5
Em chẳng biết tại làm sao
Mình lại xa nhau vậy
Tưởng như mới hôm qua
Anh còn gọi em yêu
Mà giờ em chỉ một mình
Nước mắt không ngừng rơi
Hãy làm lại từ đầu
Anh yêu ơi em muốn làm lại từ đầu
Vì em chưa sẵn sang
Để anh đi
“Làm lại từ đầu”
Trình bày: Heather Wells
Sáng tác: Valdez/Caputo
Album: Sugar Rush
Cartwright Records
***
Vì đây là New York, nơi mỗi ngày xảy ra không biết bao nhiêu ca tử vong chẳng phải vì những lý do tự nhiên, nên phải mất bốn tiếng phòng giám định pháp y mới đến và kiểm tra xác của Elizabeth.
Viên giám định đến vào lúc 3g30, và đến 3g35, người ta tuyên bố Elizabeth Kellogg đã chết. Nguyên nhân cái chết - tron lúc chờ điều tra thêm và khám nghiệm tử thi - được ghi là do tổn thương nặng, gãy cổ, lưng và xương chậu, kèm theo vô số vết xây xát ở mặt và tay chân.
Cứ cho rằng tôi là đứa mơ mộng đi, nhưng tôi không nghĩ có ai trong giới sinh viên sẽ cố lãng mạn hoá cái chết này khi chúng biết chuyện đâu.
Tệ hơn nữa, viên pháp y còn nói rằng ông nghĩElizabeth phải chết được gần 12 tiếng rồi. Có nghĩa là cô bé đã nằm dưới đáy cái giếng thang đó từ đêm hôm trước.
Và dù sao thì, ông nói Elizabeth lao xuống nền xi măng nên đã chết ngay lập tức. Chứ không phải là cô bé nằm đó thoi thóp cả đêm.
Nhưng gì thì gì...
Chẳng có cách nào che được cái xe của bên pháp y, hay một cái xác mà cuối cùng cũng được người ta cáng ra khỏi toà nhà để cho vào xe. Trước 4g chiều, toàn thể sinh viên ở Fischer Hall đã biết có người bị chết trong toà nhà. Rồi khi thang máy hoạt động trở lại, và chúng được phép dùng thang máy để trở về các tầng, thì cũng là lúc chúng biết làm sao cô bé kia lại chết. Ý tôi là, dù gì thì cũng là sinh viên đại học: chúng đâu có ngu. Làm sao lại không biết cộng 2 với 2 thành 4 chứ
Nhưng t ôi chả có thời gian đâu mà bận tâm đến việc 700 cư dân của Fischer Hall sẽ phản ứng với cái chết củaElizabeth như thế nào. Bởi vì tôi còn phải quan tâm xem bố mẹ của Elizabeth sẽ phản ứng thế nào khi nghe tin về cái chết con gái họ.
Đó là vì Ts. Jessup đã quyết định - một quyết định được Ts. Flynn hậu thuẫn - rằng do những liên lạc từ trước của Rachel với bà Kellogg liên quan đến việc tiếp bạn của Elizabeth, cho nên Rachel nên là người gọi điện báo tin cho phụ huynh của cô gái bị chết.
“Như thế người ta sẽ đỡ sốc hơn,” Ts. Flynn bảo với mọi người, “vì dù sao cũng nghe được cái tin này từ một giọng nói quen thuộc.”
Sarah bị “trục xuất” khỏi văn phòng không kèn không trống khi quyết định được ban ra, nhưng tôi thì Ts. Jessup yêu cầu ở lại.
“Đó sẽ là một điều an ủi với Rachel.” ông nói.
Rõ ràng là ông chưa từng nhìn thấy Rachel tả xung hữu đột trong căng-tin ra sao, mắng mỏ nhân viên quầy salad như thế nào vì họ đã lỡ cho nhầm nước sốt salad nguyên mỡ vào lọ sốt không mỡ, như tôi đã làm. Rachel không phải loại người cần được ai đó an ủi.
Nhưng tôi là cái thá gì mà dám cãi chứ?
Cảnh tượng này thật đau lòng muốn chết đi được, và trước khi Rachel cúp máy, tôi có cảm giác như mình sắp bị một cơn đau nửa đầu kèm theo một cái bao tử đang lộn cù mèo tra tấn.
Dĩ nhiên, đó có thể là do 11 cái kẹo Jolly Rancher và túi khoai tây chiên Fritos mà tôi đã xơi thay cho bữa trưa nay. Làm sao mà biết được!
Ấy thế mà Ts. Jessup còn làm cho các triệu chứng ấy của tôi càng trở nên tồi tệ hơn. Buồn bực vì những lời nhận xét của Ts. Allington, vị thư kí phó chủ tịch của chúng tôi đã quẳng ngay sự cẩn trọng cùng với các khuyến nghị về sức khoẻ của New York cho gió cuốn đi mà ghé mông vào cạnh bàn của Rachel và hút thuốc điên cuồng. Chả ai có ý định mở cửa sổ. Là bởi vì các cửa sổ văn phòng của chúng tôi ở ngay tầng 1, và cứ mỗi lần ai đó mở cửa sổ ra thì y như rằng lại có một gã cha căng chú kiết nào đó tiến đến và hét vào “Cho tí khoai chiên ăn cùng nhá?”
Đến lúc ấy tôi chợt nhớ ra là Rachel đã hoàn thành các cuộc gọi, và rằng chị ta cũng chẳng cần đến tôi để có cảm giác được an ủi nữa. Tôi chả giúp gì thêm được nữa.
Thế là tôi đứng lên và nói “Tôi xin phép về trước.”
Tất cả mọi người cùng ngước lên nhìn tôi. May thay Ts. Allington đã đi khỏi từ lâu, vì vợ chồng ông có một căn nhà ờ Hamptons và họ có thể thẳng tiến tới đó bất cứ lúc nào.
Chỉ có điều hôm nay bà A. nhất quyết không chịu đi bằng cửa trước - vì chiếc xe tải pháp y đang đậu ngay trên lối đi, đằng sau xe cứu hoả. Tôi phải tắt chuông báo động để bà ta có thể ra khỏi toà nhà bằng cửa thoát hiểm bên hông căng-tin, cánh cửa mà các nhân viên bảo vệ vẫn dùng để dẫn các vị khách quý đặc biệt của gia đình Allington vào Fischer Hall - ví dụ như gia đình Schwarzenegger chẳng hạn - khi họ tổ chức bữa tiệc tối, để không bị đám sinh viên làm phiền.
Con trai độc nhất của gia đình Allington - một cậu rất điển trai đầu hai đuôi chơi vơi, chuyên mặc quần áo của hãng Brooks Brother, hiện đang sống trong khu học xá dành cho các học viên cao học, và theo học tại khoa luật của trường, ngồi sau bánh lái chiếc Mercedes màu xanh lá cây khi họ rời khỏi toà nhà. Ts. A cẩn thận đỡ bà vợ vào băng ghế sau, xếp mấy cái túi đựng các thứ đã chuẩn bị sẵn để qua đêm vào cốp, rồi nhảy lên ghế trước ngồi cạnh cậu con trai. Christopher Allington vút đi nhanh đến nỗi những người đang dự hội chợ đường phố - ừ, vậy đấy, đám hội chợ vẫn tiếp diễn, mặc cho xe cứu hoả và xe giám định pháp y đang nằm chình ình ngay đó - phài lao vội lên vỉa hè vì tưởng có ai muốn cán chết mình đến nơi.
Nói cho các bạn nghe nhé: nếu ông bà A. mà là bố mẹ tôi, tôi cũng sẽ thử đuổi người ta chạy thục mạng thế xem thế nào.
Ts. Flynn đã “hồi phục” lại từ câu phát ng của tôi, rằng tôi sẽ ra về trước tất cả mọi người. Ông nói, “Dĩ nhiên rồi, Heather. Cô về đi. Chúng ta cũng không cần tới Heather nữa, phải không Stan?”
Ts. Jessup thở ra một hơi khói màu xám xanh.
“Cô về đi,” ông nói với tôi. “Đi uống chút gì nhé. Ly to vào.”
“Ôi, Heather,” Rachel kêu lên. Chị ta nhảy khỏi cái ghế quay của mình và, trước sự ngạc nhiên của tôi, vòng tay ôm tôi chặt cứng. Rachel chưa bao giờ bày tỏ tình cảm bằng tay chân với tôi cả. “Cám ơn cô rất nhiều vì đã ghé qua. Tôi chẳng biết chúng tôi sẽ làm gì đây nếu không có cô. Cô thật bình tĩnh trong cơn khủng hoảng.”
Tôi thật sự chả hiểu chị ta đang nói cái gì. Tôi có làm gì đâu! Tôi chắc chắn vẫn chưa mua cho chị ta mấy bông hoa như ông Jessup gợi ý. Có thể, tôi có trấn an mấy đứa sinh viên phụ việc và thuyết phục cô ta dẹp trò khiêu vũ của cô ta đi, nhưng chỉ thế thôi, thật! Chả có gì to tát kiểu cứu nhân độ thế ở đây cả.
Tôi dáo dát nhìn khắp nơi, trừ mặt mọi người, khi Rachel ôm tôi. Ôm Rachel thật sự giống như là ôm... ờ, một cái sào. Bởi chị ta gầy kinh khủng! Tôi thấy hơi hơi tội nghiệp chị ta. Có ai lại muốn ôm một cái sào chứ? Tôi tin chắc mấy thằng cha vẫn ngày đêm chạy theo mấy cô người mẫu đích thị là những tay thích ôm sào. Nhưng ý tôi là, loại người bình thường nào lại muốn ôm, hay được ôm, bởi một đống toàn xương xẩu cơ chứ? Nếu chị ta xương xẩu tự nhiên thì đã đành một lẽ. Nhưng tôi tình cờ biết được Rachel đã cố tình bỏ đói bản thân để được gầy như vậy.
Thật chẳng phải chút nào!
May thay Rachel đã buông tôi ra gần như ngay lập tức, và tôi nhanh chân rời khỏi văn phòng mà chẳng nói thêm lời nào, phần lớn là vì tôi sợ nếu mở miệng nói gì đó thì chắc tôi sẽ phát khóc mất. Không phải khóc vì cái sự gầy gò của Rachel đâu, mà là gì tất cả mọi thứ có vẻ thật phí phạm. Ý là, một cô gái bị chết, bố mẹ cô ấy suy sụp. Mà vì cái gì chứ? Một “cuốc” tìm cảm giác mạnh trên nóc thang máy ư?
Tôi thấy điều ấy thật vô lý đùng đùng!
Chuông báo động lối thoát hiểm khi có cháy vẫn tắt nên tôi rời toà nhà bằng lối đó, cảm thấy nhẹ nhõm vì không phải đi ngang qua bàn tiếp tân. Bởi vì tôi thật sự nghĩ rằng tôi sẽ sụm mất nếu có ai đó nói với tôi thêm bất cứ lời nào. Tôi phải đi bộ suốt quãng đường đến đại lộ 6 và vòng qua khối nhà để tránh đụng mặt những người quen - đi ngang Banana Republic, hàng này chắc chắn có đồ size 12, nhưng thường thì chẳng mấy khi còn hàng, vì đó chính là size phổ biến nhất ở Mỹ mà, và họ chả bói đâu ra đủ hàng để treo trên giá cho tất cả mọi người - nhưng hàng họ thế bán chạy cũng phải. Lúc này tôi chả có tâm trí đâu để nói chuyện tào lao với bất kì ai.
Thế mà, buồn thay, khi chưa kịp bước tới cửa chính, tôi chợt phát hiện ra rằng việc “nói chuyện tào lao” là điều không thể tránh khỏi. Bởi vì, người đang đi tha thẩn trước bậc thềm nhà tôi kia chính là cựu hôn phu của tôi, Jordan Cartwright.
Giờ thì tôi tin chắc ngày hôm nay sẽ không thể nào tệ hơn được nữa.
Anh ta đứng phắt dậy khi thấy tôi, tắt ngay cái di động nãy giờ đang lãi nhãi với ai đó. Ánh nắng buổi chiều tà làm nổi bật những lọn tóc vàng của anh ta, và mặc cho cái nóng như mùa hè Ấn Độ đang như thiêu như đốt, những đường li ủi trên chiếc áo sơ-mi trắng của anh ta và - ừ, tôi rất tiếc phải nói thêm điều này, chiếc quần tây trắng đồng màu vẫn thẳng thớm không chê vào đâu được.
Với bộ cánh màu trắng, chiếc vòng vàng quanh cổ, trông anh ta chẳng khác nào một thành viên vắng mặt không xin phép của một boyband cực tồi. Và tiếc thay, anh ta đúng là một tay như vậy.
“Heather,” Jordan nói khi vừa nhìn thấy tôi.
Tôi không sao đọc đươc ý nghĩ qua đôi mắt màu xanh lơ của anh ta vì chúng đã bị đôi tròng kính Armani che khu. Nhưng tôi tin chắc là đôi mắt đó, như mọi khi, đang tràn trề một niềm quan tâm trìu mến đối với tình hình của tôi.Jordan rất giỏi ở khoản làm cho mọi người lầm tưởng rằng anh ta thật sự quan tâm đến họ. Đấy cũng chính là một phần lý do khiến cho album solo đầu tiên của anh ta, “Baby, Be mine,” đã đạt được 2 đĩa bạch kim và đứng ở vị trí số 1 trên Total Request Live hàng tuần.
“Em đây rồi,” anh ta nói. “Anh cứ tìm em mãi. Coop chắc không có nhà nhỉ. Em không sao đấy chứ? Anh xuống đây ngay khi nhận được tin.”
Tôi chỉ chớp mắt. Anh ta đang làm cái quái gì vậy? Tôi với anh ta chia tay rồi cơ mà. Chả lẽ anh ta không nhớ?
Chắc không đâu. Rõ ràng anh ta có tập thể dục. Tập rất hăng là đằng khác. Cơ bắp cuồn cuộn thế kia cơ mà.
Hay anh ta bị tạ rơi vào đầu?
“Con bé đó sống trong toà nhà em làm, phải không?” anh ta nói tiếp. “Con bé trên đài ấy? Con bé bị chết ấy?”
Ông trời thật vô cùng bất công khi để cho một người trong hấp dẫn nhường ấy lại... ừm, chả có chút cảm xúc gì gọi là giống với con người cả.
Tôi lôi chùm chìa khoá từ túi trước quần jeans ra.
“Đáng lẽ anh không nên đến đây, Jordan,” tôi nói. Những người xung quanh đang dòm chúng tôi chằm chặp - chủ yếu là bọn bán thuốc phiện. Bọn ấy quanh đây có mà đầy, bởi vì trường tôi, với mục đích “dọn dẹp” công viên Washington Square cho học sinh (và, quan trọng hơn, cho bố mẹ chúng) đã gây rất nhiều áp lực buộc cảnh sát địa phương phải đuổi hết bọn buôn bán ma tuý và những người vô gia cư khỏi khu vực công viên, dạt tới các phố xung quanh, như phố tôi đang sống chẳng hạn.
Dĩ nhiên lúc nhận lời đề nghị của anh trai Jordan cho đến sống cùng, tôi không biết vùng lân cận lại tệ đến thế. Ý tôi là, bạn cứ nghĩ mà xem, đây là Greenwich Village từ lâu đã không còn là nơi trú ngụ của những nghệ sĩ nghẻo kiết xác nữa, kể từ sau khi giới trẻ giàu có sành điệu lũ lượt chuyển đến, làm thay da đổi thịt cả khu và từ khi giá thuê nhà tăng lên vút trời xanh. Tôi đoán chỗ này ít ra cũng phải ngang ngửa với Park Avenue - nơi tôi từng sống với Jordan, một nơi mà “mấy cái loại đó”, như Jordan vẫn thường gọi họ, đơn giản là chẳng bao giờ bén mảng đến.
Cũng tốt, bởi vì “mấy cái loại đó” rõ ràng chẳng tài nào rời mắt khỏi Jordan được - và không chỉ bởi cái vòng vàng khoe hàng lộ liễu trên cổ anh ta đâu.
“Này!” một tên trong đám đó rú lên. “Mày là cái thằng đó hả? Này, có phải mày là cái thằng đó không?”
Jordan, vốn đã quá quen với chuyện thường xuyên bị lũ thợ săn ảnh quấy rối, chả thèm động lấy một sợi lông nheo.
“Heather,” anh ta nói, bằng cái giọng mềm mỏng nhất - cái giọng mà anh ta đã dùng để song ca với Jessica Simpson trong tour Get Funky của họ vào mùa hè vừa rồi. “Thôi mà em, lý trí một tí đi. Chuyện tình cảm giữa hai ta không thành, không có nghĩa là ta không làm bạn với nhau được. Hai ta đã trải qua bao nhiêu thứ cùng nhau. Thậm chí đã lớn lên cùng nhau cơ mà.”
Đoạn này thì đúng. Tôi gặp Jordan từ cái hồi vừa ký hợp đồng thu âm với hãng của bố anh ta, hãng Cartwright Records; khi đó tọi mới chỉ là một đứa con gái 15 tuổi dễ bị “say nắng”, còn Jordan 18. Hồi đó, tôi chân thành tin vào hành vi nghệ thuật đau khổ quằn quại của anh ta. Tôi đã tin sái cổ khi anh ta khăng khăng bảo rằng anh ta, cũng như tôi, ghét cay ghét đắng những bài hát mà hãng bắt anh ta hát. Tôi cũng đã tin khi anh ta nói rằng anh ta, cũng như tôi, sắp sửa thôi không hát những bài đó nữa, và sẽ bắt đầu hát những bài mình tự sáng tác. Tôi đã tin anh ta đến mức dám cả gan nói với hãng rằng, hoặc là tôi hát bài của tôi, hoặc tôi không hát nữa, và hãng đã chọn cách thứ 2... Còn Jordan, thay vì nói với hãng (hay còn gọi là bố anh ta) củng một điều như thế, đã quay ngoắt sang nói với tôi rằng, “Có lẽ ta nên nói chuyện về vấn đề này, Heather à
Tôi dáo dát liếc nhìn xung quanh để chắc chắn màn trình diễn hiện tại của anh ta không để phục vụ một cái máy quay bí mật nào đó. Tôi hoàn toàn tin rằng anh ta đã ký hợp đồng với một “sô” hiện thực. Anh ta thuộc loại người chả bao giờ ngại ngùng tẹo nào khi ngồi xem những thước phim về chính cuộc đời mình đang chiếu trên sóng truyền hình toàn quốc.
Cùng lúc đó toi chợt nhận ra chiếc BMW bỏ mui màu bạc đỗ cạnh vòi nước trước khu nhà.
“Xe mới nhỉ,” tôi nói. “Bố anh cho à? Phần thưởng vì anh đã cặp chả được Tania Trace đấy hả?”
“Thôi nào, Heather,” Jordan nói. “Anh đã nói với em rồi. Chuyện với Tania... không phải như em nghĩ đâu.”
“Đúng rồi,” tôi vừa nói vừa cười. “Tôi đoán là cô ta chỉ bị ngã, và đầu cô ta chỉ tình cờ hạ xuống vùng chậu của anh thôi, phải không nào?”
Và Jordan đã làm một việc rất đáng ngạc nhiên. Anh ta gỡ phắt cặp kính râm ra, cúi xuống nhìn tôi rất chăm chú. Tôi lại nhớ đến cái lần đầu tiên gặp anh ta - ở Mall of America. Hãng - nói đúng hơn là bố của Jordan - đã sắp xếp cho ban nhạc của Jordan, Easy Street, và tôi đi lưu diễn cùng nhau trong một nỗ lực nhằm lôi kéo số lượng tối đa các em tuôi teen - và bố mẹ chúng, cũng như túi tiền của bố mẹ chúng - đến xem.
Lúc ấy Jordan cũng nhìn tôi bằng ánh mắt chăm chú như đang nhìn tôi lúc này. Câu “em yêu, em có đôi mắt xanh chưa từng thấy” mà anh ta hát khi ấy nghe chẳng có vẻ gì là lẳng lơ cả.
Nhưng tôi thì biết gì chứ? Tôi bị giằng ra khỏi trường trung học ngay trong năm đầu tiên và bắt đầu rong ruổi từ đó, lúc nào cũng có người kè kè bên cạnh và chỉ được tiếp xúc với những cậu trai bằng tuổi khi họ đến xin chữ. Làm sao tôi biết được cái câu “Em yêu, em có đôi mắt xanh chưa từng thấy” đó chỉ là một câu tán tỉnh?
Phải đến vài năm sau tôi mới ngộ ra được, khi cái câu “em yêu, em có đọi mắt xanh chưa từng thấy” đó xuất hiện trong một bài hát ở Album solo đầu tay của Jordan. Hoá ra anh ta đã tập đi tập lại cái câu đó đến nhuyễn cả rồi. Mà lại phải tập sao cho thật chân thành nữa cơ.
Hồi đó thì tôi chết đứ đừ.
“Heather,” Jordan chợt nói, khi những tia sáng mặt trời lọt qua những ngọn cây cùng các toà nhà ở phía tây và chiếu lên những mảng vuông vức trên khuôn mặt đẹp trai, có hơi măng tơ của anh ta. “Giữa 2 ta, anh và em, đã xảy ra nhiều chuyện. Em có chắc là em muôn quay lưng ngoảnh mặt không? Ý anh muốn nói, không phải là anh hoàn toàn không có lỗi trong chuyện này. Chuyện với Tania... ừ, anh biết em nhìn chuyện đó ra cái gì rồi.”
Tôi trợn mắt nhìn anh ta, không thể tin nổi vào tai mình nữa.
“Ý anh là tôi đã nhìn ra cô ta đang “thổi kèn” anh chứ gì? Ừ, thì tôi đã nhìn ra như thế đấy.”
Jordan nhăn mặt như thể vừa bị tôi thụi cho một quả rất đau.
“Đấy, em thấy chưa?” anh ta khoanh tay trước ngực. “Em thấy chưa, đấy chính là điều anh muốn nói. Khi mình mới gặp nhau, Heather, em không bao giờ nói những lời thô bỉ như thế. Em đã thay đổi rồi. Đấy chính là một phần của mọi vấn đề. Em không còn là cô gái mà anh biết hàng bao năm trước nữa...”
Tôi nghĩ rằng nếu anh ta mà liếc xuống nhìn vòng eo của tôi, cái chỗ đã thay đổi nhiều nhất so với 10 năm trước đây, tôi sẽ quật cho anh ta một trận nhừ tử.
Nhưng may là anh ta đã không nhìn.
“Em đã trở nên... anh chẳng biết phải nói thế nào nữa... trở nên khó chịu, anh nghĩ thế,” anh ta nói tiếp. “Sau những gì em phải trải qua với mẹ và ông bầu của em, chẳng ai trách em được. Nhưng Heather à, đâu phải ai cũng lăm le cướp tiền của em và trốn sang Argentina như bọn họ chứ. Em phải tin anh khi anh nói là anh không hề cố ý làm tổn thương em chứ. Bọn mình chỉ là ngày càng cách xa nhau, em và anh. Bọn mình muốn những điều khác nhau. Em muốn hát những bài em viết, và em chả thèm bận tâm làm như thế sẽ huỷ hoại sự nghiệp của em... phần còn lại trong sự nghiệp của em. Trong khi anh thì, anh muốn...”
“Này!” bỗng nhiên tên bán ma tuý ré lên. “Mày là Jordan Cartwright!”
Tôi không tài nào tin nổi là điều này lại xảy ra. Đầu tiên là Elizabeth, giờ lại đến chuyện này.
Anh ta muốn gì ở tôi chứ? Tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu ra được. Thằng cha này 31 tuổi, cao 1m83, cực đáng giá - đáng giá hơn nhiều so với con số 100.000 đô la một năm mà Rachel vẫn tìm kiếm ở người bạn đời theo tiêu chuẩn của chị ta. Tôi biết bố mẹ anh ta chẳng hào hứng gì khi bọn tôi chuyển đến sống chung với nhau. Chẳng hay ho gì chuyện 2 ca sĩ teen được yêu thích nhất của hãng lại cặp kè với nhau...
Nhưng phải chăng toàn bộ mối quan hệ của chúng tôi chỉ là ột nỗ lực công phu nhằm trả đũa ông bà Grant Cartwright vì đã để cậu con trai nhỏ của mình thử giọng cho câu lạc bộ Mickey Mouse, đúng như lời cầu xin của cậu hồi 9 tuổi, để giờ đây điều đó đang trở thành nổi ô nhục của cậu? Bởi hẳn nhiên các rocker thực thụ sẽ chẳng bao giờ có những tấm ảnh mình mọc tai chuột Mickey cách tuần lại được in trên tờ Teen People...
“Jordan,” tôi nói, cắt ngang khi anh ta bắt đầu liệt kê những gì anh ta muốn trong đời, chủ yếu có liên quan đến việc gì đấy kiểu như là mang một chút ánh sáng đến cho mọi người, và như thế thì có gì là sai? Chỉ có điều, tôi chưa bao giờ nói thế là sai. “Anh làm ơn đi đi được
Tôi xô qua người Jordan, chìa khoá lăm lăm trong tay. Kế hoạch của tôi bây giờ là phải mở cửa và vào nhà trước khi anh ta kịp ngăn tôi lại. Nhưng với 3 tầng cửa khoá phải mở, tôi e khó lòng mà thoát cho nhanh được.
“Anh biết em không xem anh là một nghệ sĩ chân chính, Heather,” Jordan nói tiếp. Và cứ thế nói tiếp, “nhưng anh dám chắc với em rằng việc anh không viết những bài anh hát chẳng có nghĩa là anh không sáng tạo bằng em. Giờ anh hầu như đã tự thực hiện được tất cả các phần vũ đạo của anh rồi đấy. Cái điệu anh nhảy trong video ‘Giờ chỉ còn anh và em’ ấy? Em biết không, đoạn này này?” Anh ta nhảy một bước Jazz, đồng thời đánh hông, ngay trước thềm nhà. “Của anh hết đấy. Anh biết với em như thế chẳng nhiều nhặn gì, nhưng em không nghĩ là đã đến lúc em soi kĩ lại đời mình hay sao? Gần đây em đã làm gì thật sự mang tính nghệ thuật nào? Cái kí túc xá ngu xuẩn kia...”
Xong 2 khoá. Chỉ còn một cái nữa thôi.
“... và sống ở đây với bọn nghiện ma tuý lởn vởn ngay trước thềm nhà... mà lại sống với Cooper! Với Cooper, chứ chẳng phải ai khác! Em thừa biết gia đình anh nghĩ thế nào về Cooper mà, Heather!”
Đúng là tôi có biết gia đình anh ta nghĩ gì về Cooper. Thì cũng giống như cách họ nghĩ về ông nội của Cooper, người đã công khai tuyên bố mình là người đồng tính vào năm 65 tuổi, rồi mua một ngôi nhà chung cư trát vữa màu hồng rực rỡ ngay trong Làng, sau đó lại viết di chúc để nó cho đứa cháu trai chiên ghẻ của gia đình - người sau đó đã chuyển vào căn nhà có vườn này, biến tầng giữa thành văn phòng thám tử, và nhường tầng trên cùng cho tôi, miễn tiền nhà (đổi lại hàng ngày tôi phải giúp anh ấy làm hoá đơn) khi biết chuyện tôi bắt quả tang Jordan và Tania đang tình tang với nhau.
“Ý anh là, anh biết chẳng có chuyện gì xảy ra giữa 2 người,” Jordan nói. “Đó không phải là điều anh lo lắng. Em không phải tuýp của Cooper.” Jordan nói đúng. Buồn thay!
“Anh tự hỏi không biết em có biết rằng Cooper từng có tiền án tiền sự chưa. Tội cố ý làm hỏng các công trình nghệ thuật ấy. Đúng là lúc đó anh ta còn vị thành niên, nhưng gì thì gì, vì chúa, Heather, anh ta chả có chút ý thức tôn trọng gì đối với tài sản công cộng cả. Anh ta đã phá nguyên một cái bảng quảng cáo của Easy Street ngoài rạp hát, em biết chưa??! Anh vẫn ý thức được là anh ta luôn ghen ghét với tài năng của anh, nhưng anh sinh ra đã tài thế rồi thì đâu phải lỗi của anh...”
Ổ khoá thứ ba bung ra. Tôi tự do rồi!
“Chào anh, Jordan,” tôi nói, luồn vào nhà, rồi đóng cửa thật cẩn thận. Tôi không muốn đóng cửa đánh sầm vào mặt anh ta, làm anh ta bị thương. Không phải vì tôi còn quan tâm đến anh ta, mà chỉ vì tôi nghĩ làm thế là bất lịch sự.
Với cả có khi bố anh ta sẽ kiện cáo tôi hay gì đó cũng nên. Ai mà biết được!