Gặp lại
Đó là chuyện khi nào nhỉ?
—— Lời tựa.
Mấy năm gần đây, tôi gần như không muốn gặp lại anh.
Cơ thể hao gầy của anh, ánh mắt hao gầy, cùng nét cười hao gầy. Làn da anh hiện lên những đường vân thật mờ dưới ánh mặt trời đầu thu, ngón tay anh cầm điếu thuốc trong đêm tối tịch mịch. Những điều này đều đã từng xuất hiện trong những xó xỉnh lơ đãng của cuộc sống, nhưng, chỉ độc giọng nói, giọng nói ngỡ đã khắc sâu dường như lại tan biến trong trí nhớ, chưa bao giờ vang lên. Vì thế, tôi tưởng mình có thể rời bỏ tất cả những thứ này, càng ngày càng xa, cho đến khi chúng biến mất hẳn.
Đã ba năm không nhìn thấy anh, tôi hai sáu tuổi, sống một mình ở Hạ Môn, ổn định kiếm tiền tích trữ, vẫn viết kịch bản không chừng mực.
Cuộc sống thong dong, ấm áp ở Hạ Môn rất thích hợp với tôi. Có đôi khi tôi lên tầng trên cùng của Pizza Hut bên bờ biển để ăn Black Forest, có đôi khi đứng bồi hồi ở một góc đường trên đảo Cổ Lãng mang phong cách phương Tây, có đôi khi đi đi lại lại trên bờ cát ngoại thành Hạ Môn, có đôi khi, chỉ là có đôi khi bất chợt, tôi đau xót lén lặn xuống đáy biển, đáy biển tĩnh lặng.
Có lẽ, tôi có thể học được sự thông minh của anh, sự tốt đẹp của anh, nhưng vĩnh viễn không học nổi sự hờ hững của anh. Một buổi chạng vạng mùa thu, tôi bước vào một hàng sách trong ngõ nhỏ ở Đài Loan, bắt gặp ‘Người tình’ của Duras, quyển sách rất dày, bìa ngoài đen trắng, giá phải hơn một trăm tệ. Nó đang đứng cô độc ở trên giá, kêu gọi tôi đọc lên câu kia, “tôi yêu khuôn mặt em khi còn là thiếu nữ, nhưng càng yêu khuôn mặt đã bị tàn phá của em”.
Đọc thầm một lần, thấp giọng đọc một lần, bỗng nhiên điên cuồng bỏ chạy.
Từ hồi rời đi tôi đã không dùng điện thoại, chạy thật lâu, lau mồ hôi nhìn ngã tư đường hiện lên trước mắt, cuối cùng thở dốc tìm trạm điện thoại công cộng.
Ba năm có thể quên rất nhiều chuyện nhỏ, kể cả số điện thoại. Sau bảy tám lần, giọng nói của anh mới vang lên, giọng nói trầm ấm khiến tôi quên cả thở dốc, hoàn toàn không nói nên lời.
Nếu không phải anh nghi hoặc gọi tên của tôi, tôi nghĩ có lẽ mình đã cúp máy, chờ ba năm nữa, nhìn thấy một quyển của Duras, sau đó lại chạy như điên.
“Em nhớ anh rồi.” Tôi cười.
Anh yên lặng hồi lâu, rồi đột nhiên mắng tôi: “Em chết ở đâu vậy? Chạy về đây ngay!”
“Về đâu cơ?”
“… Đến nơi chúng ta ước hẹn đi, anh ở Cửu Giang.”
“À, mai em sẽ đến.” Tôi đặt ống nghe, mặc cho tóc dài dính vào hai bên má, thầm nghĩ thế này chẳng phải không có tự trọng ư? Mà sao tôi lại không có tự trọng chứ, tôi rất tốt mà, nhưng vì cớ gì luôn trở nên nhỏ bé như vậy trước mặt anh?
Bước thong thả chậm rãi trên đường về, cuối cùng thả hồn theo những tưởng tượng của chính mình. Mỗi ngày anh sống ở Hạ Môn, mỗi một bước, mỗi lần quay đầu, khi anh uống rượu ở ven đường, lớn tiếng chào hỏi bạn bè, cười rộ lên ha ha, anh viết văn, sau đó không viết được liền đến hàng tạp hóa mua thuốc lá, không mua được sẽ ngồi xổm ở bên đường, khi đó, anh có thật tình thật lòng nhớ tới tôi không? Có lẽ nếu nghĩ tới cùng sẽ cảm thấy là không. Trước kia tôi chưa từng tưởng tượng về anh, chỉ cố gắng chạm khắc những dấu vết cuộc sống của mình ở Hạ Môn, tôi muốn nó trở thành của tôi, liều mạng xóa đi những vết nhăn mờ và lưu luyến của chính mình, nhưng, tôi thất bại…
~*
~Cửu Giang lạnh hơn, tôi đứng trong sân bay, đôi chân trần dưới lớp váy ngắn hơi run rẩy. Cầm lên di động mới mua, nhắn tin cho anh, những lời lẽ xa lạ kia dù có gợi lên chuyện cũ cũng không còn mang theo hồi ức quá nặng nề nữa.
Chờ chưa đến mười phút, đột nhiên tôi bị một người ôm lấy từ phía sau. Ôm ấp rất ngột ngạt, áo da khiến nó không ấm áp, nhưng, vẫn dịu dàng. Tôi càng run rẩy dữ dội, rồi dần dần bình tĩnh, giãy dụa quay người sang bên định ôm trả, nhưng lại bị anh xoa rối tóc dài.
“Trần Nhiễm!” Tôi trừng mắt nhìn, thốt gọi cái tên mà bản thân đã tìm mọi cách để quên đi, hóa ra dễ nghe như thế.
Anh cười, khiến tôi nhìn đến thất thần. Vẫn là ánh mắt hao gầy, sống mũi cao thẳng, bờ môi mỏng nhạt, cười rộ lên tuyệt đối không giống thư sinh trí thức, tóc ngắn vẫn rối như trước. Gương mặt anh hai bảy tuổi không có nhiều thay đổi, nhưng khuyết thiếu một thứ gì đó, thoạt nhìn so với trước kia như hai người khác biệt. Thứ gì đó, gọi là sinh mệnh.
“Anh bị bệnh à?” Tôi sờ sờ mặt anh.
“Em nói bệnh gì chứ?” Trần Nhiễm nhìn lại mình từ trên xuống dưới.
Có vẻ ngoại trừ ánh mắt, chỗ nào cũng không khỏe mạnh, tôi tức giận quay người: “Chỉ là thắc mắc sao anh còn chưa bệnh chết.”
Cứ thế, tựa như chưa từng rời anh mà đi, tựa như chúng tôi từ đầu đến cuối vẫn luôn ở bên nhau.
Sắc trời hơi âm u, tôi để hành lý ở khách sạn, mặc một chiếc áo choàng dày, theo anh như đôi vợ chồng già tản bộ ra ngoài tìm chỗ ăn. Dọc đường đi không biết phải nói gì, trầm lặng bình thản, ai cũng có tâm sự. Cơm không phải rất ngon, hai chúng tôi mỗi người uống nửa chai bia, tán gẫu về những cuốn tiểu thuyết mới đọc gần đây, sau đó càng nói càng hăng say, giống như hai sinh viên khoác vai dựa lưng không thể kiềm chế được. Trông anh có vẻ say, kéo tôi bước lảo đảo du đãng trên đường lớn, sau nửa đêm đến lưu manh cũng phải về nhà. Vào lúc sao trời sáng nhất, anh đứng giữa đường rống lên vài câu hát dân gian, sau đó vẫy tay về phía tôi: “Hi, girl, marry?”
Tôi ngây ngẩn nhìn anh, nghĩ rằng chẳng lẽ say thật rồi? Anh chu miệng, buông thõng tay, ánh mắt nhìn tôi như một đứa trẻ, đèn đường rọi mông lung.
“Nếu không thì em còn đến đây làm gì chứ?” Tôi mỉm cười quan sát anh.
Trần Nhiễm loáng một cái đã đến bên giữ chặt tôi: “Vậy đi.”
Đi đến cục dân chính, đợi suốt đêm, rồi tôi bị đánh thức vào lúc đang dựa trên vai anh ngủ mơ màng, chúng tôi làm giấy chứng.
Tôi kết hôn.
“Đây, cho em một nửa.” Anh đong đưa một nửa tờ giấy chứng nhận kết hôn màu đỏ bị xé rách trước mắt tôi.
Đầu óc tôi hỗn loạn: “Có phải anh bị bệnh không?!”
“Đùa em thôi, đó là tờ khác, vừa lấy ở trong phòng.” Anh vui vẻ, xoa xoa gương mặt xanh mét của tôi. Mắt tôi chớp chớp vài cái, cho đến khi bị ánh bạc thu hút: “Vợ à, nhẫn kết hôn.”
Tôi yên lặng nhìn anh luồn nhẫn vào ngón tay mình, rất đẹp, còn có cả kim cương nữa.
“Có phải anh bị bệnh không?” Tôi lặp lại lời vừa nãy, rồi lần đầu tiên sau ba năm, tôi ôm anh.
*