Quan Cư Nhất Phẩm

Thẩm Mặc muốn nói "phi lễ vật động", nhưng đoán chừng bị trêu, đành đi tới, nín thở giúp nàng gấp tay áo, cẩn thận không đụng vào da thịt nàng, sau đó lùi lại chỗ không ngửi thấy hương thơm thiếu nữ, mới nói:
- Theo quy củ người Hán, ống tay áo phải giữ ở cổ tay, lộ cánh tay ra là phóng túng, che bàn tay là vô lễ, đi đường ống tay áo phất phơ, nhanh chậm đúng nhịp, đó gọi là thong dong.

- Ồ...
Chung Kim có chút bực mình, nhưng hứng thú phe phẩy ống tay áo, sờ hoa văn bên trên cảm khái nói:
- Y phục này thật đẹp, vừa mềm vừa nhẹ, như không mặc gì vậy.

" Con bé này cái gì cũng nói ra khỏi miệng được, cô mà đúng là không mặc thì..." Thẩm Mặc thật không dám nghĩ tiếp.

- Có điều quy củ của các ngươi đúng là nhiều...
Chung Kim học theo Thẩm Mặc, vừa đi vừa vung vẩy tay.

- Phải rồi, ta quên mất, cô là nữ tử, khi đi đường không được vung vẩy tay, mà phải khép tay lại.
Trước mặt thiếu nữ này, Thẩm Mặc tỏ ra kiên nhẫn kinh người, so với khuê nữ của mình còn kiên nhẫn hơn.

- Thế này à?
Chung Kim học rất ra dáng, trông điềm tĩnh hơn nhiều.

- Đúng, nếu như đi theo trưởng giả thì phải cúi đầu xuống, không được ngẩng đầu nhìn ngang nhìn ngửa.
Thẩm Mặc mỉm cười.

- Thật phiền phức.
Chung Kim chịu không thấu.

- Quen rồi sẽ tự nhiên thôi.
Thẩm Mặc chỉ vào bàn ăn:
- Ngồi xuống ăn thôi.

- Thứ giày này của các ngươi, ta đi không quen.
Chung Kim đứng trên giường giơ chân lên, dưới mép váy lụa phấn hồng, lộ ra chiếc tú hoa hài. Nữ tử phương bắc không quấn chân, nhất là bên phía Du Lâm càng như thế, nếu không chưa chắc có hài thích hợp cho nàng đi.

- Đây là hài lụa, càng mềm hơn.
Thẩm Mặc lắc đầu cười khổ.

- Đi cũng chẳng đi nổi nữa.
Chung kim bước xuống giường, học theo cách đi người Hán, cũng rất tha thướt, nhìn dáng vẻ chăm chú say mê của nàng, Thẩm Mặc thầm thở phào...

Y sai người chuẩn bị thứ y phục này cho Chung Kim không phải là muốn liệp diễm, mà muốn dùng Hán phục, trói lấy trái tim của viên minh châu thảo nguyên. Vì dù kiến thức lịch sử của y không nhiều, nhưng tam nương tử danh tiếng lẫy lừng trên lịch sử thì y vẫn biết.

Chung Kim Biệt Cát Ô Nạp Sở, y cảm thấy như từng nghe tới cái tên này, nhưng không phải trong kiếp này, nhớ lại trước kiếp trước học sử tựa hồ cũng không có.
Có điều bất kể thế nào, một nữ nhân mà 500 năm sau còn được người ta nhắc tới, tuyệt đối không phải là nhân vật bình thường.

Mặc dù tạm thời tạm thời không nhìn ra manh mối, nhưng xuất phát từ bản năng đầu tư của một chính khách, làm y giữ thiện chí và kiên nhẫn cực lớn với nàng, thậm chí ngay cả yêu cầu vô lý cũng đồng ý, ngay cả mạo phạm cũng không giận, chính là muốn từng bước thay đổi ấn tượng không tốt của nàng với mình.

Bỏ ra chút ân huệ nhỏ, hi sinh chút thứ gọi là thể diện, thêm được một bằng hữu, bớt đi một kẻ địch, cuộc mua bán này lãi rồi.

Đồng thời y lệnh người tăng cường điều tra tất cả về nữ nhân này, chỉ cần có chút tình báo có liên quan tới nàng là đưa tới trước mặt mình, nếu như là điều tra một nhân vật lớn, các này chỉ tự chuốc khổ vào thân, nhưng Chung Kim bối cảnh đơn thuần, chưa tham dự việc đời nhiều...
Theo Thẩm Mặc nghĩ, cho dù sưu tập tỉ mỉ, chắc cũng chẳng có bao nhiêu tình báo liên quan tới nàng.

Nhưng lần này Thẩm các lão nhầm rồi, nữ tử này dù chưa tới 20, nhưng trên thảo nguyên lại có quá nhiều câu chuyện liên quan tới nàng, tư liệu chồng chất trên bàn, làm Thẩm Mặc hoa cả mắt.

Thì ra thiếu nữ này nổi tiếng đến thế, khi nàng 14 tuổi, hai bộ lạc vì theo đuổi nàng còn hẹn nhau dùng đao thương quyết đấu. Kết quả Chung Kim bỏ nhà đi, tới đất Hán, cuộc quyết đấu tất nhiên phải kết thúc, về sau Yêm Đáp dùng lực lượng Bạch Liên giáo, bí mật tìm nàng về.

Nhìn chuyện này Thẩm Mặc nhớ ra vì sao thấy nàng quen quen, lần y từ Tuyên Phủ chịu tang sư phụ trở về, có gặp tiểu khất cái tên Dã Nhi... Chẳng trách mình không nhận ra, thiếu nữ 18 thay đổi lớn, lại không bôi đen mặt, ăn mặc rách rưới, làm sao trách ta có mắt không tròng được.

Thẩm Mặc coi tư liệu của Chung Kim thành tiểu khiển ngoài công vụ, dùng mấy ngày xem hết, tất nhiên biết tháng sau Yêm Đáp phái người tới đón nàng về làm tôn tức phụ.

" Yêm Đáp tôn tức phụ..." Thẩm Mặc viết những mối quan hệ của Chung Kim lên giấy, suy nghĩ... Thời đại này nữ tử địa vị cực thấp, muốn nổi lên chỉ có thể dựa vào nam nhân của mình.

Cho nên nếu Chung Kim thực sự là nữ nhân nổi danh kia, vậy nhất định phải gả cho nam nhân địa vị cực cao, mà trên tờ giấy này địa vị cao nhất là Yêm Đáp...

Mặc dù Bả Hán Na Cát là cháu Yêm Đáp, có khả năng kế thừa địa vị, nhưng Thẩm Mặc không cho rằng một tên thanh niên không cha không mẹ địch nổi đám thúc thúc như lang như hổ kia, huống hổ hắn còn chẳng phải trưởng tử của trưởng tử, nên trừ khi đám thúc bá của hắn chết hết, nếu không hắn không có hi vọng.

Vì thế Thẩm Mặc không tin Chung Kim dựa vào hắn mà thành công, vậy y đem đáp án đặt lên người Yêm Đáp, dù Yêm Đáp là ngoại công kiêm thúc thúc của nàng, nhưng thời đại đó người Mông Cổ chỉ cần không phải thân sinh đều có thể....

Đừng quên Tiểu Huyền Tử còn lấy cả cô ruột của mình.

Liệu có thể như thế sao? Suy nghĩ mãi, Thẩm Mặc nhớ ra mình biết tên nàng từ một bộ phim, tên phim không nhớ nữa, nhưng nó không quan trọng, quan trọng nhân vật chính là Chung Kim Cáp Truân... Cáp truân là phu nhân, biệt cát gả đi tất nhiên là thăng cấp.

Nhưng trong phim đó vì kỵ húy, không hề nói Chung Kim là cháu Yêm Đáp, cũng không nói hôn ước giữa Chung Kim và Bả Hán Na Cát, nên giờ Thẩm Mặc mới ghép vào được.

Nếu là nhân vật trọng yếu, tất nhiên phải đối đãi đặc thù, có điều lịch sử đã phát sinh cải biết, hiện giờ Đại Minh đã phát động tấn công phục Sóc, Chung Kim nhất định có cảm quan rất tệ với người Hán.

Nhìn ngôn ngữ cử chỉ của nàng, thế nào cũng không giống người gìn giữ hòa bình Hán Mông, cho nên phải trừ đi ác cảm với nàng, sau đó bồi dưỡng tình cảm.

Đương nhiên quốc sự không phải trò đùa, Thẩm Mặc không hồ đồ tới mức vì một bộ phim bịa đặt lung tung mà đem trọng trách hòa bình Hán Mông đặt lên một nữ tử.
Y chỉ dựa theo suy đoán của mình, đi một nước cờ không ảnh hưởng gì, nếu tới khi đó thực sự có thu hoạch tất nhiên là kiếm lớn, nếu không thì coi như điều tiết một chút trong kiếp quân lữ khô khan.

Mấy ngày tiếp theo Chung Kim ở lại phủ đốc sư, đợi Thẩm Mặc xong việc để xuất phát, Thẩm Mặc vốn cho rằng, tính nàng nhất định không chịu ngồi yên, cho nên dặn thị vệ, nếu nàng muốn ra ngoài cứ cho đi, chỉ cần bảo vệ an toàn là được.

Ai ngờ Chung Kim chỉ ra ngoài một lần, sau đó mua một rương sách về, rồi đóng kín cửa trốn trong nhà đọc sách. Một lần ăn cơm, Thẩm Mặc hỏi nàng mua nhiều sách thế làm gì?

Lý do của Chung Kim là, tránh để các ngươi nói mà nghe không hiểu.

Thẩm Mặc biết nguyên nhân không phải thế, bảo người đem danh sách sách Chung Kim mua tới, chỉ có tám chữ ( tư trì thông giám ) và ( nhị thập nhất sử ).

Thẩm Mặc lúc đó toát mồ hôi, quả nhiên không phải nữ tử tầm thường, không khỏi thầm cảnh cáo bản thân, danh nhân lịch sử quyết không thể coi thường.

Cho nên Thẩm Mặc không những không ngăn cản mà còn cười hỏi:
- Gây đây chăm chỉ đọc sách, có chỗ nào không hiểu cứ nói ra.

- Hay quá.
Chung Kim vui vẻ nói:
- Ta phát hiện sách của người Hán càng cổ, lời nói càng đơn giản. Những chức đó ta đều biết, nhưng nối lại với nhau 10 chữ chỉ hiểu 5, còn nhờ đoán, không biết có đoán đúng không?

- Thế là lợi hại lắm rồi, có điều cô nói tiếng Hán tốt như thế, vì sao không học ngôn ngữ văn chương?

Chung Kim cau mày:
- Sư phụ dạy ta chỉ dạy ta nói, không cho ta xem sách, nói toàn là những thứ be bét, khiến ta đi vào bàng môn tà đạo.

- Sao cô còn xem?

- Chẳng nhẽ ta mãi không lớn?
Chung Kim ném cho y một cái lườm tuyệt đẹp, rồi cười ngọt lịm:
- Quyết định nhé, mỗi ngày ngươi phải bỏ thời gian ra dạy ta.

- Dạy cô à?
Thẩm Mặc miễn cưỡng nói:
- Cũng được, nhưng phải bái sư.

- Bái sư thì bái sư.
Chung Kim lại rất dứt khoát:
- Cần khấu đầu không?

Chuyện này sao chủ động nói ra được:
- Cái này..

- Đúng là lằng nhằng, chẳng qua chỉ là khấu đầu thôi mà.
Chung Kim lập tức rời bàn ăn, dập đầu ba cái:
- Sư phụ, thế là xong rồi chứ?

Trước mặt nàng, Thẩm Mặc thấy mình đúng là thiếu dứt khoát, đành gật đầu:
- Được rồi.

Vì thế mỗi ngày hai buổi sáng tối, y dạy nàng nửa canh giờ, dạy từ Sử Ký trở đi, không phải là giải thích câu chữ, mà là giảng giải đạo lý trong đó.

Chung Kim có năng lực lý giải rất cao, học một biết mười, làm Thẩm Mặc thỏa cái chí làm thầy của người, dần chuyển biến từ toan tính cá nhân sang thực lòng truyền thụ y bát cho truyền nhân xứng đáng...

Trên đường rời khỏi Du Lâm tới Y Kim Hoắc Lặc, Thẩm Mặc càng có nhiều thời gian rảnh, Chung Kim biết, tới điểm cuối của chuyến đi này, bất kể thế nào cũng không còn cơ hội tùy ý thỉnh giáo đối phương nữa, vì thế tranh thủ tất cả thời gian, xin Thẩm Mặc giải đáp nghi vấn của mình.

Vì thế thường xuyên thấy nàng theo sát bên Thẩm Mặc, hỏi hết câu này tới câu khác, Thẩm Mặc cũng kiên nhẫn trả lời từng câu một.

Chung Kim hỏi:
- Vì sao dân tộc du mục và dân tộc canh nông đời đời chinh chiến?

- Bản thân câu hỏi này đã có vấn đề, thường thì khơi lên chiến tranh là dân tộc du mục, còn dân tộc canh nông là phe phòng thủ.
Thẩm Mặc ngồi trên ngựa, nhìn bầu trời xanh thẳm đáp:
- Cho dù trên lịch sử mấy mấy đại thắng, cũng là sau khi bị hại, mới dốc hết quốc lực báo thù.

- Vì sao?
Chung Kim đã đọc qua Tư trì thông giám, còn lịch sử sau thời Nam Tống thì từ thủa nhỏ nàng đã được nghe phụ thân kể nhiều lần, biết Thẩm Mặc nói đúng:
- Chẳng lẽ vì dân tộc thảo nguyên bản tính tàn nhẫn sao?

- Không, nguyên nhân rất phực tạp, nhưng cô phải biết chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị, mà chính trị là biểu hiện của vấn đề kinh tế.
Thẩm Mặc tận tâm dạy bảo:
- Bất kỳ cuộc chiến nào cũng có sứ mệnh kinh tế, đối với dân tộc thảo nguyên cũng vậy. Người Mông sống dựa vào chăn thả gia súc, cho nên năng lực kháng cự thiên tai quá yếu, một khi gặp phải khô hạn hoặc băng giá, sẽ xảy ra nạn đói nghiêm trọng. Đồng thời người Mông không có thủ công nghiệp phát triển, lại bị hoàn cảnh tự nhiên kìm hãm, sinh hoạt dựa rất nhiều vào Trung Nguyên, song không đảm bảo được thặng dư sản phẩm ổn định để thông thương.

- Ngược lại Trung Nguyên sản xuất ổn định, tự cấp tự túc, cho dù có nhu cầu về gia súc chất lượng cao ở thảo nguyên, nhưng không nhất định là phải có. Điều này quyết định quyền chủ động mậu dịch của Trung Nguyên. Vì thế Trung Nguyên không coi mậu dịch với phương bắc là nhất thiết, coi đó là ban ơn, hoặc là thủ đoạn cân bằng thế lực thảo nguyên.
Thẩm Mặc giảng giải bản chất, thích hợp với học sinh thông minh này:
- Sự chênh lệch này tất nhiên khiến dân tộc du mục bị động trong giao dịch, một khi thiên tai chiến loạn khiến mậu dịch nam bắc thu hẹp, dân tộc du mục sẽ rơi vào khốn cảnh, nhưng không có nghĩa là chiến tranh sẽ xảy ra.

- Phải xem thực lực hai bên?
Chung Kim như hiểu ra được điều gì.

- Đúng.

- Nếu như thực lực Trung Nguyên luôn hơn dân tộc du mục, vì sao trong chiến tranh lại thua nhiều thắng ít.
Chung Kim đưa ra vấn đề lớn, dù nàng biết Thẩm Mặc uyên bác, song không tin y có câu trả lời hoàn mỹ.

- Có ba nguyên nhân.
Thẩm Mặc lấy túi nước treo bên ngựa, hớp một ngụm:
- Thứ nhất là ưu thế chiến lược của địa lý, dân tộc du mục cuộc sống mang tính di động, khiến bọn họ có thể di chuyển khắp thảo nguyên, chiến lược tiến lui tự nhiên, không thể trừ tận gốc nhưng lại có thể phất cờ trở lại. Còn Trung Nguyên lấy nông nghiệp làm chủ, bị cố định vào đất đai, cho nên ở thế bị động ăn đòn. Hơn nữa nếu bắc thượng thảo phạt, áp lực hậu cần rất lớn, một khi tuyến tiếp tế quá dài, sẽ kéo đổ cả quốc gia, cho nên tổng họp nhân tố này, khiến dân dộc nông canh chỉ có thể lựa chọn phòng thủ bị động.

- Còn hai nguyên nhân nữa?
Chung Kim tim đập thình thịnh, cảm giác khoái lạc phá giải bí ẩn này, giống như lần đầu tiên nàng săn được con mồi vậy khi còn nhỏ vậy.

- Thứ hai, dân tộc Trung Nguyên tất nhiên có ưu thế nhân khẩu nhiều, sản xuất tiên tiến, vật tư sung túc, xong phân công xã hội chặt chẽ, lại kiềm chế ưu thế này phát huy, làm tỉ lệ động viên chiến tranh rất nhỏ. Thực tế, kết cấu xã hội càng phức tạp, phân công càng tỉ mỉ, càng nhiều nhân khẩu trói buộc vào sản xuất, chỉ có số ít có thể triệu tập quân ngũ.. Hơn nữa từ dân chuyển thành binh chi phí quá cao, tốn thời gian, còn sinh tâm lý ghét chiến tranh. Còn dân tộc du mục, vì toàn dân là quân, quân dân hợp nhất, cho nên một khi động viên quân sự, hiệu suất cực cao. Vả lại từ nhỏ đã tập cung mã, tố chất quân sự tốt, cho nên triệt tiêu được ưu thế số đông của Trung Nguyên.

- Ngoài ra, xã hội phân công phức tạp, khiến thượng tầng càng rắc rối, các tướng quân Trung Nguyên tác chiến bên ngoài, bị níu kéo ngáng chân, chuyện phải suy tính ngoài chiến trường quá nhiều. Việc cung cấp cho quân đội qua quá trình điều phối phức tạp, hành chính lạc hậu, quan viên tham ô, vật tư lưu động bất tiện, tạo thành tổn hao lớn...
Nói tới đó Thẩm Mặc bi thương thở dài:
- Quân tướng Trung Nguyên kỳ thực đại bộ phận chết ở quân nhu mà không phải chết vì chiến sự. Còn dân tộc du mục kết cấu xã hội đơn giản, không có thượng tầng rắc rối mang tới hàng loạt vấn đề bất lợi, ngược lại vì lạc hậu mà có lợi. Ngoài ra sản xuất quân nhu nhắm thẳng vào mục đích sử dụng, mức độ tổn hao thấp không đáng kể, khiến ưu thế tài lực của Trung Nguyên bị triệt tiêu, nên Trung Nguyên có thua cũng chẳng có gì là lạ.

- Nguyên nhân cuối cùng?
Chung Kim mặt hiện vẻ thành kính, nàng bị học thức của đối phương cảm phục, thực sự coi y là đạo sư, chứ không còn là sư phụ danh nghĩa nữa.

- Thứ ba, từ dân phong, sĩ khí thì dân tộc nông canh càng không có ưu thế.
Thẩm Mặc cười khổ:
- Hòa bình làm mài mòn ý chí, tinh thần thượng võ của Hoa Hạ luôn suy nhược theo hòa bình quá lâu và nông canh phát triển...

- Cái đầu đồ nhi hiểu.
Chung Kim thắc mắc:
- Vì sao nông canh phát triển cũng ảnh hưởng?

- Đó là tính tất nhiên của phương thức sản xuất quyết định tâm lý xã hội. Trung Nguyên lấy nông thủ công nghiệp làm chủ, vì thế người kinh nghiệm phong phú kỹ thuật thành thạo có thể an thân dựng nghiệm, kiên nhẫn và tinh tế từ đó được tôn thờ là phẩm chất tốt. Còn dũng mãnh, thích đấu tranh đi ngược lại yêu cầu xã hội sản xuất, bị bài xích, bị vương triều coi là nhân tố gây mất ổn định. Cho nên chênh lệch dân phong làm quân đội Trung Nguyên không dũng mãnh như quân đội du mục.

- Về sĩ khí, do chiến tranh của dân tộc du mục chủ yếu là để cướp bóc, phân phối chiến lợi phẩm ai cũng có phần, khiến lợi ích cà nhân vả tập thể nhất trí, giữ được sĩ khí cao vọt. Còn sĩ tốt Trung Nguyên vì phục vụ cho vương triều, là kẻ phục tùng bị động, chẳng có lợi gì từ chiến tranh, thậm chí quân nhu còn bị bớt xén... Cho nên nếu không phải thời khắc giữ nhà vệ quốc thì sĩ khí không thể so với dân tộc du mục.

- Cuối cùng về phương diện quân bị, kỵ binh bằng tính cơ động luôn có ưu thế trong chiến tranh. Nhưng ở Trung Nguyên, sau khi mất đi đất nuôi ngựa, quân mã thành gánh nặng cho xã hội, mà chất lượng ngựa càng không thể so với dân tộc thảo nguyên. Đành dựa vào bộ binh, mà sức chiến đấu của bộ binh dựa vào chế độ hoàn thiện, quân nhu trang bị chu đáo thay thế kịp thời, trận thế huấn luyện nghiêm khắc, khiến đây thành điểm yếu mà dân tộc canh nông vì không thể duy trì nhất quán lâu dài được. So với dân tộc du mục sức chiến đấu luôn ổn định, tất nhiên cao thấp thấy rõ rồi.

- Vậy lần này quân Minh mạnh mẽ như thế, có phải nói rõ chính trị Trung Nguyên lại vào một giai đoạn sáng sủa.
Chung Kim tỉnh ngộ.

- Đúng thế.
Thẩm Mặc gật đầu:

- Nhưng nghe nói triều đình các ngươi đấu đá nội bộ dữ dội, thủ phụ liên tiếp rớt đài cơ mà.
Chung Kim không tin.

- Như thế chẳng phải cũng là gạn lọc được cái tốt sao? Huống hồ thắng bại đã rõ, không còn ai có thể khiêu chiến những các lão hiện giờ nữa rồi.
Thẩm Mặc khẽ mỉm cười:
- Muốn đuổi ngoài phải an trong trước, Đại Minh đã an trong, tất nhiên trên dưới một lòng, quyết tâm giải quyết biên cương.

-Nhưng ngươi đã nói bọn ta không thể bị tiêu diệt mà
Chung Kim hậm hực nói, nàng nhớ tới nhà cửa bị hủy, tộc nhân bị giết, không sao giữ được tôn kính với Thẩm Mặc nữa.

- Ai nói sẽ tiêu diệt các ngươi, bọn ta muốn dựng lại cơ cấu phòng ngự đã bị phá hỏng, khiến bách tính không bị các ngươi xâm lược, đồng thời giảm bớt áp lực quân phí nặng nề.
Thẩm Mặc từ tốn nói:

- Ngươi nói người Hán đánh trận tiêu hao cực lớn cơ mà, sao lại giảm tiền được?
Chung Kim không hiểu.

- Quân ta chiếm được Đông Thắng, tức là thành Tế Nông, có thể khiến cho phòng tuyến rút ngắn ngàn dặm, mỗi năm tiết kiệm được 100 vạn quân phí.
Thẩm Mặc tính toán hộ nàng:
- Như thế không cần biên tường lại có thể giữ vững Hà Sóc, có câu " trời cho Hoàng Hà giàu Hà Sóc", chỉ cần đảm bảo an toàn, dân cư đất Thiểm bần cùng sẽ vui vẻ chuyển tới Hà Sóc định cư.
Thẩm Mặc như nhìn thấy tương lai tươi đẹp, say sưa nói:
- Sau khi Hà Sóc thành kho lương, không chỉ giảm bớt gánh nặng cho quân nhu, còn có thể chi viện cho Tuyên Đại, từ nay Đại Minh không lo tây tam biên nữa.

Y nói hết sức phấn khởi còn Chung Kim thì lại mặt trắng bệch, nếu như người khác nói, nàng sẽ cười đối phương nằm mơ giữa ban ngày, nhưng lời này từ miệng y nói ra, y tin đối phương có thể làm được...

- Ta biết có một cách có thể ngăn chặn tất cả.
Chung Kim cắn răng nói:
- Nhưng ta sẽ không nói.

- Ám sát ta phải không?
Thẩm Mặc ngạo nghễ nhìn nàng:
- Chưa nói các ngươi không có năng lực đó, cho dù giết ta rồi thì cản trở được gì?

Chung Kim im lặng, nàng tận mắt nhìn thấy, vị đốc sư này không chỉ có một mình, điều phối quân nhu có Vương Sùng Cố, tác chiến có Thích Kế Quang, ra trận có Lý Thành Lương, tựa hồ y đâu có việc gì.
Nhớ lại lần trước gặp y, suốt ngày y cùng vị hoạt phật kia nói chuyện kinh pháp, lần này càng quá đáng, thành sư phụ chuyên trách của mình, đây có phải là một thống soái chiến tranh không?
Thần tượng trong lòng tức thì sụp đổ làm Chung Kim phẫn nộ:
- Như vậy chẳng phải ngươi làm cảnh sao?

- Đúng đấy ngộ tính của cô rất tốt.
Thẩm Mặc vỗ tay khen, sau đó nói hết sức trang nghiêm:
- Ta là khâm sai đại thần, đại biểu triều đình tới tọa trấn, trước kia thái giám làm việc này, nhưng hoàng đế dự phòng hoạn quan can dự chính sự, thêm vào sách lược do ta định, cho nên mới phái vi sư tới.
Nói rồi làm vẻ bất lực:
- Vi sư là thư sinh, cả đời là quan văn yếu đuối, hiện giờ ném ta tới đây giám quân, khổ cái là cấp bậc ta cao nhất ở đây, nên do ta làm chủ soái. Nhưng ta tự biết mình, không muốn gây loạn thêm cho họ, nên đành làm cảnh...

Nói xong Thẩm Mặc cảm thấy rất mất mặt, ho khan nói:
- Bài học hôm nay tới đây thôi, tan học.

Chung Kim hoàn toàn không còn gì để nói, đờ đẫn thúc ngựa đi, mấy thị vệ luôn theo sát hai người cũng hạ cánh tay luôn cầm ngang súng xuống.

Mấy ngày sau đó Chung Kim gần như không lộ diện, thi thoảng nhìn thấy thì cũng tâm sự trùng trùng, tựa hồ đang tiêu hóa lời của Thẩm Mặc.
Thẩm Mặc cũng kệ nàng, đạo lý mình đã nói rõ, lĩnh ngộ được không phải xem bản lĩnh của nàng.

Từ Du Lâm tới Y Kim Hoắc Lạc chỉ chưa tới 8 ngày lộ trình, chớp mắt một cái đã tới ngày thứ 7. Hôm ấy đã tới thảo nguyên, đội ngũ định nghỉ ngơi, sau đó hôm sau tới lăng Thành Cát Tư Hãn. Nhưng vì một trận mưa lớn bất ngờ, làm tốc độ chậm lại, kết quả trời tối vẫn chưa tới được điểm dự định, đành cắm trại ngoài trời.

Có điều may là mưa dừng, có thể nhóm lửa sưởi ấm, thực sự không có gì để oán tránh... Chỉ là nhóm lửa sau khi mưa hơi rắc rối, đợi khi cơm chín thì trời đã tối đen.

Thẩm Mặc thích không khí màn trời chiếu đất này, hít không khí tươi mát sau khi mưa, hiếm khi sức ăn tăng mạnh, ăn hai bát cơm thịt lớn, uống một bát canh cay, cuối cùng xoa bụng thỏa mãn.
Lúc này y mới nhận ra Chung Kim thường ngày thường ngày ăn vừa nhanh vừa nhiều lúc này lại cầm bát cơm thất thần, vì thế quan tâm hỏi:
- Sao không ăn?

- Ăn không trôi...
Chung Kim đặt bát xuống.

- Sao thế, có tâm sự gì cứ nói ra xem nào?

- Đồ nhi đang nghĩ lời sư phụ hôm đó.
Chung Kim buồn bã nói:
- Chẳng lẽ hai tộc chúng ta không có cách nào chung sống hòa bình sao?

- Nghĩ ra rồi à?
Thẩm Mặc nhận lấy chén trà, mỉm cười hỏi:

- Kỳ thực thông thương là một biện pháp tốt.
Chung Kim nhìn Thẩm Mặc:
- Nói thật, Mông Cổ hiện nay không còn khí phách và năng lực làm chủ Trung Nguyên nữa, mục đích đánh trận chỉ là vì muốn thông thương. Vật tư của tháo nguyên quá thiếu thốn, như sắp tới mùa hè rồi, mặc lông cừu không chịu nổi, nên cần vải vóc Đại Minh may áo; còn nữa, người thảo nguyên không biết luyện sắt, ngay cả nồi nấu cơm cũng không sản xuất nổi, nổi hỏng phải trăm ngàn cách vá víu để dùng, mọi người thường mượn nồi của nhau nấu nướng. Rất nhiều cùng khổ phải lấy da chứa nước nấu thịt ăn, thực sự qua khổ cực.

- Năm xưa từ Đạt Duyên hãn tới tổ phụ, tới Yêm Đáp hãn, 50 năm qua chúng tôi dâng thư xin thông thương, lời lẽ chân thành khẩn thiết.. Nghe thời tằng tổ, hai bên thông thương, Hán Mông đều có lợi, chỉ vì gần đây không thông thương, cuộc sống khó khăn cho nên mới vào xâm lược. Chỉ cần triều đình cho thông thương, chúng tôi sẽ ước thúc mọi người ở tái ngoại, vĩnh viễn không xâm phạm, uống máu ngựa để thể...
Chung Kim dừng lại một lúc nói:
- Vì sao không thông thương? Thông thương chẳng phải thông thương là sẽ không có chiến tranh sao?

- Ha ha ha.
Thẩm Mặc cười trào phúng:
- Chuyện này giống như có người xông tới nhà cô, nói với cha cô "gả khuê nữ cho ta, nếu không ta giết ngươi", đó là uy hiếp trắng trợn. Đại Minh mặc dù không giàu bằng Lưỡng Tống, võ công kém Hán Đường, nhưng vẫn còn cốt khí, ai dám đồng ý, thế nào cũng bị đóng đinh vào cột.

- Chẳng lẽ chỉ vì mỗi hư danh mà làm hai tộc chém giết tới tận ngày nay sao?
Chung Kim không phục:

- Đương nhiên không phải chỉ vì hư danh, kỳ thực năm Gia Tĩnh thứ 30, chúng ta và Yêm Đáp đã đạt thành hiệp nghiệp mở mã thị, nhưng Yên Đáp không ước thúc các bộ chúng, Mông Cổ vẫn vào cướp bóc như thường. Hơn nữa còn ép mua ép bán, mỗi lần mang vài con ngựa bệnh tới đòi đổi lấy vô số hàng hóa bên ta, một khi bên ta có dị nghị là cướp hàng, giết người, mã thị làm sao tiếp tục được.

Thẩm Mặc thở dài:
- Kỳ thực các bậc chí sĩ trong triều sao chẳng biết thông thương là biện pháp duy nhất khiên hai bên chung sống hòa binh. Thế nhưng chỉ có giành thắng lợi trên chiến trường mới có thể nói chuyện thông thương, nếu không lại thành trò cười như năm Gia Tĩnh 30.

- Nếu như các người thắng, làm sao đảm bảo sẽ không bắt nạt bên ta?

- Ta chính là sự bảo đảm.
Thẩm Mặc bình thản nói:
- Hiện giờ ta chưa tới 35, cách lúc nghỉ hưu còn 35 năm nữa, chỉ cần ngày nào ta còn, sẽ đảm bảo thông thương công bằng.

Chung Kim nhìn y rất lâu mới gật đầu:
- Hi vọng sư phụ không lừa đồ nhi.

- Không đâu.
Thẩm Mặc mỉm cười:
- Còn có gì muốn nói với ta nữa không?

-....
Chung Kim nghĩ một lúc rồi lắc đầu.

Trong mắt Thẩm Mặc thoáng qua vẻ thất vọng, nhưng không nói gì.

Ngồi ở bên ngoài một lúc, Thẩm Mặc trở về lều của mình, không ngờ Lục Cương mặc áo đen chờ bên trong.

Thẩm Mặc không hề bất ngờ với vị khách không mời này, vỗ vai hắn hỏi nhỏ:
- Sao rồi.

- Bọn chúng ta đã trừ bỏ được ba chỗ, nhưng không dám đảm bảo đã phát hiện tất cả.
Lục Cương đáp:
- Cháu kiến nghị, bỏ lễ bái tế ngày mai.

Thẩm Mặc trầm ngâm một lúc rồi lắc đầu:
- Không được, lần này chúng ta đại biểu triều đình bái tế Thành Cát Tư Hãn, là để lung lạc những đầu lĩnh Mông Cổ kia, nếu bỏ chẳng phải hiệu quả trái ngược sao?

- Nhưng đám Bạch Liên giáo quá ngông cuồng.
Lục Cương lo lắng:
- Thúc biết không, bọn chúng chôn 2000 cân thuốc nổ dưới tế đàn, đó mới là chỗ chúng ta phát hiện được, chưa biết chúng còn chiêu tàn độc gì nữa.

- Đó là vấn đề của ngươi.
Thẩm Mặc khoát tay ngăn hắn nói tiếp:
- Ta lấy lý do trời mưa tới muộn một ngày là để ngươi giải quyết vấn đề.

Lục Cương đấu tranh một lúc rồi nghiêm nghị nói:
- Thúc phải đồng ý một việc mới được.

- Việc gì?

- Giao nữ nhân bên ngoài cho cháu, cháu nhất định cậy miệng ả ra.
Lục Cương mắt lóe lên vẻ tàn độc:
- Ả là học sinh của Tiêu Cần, hơn nữa gần đây không lâu gặp hắn hai lần, rất có khả năng là kẻ tham dự hạch tâm vào kể hoạch này.

Thẩm Mặc gật đầu, không phản bác lời Lục Cương.

Lục Cương vừa định hạ lệnh bắt người thì Thẩm Mặc gọi lại:
- Nữ tử này tính tình cương liệt, muốn dùng biện pháp cứng rắn là không thể... Đợi thêm đi.

- Đợi tới khi nào?
Đối với Lục Cương mà nói, giờ mỗi gây đều quý.

- Nửa đêm...

Lục Cương lùi đi, Thẩm Mặc ngồi xuống ghế tựa, hai mắt khép lại, vẻ mặt nặng nề.

Không biết ngồi bao lâu, Thẩm Mặc bị tiếng địch ai oán đánh thức, tiếng địch nức nở giữa đem khuya cảm nhiễm tâm tình của y. Thẩm Mặc sờ tay vào lòng, đã 10h30, vời thời "mặt trời mọc làm, mặc trời lặn nghị", thì đã là đêm khuya rồi.

Y đứng dậy đi ra khỏi lều, bên đống lửa, thấy Chung Kim đang nhắm mắt thổi địch, ánh trăng chiếu lên người nàng, làm thiếu nữ đanh đá quả cảm này trông đáng thương tội nghiệp, như thành một người hoàn toàn khác.

Thẩm Mặc yên tĩnh đứng đó, đợi Chung Kim tấu xong một khúc mới đi tới.

- Sư phụ...
Nghe thấy tiếng động, Chung Kim thấy Thẩm Mặc định đứng dậy.

- Ngồi đi.
Thẩm Mặc ngồi xuống thảm da dê:
- Sao còn chưa ngủ?

- Không ngủ được.

- Vẫn phiền não vì chuyện kia sao?
Thẩm Mặc mỉm cười hỏi:
- Đó không phải vấn đề cô giải quyết được, ngủ sớm đi.

- Không phải.
Chung Kim lắc đầu nói nhỏ:
- Đồ nhi đang nghĩ tới mình.

- Ồ...
Thẩm Mặc không tiện nói gì, y là sư phụ, không phải sư nương.

- Sư phụ.
Chung Kim chủ động hỏi:
- Sư phụ có thích ai không?

- Hỏi cái này làm gì?
Thẩm Mặc xấu hổ ho một tiếng.

Thấy cao nhân nho nhã có vẻ mặt này, Chung Kim cảm thấy rất thú vị:
- Chẳng lẽ không có? Có điều người cổ hủ như sư phụ, chắc là rất quy củ, nghe lệnh cha mẹ, tới ngày thành hôn mới biết sư nương thế nào, thật đáng buồn...

- Sai rồi.
Thẩm Mặc cười:
- Đời này ta rất ít làm việc ngoài quy củ, nhưng cũng có hai ba việc, đều liên quan tới sư nương..

- Mau nói đi.
Chung Kim giục.

- Thôi vậy.
Thẩm Mặc hơi xấu hổ.

- Nói được một nửa, làm người hồi hộp chết.
Chung Kim không chịu.

- Vậy kể vắn tắt thôi, có ba việc: Một là khi ta còn thiếu niên, từ dưới nước bò lên thuyền nữ quyến, nhìn thấy một cô gái đẹp như tranh vẽ; một là năm xưa ta đi thi, về quê vừa khéo cùng cô gái đó cùng thuyền, kết quả gặp giặc Oa, ta ôm nàng nhảy xuống sông; một nữa là, lão trượng nhân không đồng ý hôn sự này, ta liền đổi tên đến nhà người, xử lý được phụ thân nàng, cuối cùng ôm mỹ nhân trở về...

- Thật không ngờ sư phụ cũng có lúc phóng túng như vậy.
Chung Kim lẩm bẩm.

- Ai chẳng có lúc tuổi trẻ phóng túng?
Thẩm Mặc chìm trong hồi ức.

- Sư nương thực hạnh phúc làm người ta đố kỵ..
Chung Kim si dại nhìn Thẩm Mặc.

- Không...
Thẩm Mặc đau khổ lắc đầu:
- Trong lòng nàng rất buồn, ta không chỉ có tiểu thiếp, khi còn trẻ ta từng phong lưu bên ngoài, quan trong hơn ta ít quan tâm tới nàng.

- Đó là vì quốc gia...
Nhìn thấy vẻ ưu thương trên mặt y, Chung Kim cảm thấy rất không đành, dịu dàng an ủi:
- Nữ nhân có thể chịu đừng được chờ đợi mỏi mòn, chỉ cần sư nương cảm thụ được trái tim của sư phụ...

- Chờ đợi là một loại dày vò, ta lại để nàng bị dày vò quá nhiều...
Thẩm Mặc thở dài:
- Đời này ta phụ nàng quá nhiều.

- Nếu sư nương nghe được lời này, nhất định cảm động phát khóc.
Chung Kim khóe mắt tràn ra giọt lệ hoa.

- Cô khóc trước rồi kìa.
Thẩm Mặc trêu:

- Vì đồ nhi cũng cảm động...
Chung Kim lau nước mắt, nhưng càng lau nước mắt càng nhiều, có là đồ ngốc cũng nhìn ra, nàng không đơn thuần là cảm động.

Thẩm Mặc có hơi luống cuống, ngẩng đầu lên liền thấy Lục Cương dẫn người tới cách đó không xa, khẽ lắc đầu bảo họ đừng tới vội.

Chung Kim ngừng khóc, hai mắt xưng húp nhìn Thẩm Mặc:
- Sư phụ đồng ý với đồ nhi một việc được không?

- Việc gì?

- Ngày mai đừng đi tế thánh tổ.
Chung Kim hạ quyết tâm, sắc mặt trở nên thản nhiên:
- Vì một vị sư phụ khác của đồ nhi muốn hại người.

Thẩm Mặc im lặng một lúc mới chậm rãi nói:
- Vì sao lại nói với ta?

- Vì...
Chung Kim cắn chặt môi dưới:
- Sư phụ không thể chết.

- Nếu vậy ta không thể không hỏi, vì sao cô biết?

- Sư phụ không hỏi người khác cũng sẽ hỏi.
Chung Kim đột nhiên cười, nụ cười lộng lẫy như hoa núi:
- So với bị bức cung, không bằng khai với sư phụ...
Liền đem hết chuyện biết được kể cho y.

- Đây là tử tội, cô còn cười được sao?

- Nếu như sư phụ muốn giết đồ nhi.
Chung Kim đắc ý vạch trần:
- Thì đã chẳng tốn thời gian dạy dỗ đồ nhi. Nói cho cùng là sư phụ yên thương đồ nhi, sao nỡ giết đồ nhi được...

- Đó là vì khi đó ta chưa biết mưu đồ của cô, giờ biết rồi, đáng chết thì phải giết.
Thẩm Mặc làm bộ mặt hung dữ nói.

- Sư phụ đừng dọa, không nhìn xem đồ nhi là học sinh của ai?

- Chết đi.
Thẩm Mặc cười mắng, đứa học sinh này quá thông minh, thủ đoạn không có tác dụng:
- Không phải nể cha cô, ta đã mặc xác.

- Vì báo đáp ơn cứu mạng...
Ánh mắt Chung Kim đột nhiên trở nên nóng bỏng, nàng biết một số lời không nhân đêm nay nói ra, vĩnh viễn không có dũng khí mở miệng nữa:
- Để đồ nhi lấy thân báo đáp.

- Khụ.
Thẩm Mặc suýt chết sặc:
- Nói bậy bạ gì đó, cô biết lấy thân báo đáp là gì không?

- Là làm nữ nhân của sư phụ...
Chung Kim áp sát Thẩm Mặc, y liên tục lùi về, đám hộ vệ có chức trách bảo vệ, trố mắt nhìn cảnh ướt át diễn ra trước mắt.

- Ta là người có gia thất rồi.
Thẩm Mặc giọng run lên, lời phản kháng của y rất yếu ớt.

- Đồ nhi không tới kinh thành làm sư nương thương tâm đâu, đồ nhi nguyện làm tình nhân thảo nguyên của sư phụ...
Chung Kim phát ra những lời kinh người.

Thẩm Mặc thấy cổ họng khô rang, cuống cuồng bò dạy, ném lại một câu:
- Muộn rồi, mau về ngủ đi, mai còn lên đường.
Rồi chạy trối chết.

~~~o0o~~~~~

Sáng ngày hôm sau Thẩm Mặc tẩm rửa xong, mặc triều phục, ra khỏi doanh trướng.

Chung Kim đợi ở bên ngoài, tinh thần rất tốt, xem ra đêm qua không bị Lục Cương làm khó, bỏ đi vẻ tâm sự nặng nề, khôi phục hoạt bát trẻ trung của thiếu nữ:
- Sư phụ hôm nay thật uy nghi.

Thẩm Mặc nhớ lại chuyện đêm qua phải cố nghiêm mặt hắng giọng nói:
- Hôm nay làm đại sự quốc gia, đương nhiên phải trang trọng.

- Đồ nhi cũng muốn mặc giống sư phụ.
Chung Kim nũng nịu.

- Hôm nay bái tế tổ tiên của cô, sao có chuyện mặc Hán phục?
Thẩm Mặc nghiêm mặt lại.

- Mặc kệ.
Chung Kim nhõng nhẽo:
- Đồ nhi muốn mặc giống sư phụ cơ.

Thẩm Mặc không chịu nổi nàng làm nũng, đành phất tay nói:
- Thay triều phục cho biệt cát đi.

Hai thị nữ cung kính dẫn Chung Kim cười tươi như hoa đi thay y phục.

Nhìn trời xanh cỏ biếc, hưởng thụ gió mát thảo nguyên, Thẩm Mặc khôi phục an tường thong dong. Chuyện đêm qua, nếu nói lòng y không xao động là không thể, nhưng chỉ rất ngắn ngủi, lòng y rất mau chóng tỉnh táo lại... Có lẽ y làm quan quá lâu, luôn suy bụng ta ra bụng người.

Mặc dù nữ tử thảo nguyên dám yêu dám hận, nhưng Chung Kim bày tỏ thật quá đột ngột. Khi đó tình hình là Lục Cương đã tới, cho dù nàng có bày tỏ với mình cũng vẫn bị bắt thẩm vấn, đối với một nữ tử mà nói, đó là tai họa.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui