[*] Từ gốc là “重峦”, mang nghĩa “núi non trùng điệp, quanh co”.
Minh Hoa Thường không hề tập trung trong lúc ăn bát cơm, lòng nàng cứ có cảm giác khó chịu, như có thứ gì đó đã được đặt ngay trên mặt bàn nhưng lại bị nàng bỏ qua.
Minh Hoa Thường tin vào trực giác của mình, cảm giác nội tâm sẽ không dối gạt nàng, nàng quyết định quay trở lại hiện trường án mạng, có lẽ là nàng đã bỏ sót thứ gì đó thật rồi.
Minh Hoa Thường gánh tên tuổi của phủ Giang An Hầu, không ai dám vặn hỏi nàng. Nàng ra khỏi Nghiễm Hàn Nguyệt Uyển rồi đi vòng quanh đại sảnh, thấy xung quanh không có ai bèn chui vào gian phòng ngăn nhỏ ở hành lang phía Đông, tiến vào hiện trường vụ án theo lối đi bí mật thêm một lần nữa.
Lần này, bên cạnh Minh Hoa Thường không có người nào khác, nàng phải tự làm hết tất cả mọi thứ, nhưng cũng có thể đặt mình vào vị trí của nhân vật hung thủ nhiều hơn. Minh Hoa Thường cố hết sức di chuyển cái giá, đẩy lối bí mật ra.
Cảnh vật trước mắt vẫn giống lần trước khi mà họ thấy. Minh Hoa Thường lại trở về vị trí trước bàn, bản thân nàng ngồi thẳng vào vị trí Trương Tử Vân ngồi khi chết, đổi sang góc nhìn của người chết.
Minh Hoa Thường dựa vào bàn, ngẩng đầu nhìn xà nhà, nàng cảm nhận cả một lúc lâu, cảm thấy hơi kỳ lạ.
Nếu nàng là Trương Tử Vân, khi ngồi ở nơi này, nàng sẽ làm gì nhỉ? Minh Hoa Thường dò la kiểm tra xung quanh, thử nghiên cứu xem tâm trạng của Trương Tử Vân ngay lúc đó là gì. Nàng vô tình nhìn xuống đống giấy trên mặt đất, chợt ngẩn người ra.
Vì sao những bức tranh này trông không hề tự nhiên, còn bị quay ngược lại nữa? Nàng giật mình trong chốc lát rồi bỗng hiểu ra.
Đúng vậy, sơ hở rõ ràng như vậy mà vì sao lúc trước nàng không phát hiện ra! Giấy vẽ xung quanh bị chuyển tới đây, rõ ràng không phải là do bị quăng ra từ chỗ này. Xem ra Trương Tử Vân ngồi ở chỗ này không hề vẽ, trong tay hắn ta cũng không có rượu, nếu vậy thì, chắc là hắn ta không chỉ ngồi không ở chỗ này và nhìn xà nhà đâu nhỉ?
Điều này chứng tỏ, nơi này không phải chỗ Trương Tử Vân bất tỉnh, mà là sau khi hắn ta chết, hắn ta mới bị kéo tới bên cạnh bàn!
Minh Hoa Thường đứng dậy, nàng thử đặt mình vào vị trí của Trương Tử Vân, suy nghĩ xem vốn dĩ nàng nên ở nơi nào. Minh Hoa Thường nhìn quanh một lượt, chú ý tới cái bàn trà nhỏ.
Nhìn giấy chồng chất trên mặt đất, Trương Tử Vân càng vẽ thì lại càng xấu, tâm trạng hắn ta đã trở nên cực kỳ bực bội rồi. Trong tình huống này, rất có thể hắn ta sẽ “mượn rượu giải sầu”, chưa uống được một nửa đã bị bất tỉnh vì Điệp mộng tán, thế nên, đến tận khi hung thủ đi vào, hắn ta vẫn luôn chìm trong hôn mê.
Minh Hoa Thường tới gần bàn trà, chỉ thấy trên bàn có bày biện một bộ dụng cụ uống rượu Tây Vực tinh xảo, có một cái ly lăn dưới mặt đất, bên chân bàn còn có một vò rượu chưa mở. Theo như lời Nguyệt Hồ nói, lẽ ra ở nơi này còn một vò rượu đã uống được một nửa.
Gần như Minh Hoa Thường đã dính sát vào mặt đất, vì nàng đang muốn tìm kiếm dấu vết khả nghi. Nàng nằm sấp lâu nên lúc đứng dậy, nàng thấy hơi chóng mặt, khuỷu tay vô tình đụng vào và làm rơi đồ vật sau lưng.
Kim loại rơi xuống mặt đất phát ra âm thanh lanh lảnh, Minh Hoa Thường hoảng sợ hơn, nàng vội đưa tay ra bảo vệ bầu rượu, toàn thân cứng ngắc, không dám cử động.
May mắn hữu kinh vô hiểm, bên ngoài không ai để ý đến tiếng động này, Minh Hoa Thường thở phào nhẹ nhõm, nàng để bầu rượu lại bàn, rồi nàng không nhịn được mà khẽ phàn nàn: “Là ai để bầu rượu ở mép bàn vậy? Không sợ sẽ đụng rơi nó à?”
Lúc sắp buông bầu rượu ra, động tác của Minh Hoa Thường bỗng khựng lại. Nàng nhìn chiếc chén đế cao được chạm khắc hoa văn hoa sen chăm chú, rồi lại nhìn bầu rượu cổ mảnh có hoa văn Ma Kết quấn cành trên tay, và im lặng thật lâu.
Minh Hoa Thường không hiểu nhiều về Phật, nhưng dù sao thì cũng nhận ra động vật mũi dài răng nhọn, thân và đuôi cá là Ma Kết, được Phật giáo tôn kính là sông tinh, gốc rễ sinh mệnh. Mà, hoa văn hoa sen trên chén rượu là loại hoa văn truyền thống nhất của Trung Nguyên, chỉ có điều, nó được kết hợp với kỹ thuật chùy thiệt của Túc Đặc [*].
[*] Chuỳ thiệt là quá trình làm dụng cụ bằng vàng. Dùng búa đập để tạo hình vàng. Túc Đặc ở đây là Sogdiana.
Một bộ dụng cụ bằng vàng đắt đỏ, tất nhiên là hoa văn phải đồng bộ rồi, chẳng có lý nào trên bầu rượu thì dùng hoa văn của Phật giáo, còn trên chén rượu thì lại dùng hoa văn của Trung Nguyên cả. Chỉ trừ phi, đây không phải là một bộ, mà bầu rượu đặt ở đây lúc ban đầu đã bị thay đổi.
Hung thủ đổi bầu rượu để làm gì? Trên bầu rượu có bí mật gì không thể để cho người khác biết ư?
Có một suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu Minh Hoa Thường, nàng có một phỏng đoán rất to gan.
Có phải là do trên bầu rượu cũng có chứng cứ giết người của hung thủ, một khi chứng cứ này bị bại lộ thì nó sẽ vạch trần hắn ta, đem đến cho hắn ta quả chí mạng hay không? Nhưng sau khi thi thể bị phát hiện ra, không có ai ở trong bao sương này cả, sau đó còn có quan phủ tới và dán giấy niêm phong lên cửa nữa. Có phải hung thủ không thể tiêu hủy hung khí nên chỉ đành nhân lúc nửa đêm vắng vẻ làm liều, quay trở lại hiện trường để lấy bầu rượu đi?
Mà, rượu này là do Ngọc Quỳnh chuẩn bị, trước khi tú bà tới, Ngọc Quỳnh và Trương Tử Vân đã uống rượu vẽ tranh.
Ý nghĩ này như một đốm lửa lóe lên trong đêm tối, thoáng chốc, nó bùng cháy dữ dội, và nó dễ dàng tháo gỡ được nỗi băn khoăn đã bủa vây Minh Hoa Thường trong một thời gian dài. Ánh sáng trong mắt Minh Hoa Thường sáng rực, có một con đường dần dần được thành hình trong đầu nàng.
Rốt cuộc thì nàng cũng hiểu chỗ nàng nghĩ mãi không thông là gì rồi. Minh Hoa Chương tìm thấy lối đi bí mật nhờ vào ánh sáng bị lộ ra ở vách tường. Nhưng mà, khi nhìn vào hiện trường vụ án, rõ ràng có thể thấy được rằng, hung thủ là một người rất cẩn thận, vậy thì tại sao lúc hắn ta rời khỏi hiện trường, hắn ta lại cẩu thả như thế? Đến cả lối đi bí mật mà cũng chẳng đóng kỹ nữa là sao?
Minh Hoa Thường còn tưởng rằng do hung thủ sốt ruột, hắn ta vội chạy trốn khỏi hiện trường nên khó tránh khỏi việc không suy nghĩ, lo liệu chu đáo được hết tất cả. Nhưng nếu là vì lúc rời đi, hung thủ không nhìn thấy chỗ này thì sao?
Bên trong Phong Tình Tư Uyển không có ánh sáng, gian phòng ngăn nhỏ cũng tối om, vì vậy, lúc hắn ta đóng cửa, hắn ta không hề biết rằng cửa chưa được đóng kín hoàn toàn. Nhưng mà, thời điểm người ta phát hiện Trương Tử Vân đã chết là nửa đêm, trong bao sương lại có ánh nến; còn vào sáng nay, khi câm nô lén lút tới gần bao sương, lúc ấy trời đã sáng. Sự tương phản sáng – tối giữa bên trong và bên ngoài rõ ràng như thế, người ta không thể không nhìn thấy được.
Thời điểm thỏa mãn điều kiện “không có ánh sáng” chỉ có mỗi đêm hôm qua thôi, vừa hay lại khớp với việc hung thủ cần phải vào hiện trường lần hai để tiêu hủy chứng cứ. Vì vậy, có thể loại câm nô ra khỏi diện tình nghi.
Và cũng có thể loại bỏ tú bà, dù sao thì tú bà cũng là người phát hiện ra thi thể sớm nhất mà. Vì nếu bà ta bỏ qua vật chứng quan trọng này, thì chỉ cần tiện tay giấu bầu rượu vào trong tay áo lúc gọi người là xong rồi, cần gì phải tới đây thêm một chuyến nữa ngay giữa đêm hôm khuya khoắt?
Tim Minh Hoa Thường đập rộn lên, huyết dịch trong người chảy xiết. Nói vậy, người thỏa mãn các điều kiện trên chỉ còn một người – nếu chỉ nhìn thôi thì sẽ ngỡ rằng tối qua người này không hề ra khỏi cửa, nhưng thật ra người này có thể nhảy từ cầu thang vào cửa sổ thông gió rồi lẻn vào lối bí mật – Ngọc Quỳnh!
Khó trách tại sao sau khi Minh Hoa Thường tiến vào hiện trường, nàng cứ cảm thấy cả căn bao sương tự nhiên cân đối, không thể nhìn ra được là nó đã bị người ta phá hỏng ở đâu. Đây là chỗ thông minh của hung thủ, tất cả đều rất hài hoà, đến cả bộ dụng cụ pha trà cũng là dụng cụ mang phong cách Tây Vực, ngoại trừ việc hoa văn trên đó hơi khác biệt ra.
Chi tiết này, ngoại trừ loại “tiểu phế vật” Minh Hoa Thường xuất thân phú quý, thích ăn thích uống ra, thì còn ai chú ý tới được nữa đây?
Minh Hoa Thường kích động, nàng vội đặt bầu rượu xuống chỗ cũ, nhấc vạt váy lên mà chạy ra ngoài.
Minh Hoa Thường thở hồng hộc chạy về lại hành lang phía Tây, trên đường đi, dù có va phải người khác thì nàng cũng không hề quan tâm đến. Nàng đẩy cửa phòng của Giang Lăng ra, kích động nói: “Huynh… Thế tử, ta đã biết!”
Giang Lăng đang muốn đi ra ngoài tìm nàng thì thấy cửa bị đẩy mạnh ra, hắn ta giật nảy mình. Hắn ta vội kéo Minh Hoa Thường vào trong phòng, đóng cửa lại rồi nói: “Ngươi điên rồi sao? Quên mất trước khi vào thì phải liên lạc bằng ám hiệu rồi à? Bên trong còn có người, nếu chẳng may bị người bên ngoài nhìn thấy thì phải làm sao?”
Bấy giờ Minh Hoa Thường mới dần nhớ lại, trong Huyền Kiêu Vệ có quy định này thật, là do nàng vui mừng tới nỗi ngốc nghếch, không ngờ lại quên mất đi một quy trình quan trọng như vậy. Minh Hoa Thường kìm nén sự hưng phấn trong mình lại, nhỏ giọng nói: “Ta biết hung thủ là ai rồi!”
Giang Lăng nhìn ba người khác đang bận bịu trong phòng, hắn ta nói: “Đúng lúc, ngay trước khi ngươi đẩy cửa ra thì Minh Hoa Chương cũng nói là hắn đã biết rồi, còn bảo ta tìm ngươi về ngay. Ta còn chưa đi ra ngoài thì ngươi đã tự về rồi. Hung thủ mà hai người các ngươi đoán ra được cùng là một người phải không?”
Minh Hoa Chương nghe thấy Minh Hoa Thường đã về thì ngước mắt lên nhìn rồi thản nhiên chìa tay ra với nàng: “Đến đây.”
Minh Hoa Thường chạy qua, Minh Hoa Chương nắm lấy tay nàng rồi kéo nàng tới bên cạnh mình một cách vô cùng tự nhiên.
Minh Hoa Thường tò mò nhìn phía trước, Nhậm Dao mài mực, Tạ Tế Xuyên vẽ tranh, Minh Hoa Chương chắp tay đứng ngoài quan sát, nhìn thế nào cũng thấy sự phối hợp này có chút kỳ dị.
Minh Hoa Thường nhìn một lúc lâu rồi chậm rãi nhận ra: “Tạ huynh vẽ bức bình phong dưới lầu kia à?”
“Là bắt chước.” Tạ Tế Xuyên nghiêm túc uốn nắn lại câu từ của nàng.
“À, vẽ.” Minh Hoa Thường hỏi: “Vẽ cái này làm gì?”
Cách Tạ Tế Xuyên hạ bút như bay, vẩy mực tạo nên núi sông dưới ngòi bút của mình, ngoại trừ việc đã thu nhỏ đi ra thì những chi tiết còn lại giống bức bình phong trong hành lang như đúc. Nghe thấy Minh Hoa Thường nói vậy, Tạ Tế Xuyên cong môi, trào phúng: “Ta cũng muốn biết ta làm cái này để làm gì.”
Minh Hoa Chương thấy hắn ta đã vẽ xong ngọn núi thứ nhất thì lên tiếng bảo hắn ta ngừng lại: “Ngọn núi kế tiếp vẽ lên một trang giấy khác. Nhậm Dao, ngươi cầm cái kéo cắt dọc theo vết mực.”
Giang Lăng cũng tới gần để “hóng hớt”, hắn ta kinh sợ như người nghe thấy trâu nhai mẫu đơn, khó tin đến nỗi bật ra câu hỏi: “Hả? Bức tranh đẹp thế này mà phải cắt đi sao?”
“Đúng, cắt.” Minh Hoa Chương thản nhiên nhìn Tạ Tế Xuyên, nói: “Họa sĩ hiểu rõ đại nghĩa, tầm nhìn sâu rộng, không để ý một bức tranh đâu.”
Tạ Tế Xuyên hừ lạnh một tiếng: “Ngươi biết quý trọng lòng tốt của người khác thật đấy.”
Minh Hoa Chương không trả lời Tạ Tế Xuyên, hắn thấy biểu cảm khó xử trên gương mặt của Nhậm Dao, bèn hỏi: “Sao vậy, không nỡ à?”
“Cũng không phải vậy.” Nhậm Dao thành thật nói: “Không có kéo.”
Trong một khắc nào đó, không khí như ngưng đọng lại, Minh Hoa Chương bình tĩnh nói: “Dùng dao rạch. Nhớ kỹ, phải cắt phần viền thật cẩn thận, rạch theo vết mực, không được để lại viền trắng.”
Minh Hoa Thường thấy cái cảnh Nhậm Dao và Giang Lăng cầm dao nhọn, ra sức ghé sát vào giấy mà rạch, quả thực là nàng chỉ biết im lặng như thế này thôi. Minh Hoa Chương thấy việc vẽ tranh và cắt đều cần phải có thời gian, bèn hỏi Minh Hoa Thường: “Ban nãy, khi muội chạy vào, muội nói đã biết cái gì?”
“À.” Minh Hoa Thường nhớ ra, nàng nói: “Nhị huynh, lúc muội kiểm tra hiện trường lần hai, muội phát hiện ra bầu rượu trên bàn trong Phong Tình Tư Uyển đã bị tráo đổi.”
Minh Hoa Chương lắng nghe nghiêm túc, dùng ngón tay ra dấu: “Là bầu rượu bên này ư?”
Minh Hoa Thường gật đầu, tới gần tay của Minh Hoa Chương ra hiệu: “Nơi đó có bày vò rượu và dụng cụ uống rượu. Muội kiểm tra dụng cụ uống rượu, phát hiện trên bầu rượu là hoa văn Ma Kết quấn cành, mà trên bốn chén rượu lại là hoa văn hoa sen. Nếu Thiên Hương các đã chi ra rất nhiều tiền để làm nên bộ dụng cụ uống rượu bằng vàng, thì không lý nào lại xảy ra chuyện bầu rượu và chén rượu không cùng một bộ với nhau, vậy nên, muội nghi ngờ bầu rượu đã bị người ta tráo đổi rồi. Đến tận bây giờ mà vẫn còn muốn quay về hiện trường vụ án, có thể thấy, ở bầu rượu có chứng cứ gây bất lợi cho hung thủ. Sau khi vụ án xảy ra và đi đến kết luận, hai điều này không ăn khớp với việc hung thủ bố trí phòng kín rất tỉnh táo, kín kẽ. Vì vậy, muội nghi ngờ, cái chết của Trương Tử Vân đã xảy ra sự cố, giữa chừng có người nào đó quấy nhiễu, hại kế hoạch ban đầu của hung thủ thất bại, buộc hắn ta phải chỉnh sửa lại kế hoạch vào phút chót.”
Minh Hoa Chương lắng nghe rất cẩn thận, thỉnh thoảng còn gật đầu đáp lại. Giang Lăng cắt không bén, Nhậm Dao không chịu nổi nên đẩy hắn ta ra, Giang Lăng vô công rồi nghề, nghe thấy nửa sau của câu mà Minh Hoa Thường nói thì hắn ta hỏi: “Theo như lời ngươi nói, chẳng phải hung thủ giết người chính là…”
Minh Hoa Thường, Minh Hoa Chương, và Tạ Tế Xuyên múa bút sau cái bàn, gần như đã nói ra cùng một lúc: “Ngọc Quỳnh.”
Vừa dứt lời, Tạ Tế Xuyên đã vẽ xong ngọn núi cuối cùng. Hắn ta buông bút lông xuống, thả lỏng cổ tay, cười nói: “Nhị muội muội, muội thắng rồi.”
Hắn ta cậy mình thông minh, dù Minh Hoa Chương có bảo hắn ta vẽ bức tranh của Ngọc Quỳnh, quan điểm của hắn ta cũng chưa bao giờ dao động. Nhưng mà, từ lúc Minh Hoa Thường trở về và nói rằng bầu rượu ở hiện trường đã bị tráo đổi, thì những dãy núi cao vút dưới ngòi bút của hắn ta, suy nghĩ của hắn ta chợt như con thuyền nhẹ nhàng lướt qua sông, xé tan màn đêm, nhìn thấy ánh sáng.
Hiếm có khi nào hắn ta chăm chỉ chuẩn bị, rồi lại thất bại trước trực giác của một tiểu cô nương. Hung thủ không phải là tú bà, mà là Ngọc Quỳnh.
Giang Lăng nghe mà cái hiểu cái không, hắn ta lại hỏi: “Không thể nào, sau giờ Tuất, Ngọc Quỳnh vẫn luôn ở bao sương phía Tây, mãi cho tới khi người ta phát hiện ra Trương Tử Vân, nàng ta cũng chẳng đi qua dãy bao sương phía Đông lần nào, nàng ta ra tay như thế nào?”
“Về chuyện này thì phải nhờ công dụng của những bức tranh này rồi.” Minh Hoa Chương nhìn Nhậm Dao, hắn hỏi nàng ấy: “Xong chưa?”
Nhậm Dao đặt bức tranh ngọn núi xanh đã được cắt xong xuống, bẻ bẻ ngón tay và nói: “Vẫn còn một bức.”
“Không cần cắt bức này nữa, có lẽ chỉ cần khua tay khua chân một chút là được.” Minh Hoa Chương thu các bức vẽ lại, sau đó hắn nói: “Tạ Tế Xuyên, Giang Lăng, Nhậm Dao, ba người đứng ra xa. Nhị nương, muội đi tới chỗ đối diện và cầm vào chỗ này.”
Minh Hoa Thường và Minh Hoa Chương sửa sang lại tờ giấy, cầm mép giấy lên và dựng nó đứng lên. Minh Hoa Chương hỏi: “Các ngươi nhìn thấy gì?”
Tạ Tế Xuyên khoanh tay, im lặng không nói gì. Giang Lăng nhún nhún vai, nói: “Một bức tranh có rất nhiều núi.”
“Vậy bây giờ thì sao?”
Giang Lăng nghiêng đầu, vô cùng hoang mang: “Chẳng phải đây là một bức tranh sao?”
“Còn bây giờ thì sao?”
Giang Lăng trầm mặc, không nói gì nữa, cái bóng trên mặt đất đã nói cho bọn họ biết tình hình thực tế. Tạ Tế Xuyên thở dài, bỏ cánh tay xuống rồi nói: “Nàng ta có thể nghĩ ra được cách thức này thì kỹ thuật vẽ của nàng ta thật sự rất cao siêu, lối suy nghĩ tài tình, có thể nói là vô cùng hiếm thấy.”
Minh Hoa Chương ra hiệu tỏ ý cất thứ này đi, Minh Hoa Thường cúi đầu, nhìn đầu ngón tay mình.
Giữa ngón tay nàng có vài lớp giấy, lúc Minh Hoa Chương lên tiếng, nàng đã lặng lẽ di chuyển lớp giấy ra xa. Nhưng mà, Giang Lăng nhìn xa lại cảm thấy đây là một bức tranh, bọn họ phải di chuyển hai lần thì hắn ta mới nhìn ra được.
Minh Hoa Thường thầm thở dài, nàng nghĩ là nàng đã biết Ngọc Quỳnh giết người dưới tầm mắt của tất cả mọi người như thế nào rồi.
Cấu trúc của Thiên Hương các rất đặc biệt, tất cả mọi người cảm thấy, nếu muốn đi từ dãy bao sương phía Tây sang phía Đông thì phải đi qua đại sảnh, bao gồm cả Minh Hoa Thường cũng thế. Trừ phi có tiên pháp thì con người ta mới có thể đi xuyên qua bức tranh.
Người ta nào có thể ngờ được rằng, quả thật là Ngọc Quỳnh đã đi qua trời đất trong tranh.
Lúc mắt ta nhìn một vật thể, nó sẽ tự động xử lý khoảng cách, bởi vậy nên mới có tranh sơn thủy. Không gian ngàn dặm, cao thấp trập trùng, đá lởm chởm được cô đọng lại trên một trang giấy mỏng, chẳng phải là ai cũng sẽ khen họa sĩ tài ba, bút pháp thần kỳ sao?
Ngọc Quỳnh bèn lợi dụng quy luật này của đôi mắt mà tạo ra ảo giác về thị giác. Nàng ta tỉ mỉ phối hợp thân núi lớn nhỏ, làm cho ngọn núi nào cũng đều được tồn tại trên một trang giấy riêng. Khi xếp các lớp lại với nhau, các ngọn núi có màu xanh lục và xếp chồng lên nhau từ phía trước, người xem sẽ vô thức cho rằng đây là một bức tranh hai chiều. Nhưng nhìn từ bên cạnh là sẽ biết ngay, núi không chỉ còn là những nét vẽ hiện lên trên trang giấy nữa, mà nó đã trở thành một sự tồn tại hữu hình, giữa lớp vẽ có một lối đi nhỏ dài.
Ngày đó, lúc bố trí vũ đài, hai bên rèm đều được buông xuống, Ngọc Quỳnh mua chuộc nha hoàn, để họ tháo dỡ các bức bình phong ở bức tường phía sau đại sảnh ra, xếp lại thành từng lớp để chính giữa có khe hở đủ để nàng ta đi qua.
Thân núi trập trùng được vẽ nên từ những bảo thạch quý giá nhất, nghìn năm không nát không tối, hiệu quả khi tô màu lên cực kỳ tốt. Một nữ tử cong lưng lại như mèo đi xuyên qua ở đằng sau, nếu không chú ý thì hoàn toàn không thể phát hiện ra được.
Người ngồi chính diện bị đánh lừa bởi chính đôi mắt của mình, theo lý mà nói, họ sẽ cảm thấy bối cảnh trước mắt mình là một bức tranh hai chiều nên sẽ không chú ý nhiều; tầm mắt Nguyệt Hồ và những khán giả ngồi ở một bên đã bị rèm che khuất; hơn nữa, sự chú ý của mọi người đều đã đặt ở vũ đài ở vị trí trung tâm rồi, sẽ không có ai chú ý tới cảnh nền.
Bằng cách này, Ngọc Quỳnh đã công khai đi xuyên qua từng lớp của bức tranh ngay trước mặt rất nhiều khách quan ở đại sảnh, sau khi giết người, nàng ta lại thản nhiên quay trở về.
Minh Hoa Thường còn nhớ ra được thêm một chi tiết nữa. Về phần bức bình phong sơn thuỷ được đặt ở đại sảnh mà Ngọc Quỳnh đã dày công vẽ nên trong một tháng, với năng lực của nàng ta, nếu đó chỉ là một bức tranh sơn thủy bình thường, lẽ ra sẽ không làm mất nhiều thời gian đến vậy mới phải. Nét vẽ thân núi phóng khoáng thoải mái, tầng tầng lớp lớp; thân núi được viền lại bằng một lớp màu đậm, có chất liệu đá khổng tước rực rỡ. Ban đầu Minh Hoa Thường cho rằng nó được dùng để móc dây, bây giờ nghĩ lại thì mới thấy, thật ra nàng ta đã dùng bột phấn bảo thạch đậm màu để che lấp đi khe hở ở giữa bức tranh.
Còn những mối nối bằng gỗ nho nhỏ trên giá của bức bình phong không phải là lỗi, mà chúng được người ta cố ý tạo nên. Khi tháo cái giá ra, người ta có thể chia những mảnh gỗ này ra thành những chiếc giá gỗ độc lập như mối nối gỗ, làm thân núi có thể đứng thẳng một mình được, sau đó thì lại thu hồi chúng về như một ngôi nhà lắp ráp, quay trở lại làm một bề mặt phẳng.
Hôm nay, lúc nàng nhìn bức bình phong sơn thủy ở dưới lầu, nha hoàn đã kiêu ngạo nói rằng vốn dĩ bọn họ chẳng hiểu bức tranh này muốn nói gì, Minh Hoa Thường cứ tưởng rằng nha hoàn đang châm chọc những tên văn nhân học giả học đòi văn vẻ, chứ nàng không hề biết rằng, chính nàng cũng là một kẻ không hiểu biết.
Nhìn vẻ mặt đó của nha hoàn thì có thể đoán ra được rằng, chắc là nàng ta cũng biết rõ sự thật đằng sau bức bình phong. Có lẽ, vào ngày hôm ấy, người giúp Ngọc Quỳnh sắp xếp bức bình phong đó là nàng ta. Cũng dễ xác nhận được phỏng đoán này lắm, chỉ cần hỏi một câu về hành tung của nha hoàn thôi là sẽ biết ngay.
Minh Hoa Thường nhớ tới bức tranh lư hương tiên cảnh ở hiện trường vụ án, hương khói lượn lờ bên ô cửa sổ, mang đến cảm giác vô cùng chân thật. Nàng nên nghĩ ra được từ sớm mới phải, Ngọc Quỳnh có thiên phú cực cao trong hội họa, nàng ta rất giỏi trong việc xử lý cảm nhận về không gian và hình học. Bức bình phong sơn thủy nghìn lớp chỉ là một trò đùa mà nàng ta bày ra trước mặt người xem.
Đáng tiếc thay, cả sảnh đường chỉ toàn là tân khách, ấy thế mà chẳng có lấy một tri âm, bọn họ chỉ là những kẻ phàm phu tục tử mà thôi.
Sau khi phát hiện ra bí mật ẩn giấu đằng sau bức bình phong, bấy giờ mới có thể xem là họ đã hoàn toàn phá giải được bí mật của căn phòng kín. Minh Hoa Thường bội phục, hỏi: “Ai nghĩ ra được vậy?”
Mấy người Nhậm Dao không nói gì mà chỉ nhìn sang Minh Hoa Chương. Minh Hoa Thường quay đầu lại, nghiêm túc hỏi: “Nhị huynh, chuyện này không hợp thói thường, sao huynh nghĩ ra được vậy?”
Minh Hoa Chương nói: “Thật ra, may mà có Giang Lăng, nếu hắn ta không nhắc nhở, ta cũng sẽ không nghĩ ra được cách này.”
Minh Hoa Thường nhìn Giang Lăng, Giang Lăng cũng bối rối, bán tín bán nghi mà chỉ vào mình: “Ta?”
“Đều nói mắt thấy mới là thật, tai nghe là giả, ai có thể ngờ được rằng, ánh mắt cũng biết gạt người đâu. Giống như việc trên đĩa sứ có vết nứt vậy, trên đó chỉ toàn là vết nứt, dù có thêm một vết nứt thật đi chăng nữa, thì ánh mắt của con người ta cũng sẽ tự động bỏ qua, không để ý đến nó. Nhờ Giang Lăng nhắc nhở, ta mới nhận ra rằng, chưa chắc là có thể tin vào mắt mình.”
Minh Hoa Chương cũng phải cảm thán, hắn thở dài: “Nữ tử tài hoa như thế mà lại ở thanh lâu, không thể không mua vui chuốc cười nịnh nọt ân khách, thật bi ai biết bao. Nếu gia tộc của nàng ta không gặp chuyện xui rủi, thì với thiên phú này của nàng ta, chắc chắn nàng ta sẽ nổi danh khắp Trường An, trở thành một họa sĩ nổi danh của quốc gia sau Diêm Hữu tướng.”
Minh Hoa Thường nghe mà tâm trạng nặng trĩu theo, Nhậm Dao cũng xót thương theo. Giang Lăng thấy tất cả mọi người đều trầm lặng, hắn ta gãi gãi đầu, thật sự là không nhịn nổi nữa nên mới lên tiếng hỏi: “Vậy nàng ta tráo đổi bầu rượu để làm gì thế? Tại sao tú bà lại phải chuốc thuốc Trương Tử Vân?”
“Những chuyện này phải hỏi Ngọc Quỳnh rồi.” Minh Hoa Chương thoát ra khỏi nỗi niềm thương cảm rất nhanh, đôi mắt đen sáng ngời, hắn vẫn như thế – vẫn mang dáng vẻ của một người đội trưởng tỉnh táo, lý trí, sát phạt quyết đoán: “Và mục tiêu trong chuyến đi này của chúng ta, bản vẽ cung Đại Minh.”