời nói của nàng làm lóe lên một ý nghĩ đáng sợ trong lòng, lúc này tự nhiên không thể giấu diếm, sắc mặt tái nhợt nói:
- Là, là người mời tới từ thành Bản Thăng. Nhưng họ nhân thủ không đủ, còn tìm một đội xây dựng khác từ Bản Thăng tới, đoạn tường thành này là do những người Bản Thăng đó sửa.

- Nếu tường thành bị phá thật thì ngươi chờ mà tự sát đi! - Một thanh âm phẫn nỗ liền vang lên, mọi người đã rõ ràng hoảng loạn rồi.

- Hiện tại không phải là lúc tranh chấp! - Nặc Nhan Đạt Lạp vội vàng ngăn cản mọi người xung đột: - Nhanh chuẩn bị đối sách đi.
Rồi hắn nhìn sang nữ nhi:
- Chung Kim con có biện pháp sao?

Thấy Chung Kim gật đầu, hắn liền giao bội kiếm của mình cho nữ nhi:
- Con toàn quyền phụ trách, người nào không nghe thì cứ giết ngay!

- Vâng!

Lúc này cũng không quản được nhiều, Chung Kim cầm lấy bội kiếm rồi chạy vội xuống thành.

Dưới cố gắng và hi sinh rất lớn, quân Minh rốt cuộc móc ra được một hầm sâu một thước, rộng một thước, dài gần 100 trượng ở đoạn tường thành phía Tây này, thấy được lớp gạch dùng giấy dầu bao lấy ngụy trang.

Đập xuống một búa thiệt mạnh phá vỡ lớp giấy dầu và vỏ bùn, thuốc nổ khô màu đen liền trút xuống. Hình dạng vẫn như khi được bỏ vào.

Băng dày ba thước, không phải do chỉ một ngày lạnh. Đối với quyết sách quan hệ đến vận mệnh quốc gia, thậm chí đi hướng của dân tộc, càng không thể một sớm một chiều, do một người nào đó vỗ đầu một cái mà định ra được.

Trên thực tế, tại cuối thời tiên đế Gia Tĩnh, thậm chí muốn tìm hiểu được Hồ Tôn Hiến khi còn làm tổng đốc Đông Nam, Thẩm Mặc liền mượn cơn gió đông của thắng lợi kháng Oa bắt đầu thử du thuyết các đại lão trong triều, đem Phục Sóc xem như chiến lược mục tiêu kế tiếp.

Nhưng mà người cầm quyền lúc đó là Từ Giai lại không ủng hộ Phục Sóc. Ông ta cho rằng năm đó Hạ Ngôn và Tăng Tiển bị giết đã chứng minh việc này không thể làm. Cho tới bây giờ, càng không thể phục cũng không cần phục. Cho nên kiên quyết không đồng ý hành động này, cũng thầm trách Thẩm Mặc, hiếu chiến tất vong. Đây cũng một trong những nguyên nhân sau đó Từ Giai kiên định ủng hộ Trương Cư Chính, dẫn đến thầy trò thế như nước lửa.

Nhưng Thẩm Mặc cũng không lẻ loi vì có được Cao Củng kiên quyết ủng hộ Phục Sóc dưới tình huống điều kiện cho phép; mà Sơn Tây bang sau khi trải qua bàn bạc cũng lựa chọn đứng ở bên y...Đây bắt đầu cho quan hệ giữa Thẩm Mặc và Dương Bác được cải thiện, tuần trăng mật giữa Đông Nam bang và Sơn Tây bang.

Bố cục hai nhà thêm một nhân vật cường lực chống lại đại lão duy nhất đã chi phối rất lớn mỗi một lần triều khởi triều lạc trong những năm đầu Long Khánh. Cuối cùng sau khi trải qua luân phiên chém giết, hảo hổ giá bất trụ quần lang, đại lão duy nhất phải nói lời chào cảm ơn, Đại Minh tiến vào giai đoạn mới hai thế lực lớn lên đài, một vị cường nhân hát hí khúc. Vì vậy kế hoạch Phục Sóc đưa bọn họ liên hệ đến với nhau tự nhiên cũng phải được thực thi rồi.

Thật ra trước đây toàn bộ kế hoạch đã qua nhiều lần sửa đổi, mỗi lần nó đổi thì tương ứng với công tác tình báo càng tiến hành sớm được mấy năm. Sau khi xác định kế hoạch đánh Ngạc Nhĩ Đa Tư, từ Trấn phủ ti thoát thai xuất hiện Quân tình ti, cũng bắt đầu gắng sức thẩm thấu đối với thành Ngạc Nhĩ Đa Tư. Sau trận động đất năm ngoái, khi họ biết được tin tức tường thành bị hư hại, cần phải sữa chữa, liền lập tức yêu cầu Tấn thương tại cửu biên không gì làm không được đưa cho họ khống chế ngành kiến trúc tại Bản Thăng. Bởi vì người Mông Cổ rất thiếu thốn công tượng, càng không am hiểu kiến trúc xây dựng, cho nên nhiều lần đều phải dựa vào công tượng, dân phu thuê từ Bản Thăng để sửa chữa thành Tế Nông.

Dưới năng lực vận tác mạnh mẽ của Tấn thương, đội kiến trúc do mật thám của Quân tình ti khống chế liền trở thành một trong năm đội kiến trúc chịu trách nhiệm sửa chữa thành Tế Nông, phụ trách sữa chữa một đoạn tường thành phía tây dài gần 100 trượng. Nói đến cũng buồn cười, khi họ dè dặt đem thuốc nổ lẫn với nguyên liệu bỏ trong đoàn xe lén vận tới dưới thành Tế Nông mới phát hiện người Mông Cổ người ta không có phòng bị chút nào. Họ căn bản là không nghĩ tới những người Bản Thăng, hảo bằng hữu này lại là không có hảo ý mà đến.

Dưới ánh mắt của người Mông Cổ, các công nhân ban ngày bình thường làm việc, ban đêm thừa dịp khởi công lại đem trên trăm bao thuốc nổ được ngụy trang thành gạch bỏ vào các chỗ bị nứt trong tường thành. Bên ngoài bao thuốc nổ dùng giấy dầu cây trẩu bao kỹ lại để ngừa hơi ẩm xâm nhập, sau đó dùng gạch thật tầng tầng bịt kín lại, biến đoạn tường thành này thành một hố boom lớn... Vì bảo đảm vạn vô nhất thất, Quân tình ti từng tiến hành thí nghiệm tại một thành trì bỏ đi ở Sơn Tây, phát hiện không cần nhiều lắm thuốc nổ, chỉ cần vị trí và không gian bịt kín đầy đủ cương tính thì có thể hất tung bất cứ bức tường thành nào nhìn như không gì phá nổi.

Người Mông Cổ căn bản không ngờ được người Hán lại sử dụng thủ đoạn như vậy nên đâu có gì phòng bị nhiều. Mặc dù ngày đó nghiệm thu họ đã kiểm tra hết sức tỉ mỉ chất lượng của tường thành, nhưng người của Quân tình ti lại không có ăn bớt ăn xén nguyên vật liệu. Mà dù kiểm tra có cẩn thận mấy cũng không thể dỡ ra tường thành đang lành lặn cho họ nhìn nên hiển nhiên không thể tra ra trong đó còn có gia vị khác.

Vì vậy nên mới có màn Lục Cương hiến kế phá thành lúc trước, quân Minh không tiếc trả giá tất cả cũng phải trùng kích đoạn tường thành phía Tây.

**********

Khi phá vỡ được gạch thành, tìm được gói bộc phá Quân tình ti để lại sẵn, các tướng sĩ quân Minh lập tức nhét vào bao thuốc nổ đã chuẩn bị sẵn, sau khi châm kíp nổ toàn thể lui lại như thủy triều...

Quân Mông trên thành còn chưa biết tình hình, thấy quân Minh nhét vào mấy bao thuốc nổ cỏn con liền sợ hãi lui lại. Họ không khỏi hai mặt nhìn nhau. Chỉ có vài người cẩn thận mới vội vàng nằm phục xuống đất, nhưng cũng chỉ phí công thôi...

Sau mười giây đồng hồ ngắn ngủi, thế giới hình như đột nhiên đứng lại một chốc, sau đó kèm với tiếng nổ như long trời lở đất, sóng xung kích kinh khủng hết văng các sinh linh trong phương viên vài dặm xuống đất. Đá đất, binh khí, thậm chí là người bị khí lưu không biết từ đâu mà đến hết lên trời, bụi mù tung lên bao phủ hết tầm mắt mọi người.

Đài chỉ huy của Thích Kế Quang vì cự ly xa, hắn lại nắm chặt lan can nên có thể đứng vững, nhưng hai tai vang lên ong ong, cũng bị tiếng nổ kinh khủng chấn cho choáng váng. Nhưng rất nhanh hắn liền tỉnh táo lại, mở hai mắt nhìn vào phía trước tràn ngập bụi mù. Khi bụi bậm dần dần hạ xuống, thấy đoạn tường thành kia quả nhiên xuất hiện một chỗ hổng dài hơn trăm trượng.

Thích Kế Quang vỗ mạnh tay lên lan can nói:
- Đánh trống!

"Thùng thùng thùng thùng!"

Tiếng trống trận thôi thúc vang lên trên chiến trường, bộ đội dự bị công thành đứng hết lên từ mặt đất. Thấy tường thành ngăn ở trước mặt không ngờ đã bị sụp xuống vào phía trong một đoạn thật dài, các tướng sĩ lập tức phấn chấn, đi theo các quân quan của mình như thủy triều thông qua sáu cây cầu phao còn lại lao vào đoạn chỗ hổng đó.

Quân Mông là bên thủ thành tự nhiên nhận được tổn thật lớn hơn quân Minh, thế cho nên quân Minh bắt đầu xung phong rồi mà quân Mông trên dưới tường thành gần đó còn đang vùng vẫy chưa bò dậy được.

Chỗ hổng rộng như vậy hình như có thể tuyên cáo tường thành của người Mông Cổ đã thất thủ, họ chỉ có thể lui vào bên trong thành triển khai hạng chiến thôi...

Nhưng mà khi các binh sĩ dũng cảm xông tới trước chỗ miệng vỡ tường thành, chuẩn bị đánh vào thành thì lại phát hiện từ chỗ hổng đó đổ ra đàn cừu trắng xóa.

Điều này làm cho nhiều binh sĩ cơ linh cũng hơi ngây ra, huống chi bởi vì tiêu chuẩn trưng binh của Thích Kế Quang, Thích gia quân thuần là nông dân xuất thân, nói trắng ra là tứ chi phát đạt, ý nghĩ đơn giản. Thấy trước mặt đàn cừu lũ lượt lao ra ngoài, các tướng sĩ đã ôm cái tâm chết trận lại ngừng bước. Là nhà quân sự ưu tú nhất, trong [Luyện Binh Kỷ Thực], Thích Kế Quang đã liệt kê ra các loại khả năng tình huống trên chiến trường không phân lớn nhỏ, cũng nói cho bọn quan binh nên ứng đối thế nào. Từ xa xưa tới nay, tướng sĩ của Thích gia quân đã quen dựa vào phương pháp giáo dục của quân quan để đi ứng đối các loại tình huống rồi.

Nhưng mà coi như là Thích Kế Quang cũng không ngờ được quân Mông sẽ dùng loại phương pháp này để chặn lại chỗ hổng của tường thành... Chỉ thấy ở trong thành, trên trăm kỵ binh quân Mông ra sức quất roi ngựa trong tay, lớn tiếng thét đuổi đàn cừu tập trung về phía trước. Đàn cừu là tài sản quý báu của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ, sau khi nhận được tin tức quân Minh xâm lấn mọi người liền đuổi chúng chạy vào trong thành để tránh chiến hỏa. Nhưng hiện tại theo một tiếng ra lệnh của Chung Kim Biệt Cát, họ đành phải hiến chúng nó ra để đắp tường. Tuy nhiên ai cũng biết, một khi thành Tế Nông bị công hãm, bò cừu đều sẽ bị quân Minh cướp đi. Lúc này không ai có tư tâm nữa, tất cả chỉ vì có thể đắp lại tường thì thủ quân trên thành mới có được cơ hội trùng chỉnh phòng ngự, ngăn cơn sóng dữ!

Người khởi xướng tất cả điều này là Chung Kim công chúa của Ngạc Nhĩ Đa Tư. Lúc này nàng đang ngồi trên lưng ngựa, tại hậu phương khẩn trương nhìn tình hình trước mắt. Mặc dù nàng ngờ tới quân Minh có kế phá thành, nhưng không nghĩ tới đối phương có thể hất tung cả tường thành, đè chết hơn phân nửa 500 dũng sĩ mà nàng cho tập trung dưới thành chuẩn bị ứng biến. Nếu không phải nàng vì triệu tập đàn cừu, rời xa tường thành, sợ cũng khó có thể may mắn tránh khỏi rồi.

Hiện tại tạm thời không ai có thể chống chọi được rồi, chỉ có thể nhờ những chiến sĩ cừu này thôi...

Vì sao dùng cừu mà không dùng ngựa hay bò, bởi vì ở đâu cừu cũng có thể như giẫm trên đất bằng, sẽ không bị phế tích của tường thành ngăn cản bước tiến.

Đối mặt với đàn cừu vô tội như thủy triều dũng mãnh tiến ra, binh sĩ quân Minh không bước nổi nữa. Trong tay bọn họ cầm là Long Khánh thức tiên tiến nhất, có thể tùy thời khai hỏa phát đạn thứ nhất. Điều này rất quan trọng, thậm chí quan hệ đến việc có thể đoạt được thành hay không, thế sao có thể dùng để bắn cừu được chứ? Hơn nữa nhiều cừu như vậy có bắn cũng không hết, chỉ có thể dùng lưỡi lê trên súng để đâm thôi.

Nhưng mà người Mông Cổ cái gì cũng thiếu, chỉ không thiếu cừu thôi. Dàn dương đổ ra thật sự quá nhiều, cứ như thủy triều khó có thể ngăn trở. Ngay cả Thích gia quân lấy Uyên Ương trận thành danh cũng không có biện pháp chặn đàn cừu trùng trùng điệp điệp này dừng chân lại. Trong nháy mắt, người và cừu trộn lại với nhau, tràng diện hỗn loạn vô cùng, làm cho Trương Nguyên Huân đang ở tiền quân chỉ huy buồn bực đến hộc máu. Cừu ùa ra càng ngày càng nhiều, cứ ở trước con sông hộ thành không tiến, phía sau lại bị đuổi chạy nhanh ra ngoài, quân Minh thì bị chen đến không tự chủ được lui trở lại cầu phao, còn kéo theo rất nhiều cừu. Thảm nhất chính là những người đang liều mạng chạy vào thành, phát hiện trong thành vẫn là cừu vô biên vô tận, lập tức liền có xung động nuốt súng tự sát.

- Gõ la ngay!

Trương Nguyên Huân đã giận đến xanh mặt:
- Thỉnh cầu pháo hỏa trợ giúp!

Tiếng kim la vang lên, các binh sĩ trên cầu chán nản lui xuống. Đây là lần đầu tiên Thích gia quân lui về phía sau. Không ngờ không phải là bị địch nhân đẩy lùi, mà là lùi bởi đàn cừu. Thật sự mất mặt quá thể.

Lúc này tiếng còi chói tai chuẩn bị pháo kích cũng vang lên rồi. Binh sĩ trong sông hộ thành người biết bơi kéo người không biết bơi liều mạng bơi trở về. Về phần quân Minh vẫn bị kẹt trong đàn cừu thì chỉ có thể cố gắng bảo vệ nơi yếu hại, quỳ xuống đất mà cầu xin kỳ tích thôi.

Tiếng pháo ầm ầm rất nhanh vang lên, đạn pháo gào thét ập vào đàn cừu, khai hoa đạn, bồ đào đạn, cùng với đạn dầu hỏa vỏ bằng đồng đắt đỏ cứ thế trút xuống. Trong nháy mắt khói đen mù mịt, lửa bốc lên khắp nơi, xác cừu la liệt trên đất. Đàn cừu hoảng hốt vội vội vàng vàng chạy tán loạn dọc theo tường thành, cũng có rất nhiều nhảy vào trong nước. Cừu mọc lông sau mùa đông là không thể bơi được, rất nhanh chết đuối hết. Ánh lửa và cái chết khiến đàn cừu dễ bảo rốt cuộc không nghe lời nữa, mặc cho những mục dân quất roi thế nào cũng không chịu đi về trước lấy một bước.

Phía trước chạy trốn. Phía sau giẫm chân tại chỗ. Đại quân cừu ở chỗ hổng tường thành rốt cuộc biến thành vùng xác cừu, mùi thịt quay bốc lên nghi ngút.

Lúc này, giáo quan xạ kích ưu tú của quân Minh đã phát huy tác dụng. Bọn họ chỉ huy hoả pháo đem tầm bắn hướng sâu vào bên trong thành, lợi dụng dầu lửa áp chế bộ đội cừu của quân Mông, ngăn cản họ giở lại mánh cũ... Đạn dầu hỏa mà xưởng Quân công tỉ mỉ nghiên cứu chế tạo bởi bỏ thêm nhiên liệu hữu hạn nên hiệu quả sát thương cũng không được tốt lắm, không tạo nhiều uy hiếp đối với mục tiêu hoạt động. Cho nên chỉ mang theo số lượng rất ít, định là dùng để phóng hỏa gì đó. Ai ngờ loại có hoa không quả này lại phát huy được công dụng lớn... Động vật dù sao đều sợ lửa, huống chi là giống cừu mới mọc lông dài?

Đồng thời cũng không quên tường thành hai bên chỗ hổng, đạn pháo ập đến áp chế quân địch đầu thành, yểm hộ phe mình khởi xướng đợt tiến công thứ hai.

Năng lực tổ chức của Thích gia quân có lẽ chỉ có bộ binh hoàng gia Tây Ban Nha ở phương tây xa xôi mới bằng được, chí ít ở trong phạm vi Châu Á họ đã không ai sánh kịp, rất nhanh liền tập hợp lại, do ba viên thiên hộ suất lĩnh công thành. Trương Nguyên Huân tự mình cầm đao đốc chiến. Nếu như lần này không làm nên cơm cháo gì nữa, hắn thật sẽ trở tay cắt cổ mất thôi.

Quân Minh ngóc đầu trở lại, nỗi nhục lúc nãy khiến họ phẫn nộ, nỗi kiêu ngạo của Thích gia quân không cho phép thất bại lần thứ hai. Các tướng sĩ gào lên, đỏ mắt lao lên cầu phao, giẫm lên xác cừu ngập đất, ùa về phía tường thành đổ nát.

***********

Lúc này, thủ quân đầu thành bị lửa đạn dày đặc áp chế không ngẩng đầu lên nổi, đàn cừu sợ đạn dầu hỏa giẫm chân tại chỗ, mắt thấy không còn gì có thể ngăn cản quân Minh đi tới được nữa, tường thành thất thủ hình như đã thành kết cục đã định.

Tuy nhiên ngăn trở lúc nãy vẫn có tác dụng, chí ít cho viện binh nơi khác nhân cơ hội tụ tập dưới tường thành. Pháo hỏa chỗ hổng dừng lại, họ liền ào ra từ hai bên, che trước mặt quân Minh vừa mới lao qua cầu phao, giương cung cài tên bắn về phía Quân Minh. Quân Minh nổ súng đánh trả. Song phương cách nhau 30 bước, đều ở trong cự ly sát thương của đối phương, và đều tạo thành sát thương rất lớn cho đối phương.

Từ khi khai chiến tới nay, cung tiễn của quân Mông đã liên tiếp thất bại ở trước mặt hỏa thương kiểu mới của quân Minh, nhưng thời gian chúng nó rời khỏi sân khấu lịch sử vẫn còn chưa tới, chí ít trong tay các xạ thần như người Mông Cổ, tốc độ bắn nhanh chóng, độ tinh chuẩn cao của nó, hỏa thương đều không thể so được.

Binh sĩ quân Minh sau khi kết thúc một phát súng căn bản không có cơ hội bắn phát thứ hai, chỉ có thể liều mạng vọt tới trước, tranh thủ tiếp cận địch sáp lá cà. Nhưng mà xạ thủ của quân Mông lại có thể bắn ra phát tên thứ hai, thứ ba. Họ đem nỗi phiền muộn dành dụm từ khi khai chiến đến nay cùng với nỗi căm hận với kẻ xâm lược đặt hết lên trường tiễn nanh sói. Mỗi một lần dây cung vang lên liền có một quân Minh la lên ngã xuống đất. Ở tại cự ly có thể thấy rõ mặt đối phương, khôi giáp cũng không thể chống lại loại sát thương của Phá giáp tiễn này.

Quân Mông trên tường thành hai bên cũng bất chấp lửa đạn trên đầu dùng cung tiễn cùng pháo đất bắn xuống dưới, trợ giúp phòng thủ. Quân Minh thương vong vô số kể. Nếu như đổi thành quân Minh thông thường, dưới màn tên đạn dày đặc thế này tất nhiên sẽ tháo chạy rồi.

Nhưng mà, đối thủ của họ không phải là quân Minh bình thường, mà là Thích gia quân danh chấn thiên hạ!

12 năm trước, Thích Kế Quang tại Đông Nam thành lập nhánh quân đội đặc biệt này. Từ đó trở đi, họ luôn liên hệ chặt chẽ với cái tên quang vinh này, cũng dưới sự bao phủ bởi quang mang của hắn chiến đấu hăng hái hơn 10 năm trên trăm trận chiến lớn nhỏ, chiến chiến đại thắng, chưa từng bại trận! Mặc dù hiện tại binh sĩ không phải là những gương mặt như khi đó, nhưng mà quân đội thế này đã sản sinh ra quân hồn như lò luyện, biến đổi từng nông dân giản dị khi hiến thân vào thành binh sĩ ưu tú có ý chí sắt thép, có dũng khí không sợ, cùng kỷ luật nghiêm minh!

Hiện tại, bọn họ đối mặt không phải là giặc Oa, mà là Thát Lỗ làm hại Đại Minh gấp trăm lần hơn, đủ để khiến cho họ chịu được hi sinh, leo lên đống hoang tàn như núi, phát động xung phong không biết sợ! Mặc dù cung tiễn của người Mông Cổ vẫn thần chuẩn mà dày đặc, nhưng Thích gia quân có kinh nghiệm tác chiến phong phú, nhất là bộ chiến tại loại địa hình phức tạp này, họ giống như đã trở về vùng núi Đông Nam gồ ghề khó đi, linh hoạt ẩn náu né tránh, cố gắng giảm thiểu hi sinh, đồng thời cũng rất nhanh tiến lên phía trước.

Rốt cuộc, quân tiên phong tới gần, cung tiễn của người Mông Cổ cũng không thể dùng được nữa. Người Mông Cổ rút ra loan đao, hai mắt đỏ ngầu chém giết với trường thương lưỡi lê của quân Minh. Đao pháp của người Mông Cổ tinh xảo, võ nghệ cao cường, đơn binh tác chiến với quân Minh. Nhưng mà chiến thuật tố dưỡng của Thích gia quân cực cao, mặc dù trên đỉnh đầu là tên đạn, dưới lòng bàn chân khó có thể đứng vững, bên người cũng không phải đồng bọn đã từng phối hợp, nhưng mà họ vẫn cấu thành từng Tam Tài trận nho nhỏ, yểm hộ lẫn nhau, phối hợp đối địch.

Song phương triển khai nhiều lần tranh đoạt trên đoạn tường thành 300 trượng, theo quân Minh bò lên trên càng ngày càng nhiều người, phòng tuyến của quân Mông dần dần có dấu hiệu không cản nổi nữa.

Biến hóa này được Thích Kế Quang đang bình tĩnh quan chiến thấy rõ. Hắn đoạt lấy dùi trống của tay trống bên cạnh, "thùng thùng thùng thùng", gõ lên vài tiếng trống trận. Thấy thống soái tự mình đánh trống, toàn bộ tay trống nào dám chậm trễ, liều mạng mà gõ trống trận. Tiếng trống dồn dập khiến người khác huyết mạch sôi sục truyền khắp chiến trường.

Ba thiên hộ lĩnh binh nghe được thì biết là thống soái đang giục bọn họ, vì vậy không bận tâm đến an toàn của bản thân nữa, tự mình dẫn binh lao tới tiền tuyến trước nhất, trực tiếp lấy dao gặp gỡ với quân Mông.

Các tướng sĩ của Thích gia quân nghe được, bạo phát lực lượng vô cùng, cao giọng hò hét, liều mạng chém giết! Dưới phát lực đột nhiên của quân Minh, phòng tuyến của quân Mông lung lay sắp đổ, sĩ khí hình như đều nhận được ảnh hưởng.

Ngay tại thời khắc chỉ mành treo chuông, trên tường thành quân Mông lại bùng nổ tiếng hoan hô rung trời, lớn tiếng hô, Chung Kim Biệt Cát! Chung Kim Biệt Cát. Thì ra họ thấy được vị công chúa của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ đã tháo xuống áo choàng đỏ, cầm trong tay song đao tự mình dẫn đội thân vệ Tế Nông tiếp viện chỗ hổng!

Sau một khắc khiến dũng sĩ Mông Cổ lại suốt đời khó quên, lại tuyệt không nghĩ đến thấy được một màn đã xảy ra. Họ thấy viên minh châu thảo nguyên của họ cũng không phải dẫn viện quân đến thì thôi, mà là trực tiếp đưa vào chiến đấu, cũng lấy dao gặp gỡ với quân Minh!

- Bảo vệ Biệt cát!

Các nam nhân của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ như toét mắt ra, không để ý đến lưỡi lê bên mình, dùng toàn bộ dũng lực cũng muốn bảo vệ công chúa của họ chu toàn. Thậm chí có rất nhiều quân Mông từ trên đầu thành nhảy xuống, ôm lấy quân Minh cắn xé với nhau trên mặt đất.

Chung Kim công chúa tự mình ra trận nghênh địch đã thấy ngay được tác dụng khích lệ đối với quân Mông. Người Mông Cổ hoàn toàn áp dụng chiến pháp lấy mạng đổi mạng, phòng tuyến trước kia đã lung lay sắp đổ dần dần ổn định. Hơn nữa càng nhiều dũng sĩ Mông Cổ từ bốn phương tám hướng đổ qua, cuối cùng đẩy lui Thích gia quân vĩnh viễn không nói lui.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui