Nhưng vừa ra khỏi bờ, chúng lại quay trở vào, có lẽ đã nghĩ ra được một cách gì khác để tìm bọn mất tích. Chúng để lại ba tên coi xuồng còn bao nhiêu đều trở lên bờ đi tìm đồng lõa. Cách bố trí ấy của chúng gây trở ngại lớn cho chúng tôi. Nếu chiếc xuồng mà thoát khỏi tay chúng tôi thì dù có tóm được cả bảy tên trên bờ cũng chẳng nên công chuyện gì! Bọn canh xuồng thấy động tất nhiên sẽ nhảy lên xuồng chạy trốn về tàu; đến nước ấy nhất định chiếc tàu sẽ giương buồm đi thẳng và thế là chúng tôi sẽ mất hết há vọng cướp lại chiếc tàu. Oái oăm hơn nữa là bọn này lại chuyển chiếc xuồng ra ngoài xa và bỏ neo cách bờ một quãng. Cơ sự này thì bao nhiêu điều mưu tính trước đều đổ nhào cả. Chúng tôi đành chờ xem tình thế xoay chuyển ra sao để liệu bề tính kế. Bảy tên lên bộ đi sát nhau thành hàng chữ nhất như dàn trận mà tiến về phía trái núi bên nhà tôi. Nhờ thế, chúng tôi thấy chúng rất rõ ràng mà chúng không thể thấy chúng tôi được. Chúng tôi rất mong chúng lại gần hơn nữa để nổ súng vào chúng dễ dàng, hoặc là chúng đi ra xa hơn để chúng tôi ra khỏi chỗ nấp mà không bị lộ.
Lên tới đỉnh núi, ở đó có thể nhìn bao quát được một phần lớn cánh rừng và những thung lũng trong đảo, nhất là về phía đông bắc là phía thấp hơn hết, chúng lại gọi ầm lên cho đến lạc cả giọng. Hình như chúng không dám liều lĩnh đi sâu vào nữa, sợ gặp nguy hiểm; chúng lại ngồi xuống bàn cãi lung tung. Nếu lúc đó chúng thấy mệt mà có "sáng kiến" muốn nằm ngủ thì tốt quá! Nhưng quả là chúng đã lo sợ đến nỗi không còn đầu óc nào nghĩ đến nằm ngủ nữa, mặc dầu chúng chưa biết mảy may gì về tai họa đương đe dọa chúng. Theo dői cử chỉ và thái độ của chúng, viên thuyền trưởng đoán già rằng chúng sẽ nổ một loạt súng thứ hai nữa để làm hiệu cho đồng lõa. ông bèn bàn mưu là sau khi chúng bắn xong chưa kịp nạp đạn, tất cả chúng ta sẽ nhảy xổ tới dùng vũ lực bắt chúng phải qui hàng, như thế thì sẽ không phải đổ một giọt máu nào. Mẹo ấy quả thật hay nhưng phải làm cho thật đúng lúc, gọn và nhanh. Muốn vậy, phải tiến lại thật gần để chúng không kịp trở tay được.
Nhưng mưu thần ấy cũng tan ra mây khói vì không gặp được cơ hội. Chúng tôi cứ nhìn nhau một hồi lâu, chẳng biết tính liệu ra sao! Cuối cùng, theo ý tôi, phải chờ trời tối vậy. Nếu đến tối mà chúng chưa trở về tàu thì sẽ kiếm cách chặn đường chúng ra bờ biển rồi liệu kế trà trộn với chúng cùng lên xuồng mà bắt buộc chúng phải trở vào bờ. Như thế kể cũng phiêu lưu thật nhưng cũng không có cách gì khác. Chúng bàn cãi một hồi lâu trên đỉnh núi rồi đứng cả dậy kéo nhau ra phía bờ biển. Thôi thế là hỏng bét cả rồi! Có lẽ chúng đã hình dung một cách khủng khiếp những tai nạn đương chờ chúng ở hòn đảo hoang vắng này! Bởi thế cho nên chúng mới trở về tàu, tiếp tục cuộc hành trình, bỏ mặc bọn đồng lõa đã biệt tăm biệt tích. Thấy chúng quay trở ra tàu đột ngột như thế, viên thuyền trưởng như cháy cả ruột gan. Để đối phó với tình thế gay go đó, tôi bèn nghĩ ra một mưu bắt chúng phải quay trở lại chỗ cũ và quả nhiên chúng tôi đạt được kết quả mong muốn. Tôi phân công viên thuyền phó và Thứ sáu làm nhiệm vụ dử địch. Hai người sẽ qua bên kia cái vịnh nhỏ ở phía tây, tới chỗ hồi trước tôi đã cứu Thứ sáu khỏi bọn thù địch. Tới một ngọn đồi nào đó, họ sẽ hú ầm lên và đứng lại cho đến lúc biết chắc là những quân kia đã nghe tiếng họ.
Nghe bọn kia trả lời thì họ lại hú lên một tiếng nữa rồi tiếp tục đi thành một đường vòng cho kín đáo. Tới mỗi ngọn đồi, họ lại hú lên như thế để dử quân địch đi sâu dần vào trong rừng. Cuối cùng, họ sẽ theo một con đường riêng trở về chỗ chúng tôi nấp. Bọn kẻ cướp mới bước chân vào xuồng thì những tiếng hú thứ nhất vang tới. Vừa nghe thấy, chúng nhảy bổ ra, chạy vội lên mé bờ biển phía tây tức là theo hướng tiếng kêu. Bị cái vịnh nhỏ chắn lại, chúng không thể qua bên kia được vì nước triều đang lên to lắm. Thế là chúng phải đem chiếc xuồng lại để vượt qua vịnh, đúng như tôi đã dự tính, trước khi đưa chúng vào bẫy. Qua được bên kia, chúng đem giấu xuồng vào một chỗ kín ở sâu trong vịnh rồi kéo nhau đi, chỉ để lại hai tên trông xuồng. Bọn này đem xuồng buộc vào một cây to gần đó. Thật là quá hợp ý muốn của tôi. Trong khi Thứ sáu và viên thuyền phó tiếp tục nhiệm vụ, chúng tôi đi vòng sang bên kia vịnh rồi bất ngờ đánh úp bọn gác xuồng. Một tên nằm trong xuồng, còn một tên nằm dài trên bãi cát, nửa ngủ nửa thức. Chúng tôi ập tới thì tên này thức dậy; hắn đương ngơ ngác thì viên thuyền trưởng đi trước đã nhảy xổ lại giáng cho một báng súng, hắn ngã lăn quay bất tỉnh. Tiếp đó, ông lên tiếng gọi tên trong xuồng và bảo nó phải qui hàng nếu muốn toàn mạng. Tên này cũng chẳng phải nghĩ ngợi lâu la gì.
Vốn cũng là một trong mấy người lương thiện miễn cưỡng theo bọn bất lương, anh ta qui thuận ngay và tình nguyện đi theo giúp chúng tôi hết sức. Trong lúc đó thì Thứ sáu và viên thuyền phó chơi trò ú tim khéo đến nỗi cứ vừa gọi vừa trả lời, họ đã dử bọn côn đồ từ ngọn đồi này qua ngọn đồi khác, làm cho chúng mệt lử và lúng túng chẳng biết đường nào mà lần. Họ chỉ buông tha chúng sau khi đã lừa chúng vào khá sâu trong rừng, không còn có thể mò trở ra xuồng trước khi trời tối mịt. Khi hai người về tới chỗ hẹn thì cũng đã mệt nhoài ra cả rồi. Nhưng họ vẫn còn rộng rãi thì giờ nghỉ ngơi vì chúng tôi quyết định chờ đêm đến mới tấn công vào bọn địch để dễ bề chiếm phần thắng. Bọn kia trở về đến gần chỗ để xuồng sau Thứ sáu mấy tiếng đồng hồ. Chúng tôi nghe rő ràng những tên đi trước giục bọn đi sau rảo bước. Nhưng bọn đi sau trả lời là chúng đang mệt gần chết, không nhấc nổi chân lên nữa. Nắm được tình hình địch như thế, chúng tôi lại càng vững lòng cầm chắc phần thắng trong tay. Chúng tỏ vẻ kinh hoàng quá sức khi thấy nước triều đã rút, chiếc xuồng nằm trơ trên bãi cát không người trông coi. Chúng gọi nhau í ới, nghe thật thảm hại. Chúng than thở với nhau rằng chúng đã vô phúc đặt chân lên một hòn đảo kỳ quái: nếu trên đảo có người thì chúng sẽ bị giết hết không còn một mống hoặc nếu có ma quỉ thì chắc chắn cả bọn sẽ bị nhai sống nuốt tươi. Chúng lại kêu ầm lên và gọi tụi đồng lõa từng tên một, nhưng chẳng có một ai trả lời. Trong lúc tranh tối tranh sáng, chúng tôi thấy chúng chạy ngược chạy xuôi, xớn xơ xớn xác, hai tay vặn nhau tỏ vẻ tuyệt vọng. Có lúc chúng chạy vào trong xuồng để nghỉ một chút cho đỡ sợ; nhưng rồi chúng lại nhảy ra khỏi xuồng, chạy tán loạn trên bãi cát chẳng hiểu đi đâu.
Chúng loanh quanh như thế khá lâu và hốt hoảng hết sức. Các bạn của tôi đều muốn nhảy xổ ra đánh chúng cùng một lúc.
Nhưng tôi lại muốn thu hoàn toàn thắng lợi mà chỉ phải đổ rất ít máu. Tôi bèn cương quyết chờ, hi vọng chúng sẽ phân tán. Để ngăn không cho chúng trốn thoát, tôi tìm cách thu hẹp vòng vây lại dần. Tôi bảo Thứ sáu và viên thuyền trưởng trườn về phía chúng, càng gần càng tốt, nhưng đừng để bị lộ. Hai người vừa tiến được một đoạn thì tên hạ sĩ trên tàu tình cờ quay lại và đi về phía họ cùng với hai tên nữa. Chính tên hạ sĩ này là một trong những tên cầm đầu nhưng bây giờ, trong cơn nguy khốn, nó lại tỏ ra hèn nhát và tuyệt vọng hơn hết. Có lẽ nó định bỏ bọn kia mà đi trốn chăng! Nhưng quả là nó đã hết phúc. Viên thuyền trưởng rất mực căm thù tên khốn kiếp ấy. ông cố hết sức nén giận để bình tĩnh chờ nó lại gần mà hạ thủ cho chắc tay. May sao ông đã trấn tĩnh được và chỉ mấy phút sau, ông đã nhảy vùng ngay dậy cùng Thứ sáu và nổ súng luôn. Tên hạ sĩ bị bắn chết ngay; một tên khác trúng đạn bị thương ngã xuống, hai giờ sau thì cũng chết, còn tên thứ ba bỏ chạy trốn mất. Nghe tiếng súng, tôi chỉ huy "đại quân" xông lên. "Đại quân" của tôi gồm tám người: Tôi là tổng tư lệnh, Thứ sáu là phó tư lệnh, binh sĩ gồm có viên thuyền trưởng, hai người bạn của ông, ba người tù đã được tha và được cấp súng ống.