Ta căng thẳng đến nỗi không dám thở mạnh, rụt rè hỏi: “Vậy sau đấy thì sao ạ?”
A Phụ nói: “Sau này ta rời khỏi Phong Lăng, đi tìm tung tích của nàng khắp tam giới, rốt cuộc có một ngày tìm thấy nàng ở núi Lưu Ba…”
Ta chợt hiểu ra: “Vậy nên sư tổ mới ở lại núi Lưu Ba, trở thành sư tổ của chúng con ạ.”
A Phụ gật đầu.
Ta rốt cuộc thở phào nhẹ nhõm, vỗ ngực cảm thán: “Cuối cùng cũng tìm thấy rồi…”
A Phụ lại nói nhẹ tênh: “Tìm thấy rồi… Nhưng nàng lại không nhận ra ta…”
Trái tim vừa thả lỏng của ta lại siết chặt, ta vội an ủi người: “Tìm thấy là tốt rồi ạ, sư tổ từ từ giúp bà ấy nhớ lại là được mà…”
A Phụ lại cười cay đắng, lắc đầu, “Không cần nhận ra ta nữa đâu, nàng ấy… thích người khác rồi…”
Ta vừa ngỡ ngàng vừa đau khổ, nhất thời không biết nên nói gì.
Tinh Trầm đứng bên cạnh đột nhiên hỏi: “Tiên tử mà sư tổ nhắc tới… chẳng lẽ là…”
A Phụ gật đầu, “Nàng ấy tên là Phong Sương…”
Tuy Tinh Trầm đã đoán ra tiên tử ấy là ai, nhưng nghe chính miệng sư tổ thốt ra cái tên này, mặt hắn vẫn lộ vẻ khiếp sợ.
Hắn lẩm bẩm: “Người mà bà ấy thích là… là chú của con sao?”
Ta ngơ ngác nhìn hai người họ, sửng sốt một lúc lâu thì mới hiểu ra họ đang nói gì.
Đầu óc ta trống rỗng vì quá khiếp sợ, thật sự không thốt ra nổi một chữ.
Tinh Trầm lẩm bẩm: “Sư tổ tới Lưu Ba, hóa ra là vì thím…”
A Phụ nói: “Ban đầu ta không cam lòng, muốn khiến nàng quay đầu, muốn để nàng nhớ lại chuyện cũ ba ngàn năm trước…”
Tinh Trầm cũng như ta, ngơ ngẩn nhìn A Phụ, có trăm mối cảm xúc ngổn ngang trong lòng mà không cách nào nói ra được.
A Phụ nói: “Ta trồng đầy cây phong trên đỉnh Mộ Vãn nơi nàng sinh sống.
Ta giả vờ đạo mạo làm sư phụ nàng, nhưng vẫn muốn gợi lại ký ức kiếp trước của nàng.
Nhưng nàng chẳng thể nhớ ra điều gì, kiếp này là cuộc đời thật sự của nàng, ngàn năm trong quá khứ cùng lắm chỉ là một giấc mộng ngốc nghếch của ta…”
A Phụ đột nhiên cười, cười tới độ hơi thê lương.
“Nàng chẳng nhớ ra được gì cả, nhưng vẫn nhớ cách trồng loại trà Sương Tiền Vũ mà ta thích uống…
“Trà vẫn là vị cũ, người không phải người xưa…”
“Sư tổ…”
Ta hơi buồn bã, nhẹ nhàng gọi người.
A Phụ nhìn ta, ánh mắt phản chiếu lớp tuyết đầu mùa bám đầy cửa sổ, có vẻ hơi u ám, người nói: “Mong muốn không thể thành hiện thực trong lòng ta, hóa thành món Thần Khí thứ hai… gọi nó là Tà Vật có lẽ thỏa đáng hơn.”
Ánh mắt người khiến ta cảm thấy xa lạ, như thể đang ẩn chứa nỗi đắng cay một lời khó tỏ.
Ta lẩm bẩm hỏi: “Vì sao lại gọi nó là Tà Vật ạ?”
A Phụ nói: “Bởi vì nó có thể đáp ứng những mong ước khắc khoải nhất trên cõi đời này.”
Ta rằng: “Thế thì tốt quá.”
A Phụ lại cười khổ lắc đầu, “Với ta là nỗi đau khổ khắc khoải, với người thì lại là điều may mắn.
Thứ ta khát cầu mà không được, lại là vật báu người khác trân trọng.
Nếu đáp ứng nguyện vọng của ta, con đã từng bao giờ nghĩ tới sẽ phải cướp đi thứ gì của kẻ khác chưa?”
Hóa ra là lý ấy.
Thứ mà người khao khát nhưng không chạm tới được, là thứ mà người khác yêu thương trân trọng.
Thỏa mãn mong muốn của một cá nhân, ắt hẳn phải hủy diệt một cá nhân khác.
Ta cũng không biết nên nói gì đây.
Có lẽ A Phụ nói đúng, món Thần Khí kia được biến ra từ nỗi giày vò trong lòng người.
Nó vốn không phải là một món đồ vui vẻ hạnh phúc gì cho cam.
Khi nó thỏa mãn một người, thì đồng thời sẽ hủy diệt một người khác, nói nó là Tà Vật cũng chẳng oan.
Ta nhìn ra ngoài cửa sổ theo ánh mắt A Phụ.
Tuyết vừa ngừng rơi, bầu trời khoáng đạt.
Nếu so lòng người với không trung, thì đó hẳn phải là một bầu trời kín mây quỷ quyệt.
Có khoáng đạt trong sáng, ắt sẽ có khói mù đen tối.
Người phàm như thế, thượng thần cũng vậy.
A Phụ nói: “Khi được tạo ra, nó không có hình dạng, giống như một khối mây mưa mờ mịt mềm mại ở trong lòng bàn tay ta.
Khi ta cười hình như nó cũng vui, lúc ta xụ mặt dường như nó cũng buồn bã ỉu xìu theo.
Nếu một ngày kia có được linh thức, chắc hẳn tính tình nó sẽ rất đáng yêu.
Một món đồ dễ thương như vậy, lại có thể bị kẻ khác lợi dụng, làm ra những chuyện điên rồ nhất trên đời.
“Có một khoảng thời gian ta thường xuyên ôm ấp nó, vừa lơ đãng là bị tâm ma bủa vây, rất nhiều lần suýt dùng nó với Phong Sương.
Ta đề phòng nó, lưỡng lự trước nó, khinh thường nó.
Nhưng đến lúc cùng đường, ta lại coi nó như niềm hy vọng.
Bao nhiêu cảm xúc không thể nói rõ bằng lời, nên ta đặt cho nó cái tên là Vô Ngôn…
“Vô Ngôn trời sinh đã có linh khí siêu phàm, nên mới không hóa thành hình dáng cụ thể.
Ta yêu cầu nó biến thành gì, thì nó sẽ là cái đó.
Nhưng chung quy ta vẫn không thể dùng nó với Phong Sương, nên không thể biết được nó sẽ biến thành thứ gì để thỏa mãn chấp niệm trong lòng ta.”
Ta nói: “Chung quy người vẫn mềm lòng…”
A Phụ lại nói: “Cũng không hẳn vậy, chủ yếu là vì ta không tin một món Tà Vật có thể mang lại kết thúc thực sự viên mãn gì.
Nếu hủy hoại niềm vui trong kiếp này của nàng, mà không thể đổi lại ngày xưa mà ta mong muốn, thì chẳng phải hoang đường lắm sao?”
Ta nghiền ngẫm lời người nói, cảm thấy hơi thâm sâu ảo diệu.
Nhưng dù thế nào, người vẫn không hủy diệt hạnh phúc trong kiếp này của chú thím Tinh Trầm, là ta cảm thấy trong lòng người vẫn còn một chút lương tri.
A Phụ nhìn về phía Tinh Trầm, nói tiếp: “Thật ra trong lúc quyển Tấn Như Sương vô tình sửa đổi số mệnh của thím con, thì cũng gián tiếp ảnh hưởng với phụ hoàng và mẫu hậu con…”
Tinh Trầm hỏi: “Xin người chỉ giáo ạ?”
A Phụ rằng: “Mẫu hậu con xuất thân từ gia tộc bề thế trên Tiên giới, từ nhỏ đã có hôn ước định sẵn với chú của con.
Nhưng vì sự xuất hiện của Phong Sương, chú con thà từ bỏ ngôi vị đế tôn đời sau của cung Tử Vi, phá hủy hôn ước với mẫu hậu con, chỉ để kết làm tiên lữ với Phong Sương.
Ông bà con thấy thẹn với dòng tộc của mẫu hậu con, nên đã ghép đôi Nhị điện hạ tính tình ôn hòa, chính là phụ hoàng con, cho mẫu hậu con.
Sau này chú con vẫn kế thừa ngôi vị đế tôn của cung Tử Vi, bởi vì hắn có chân long phò tá số mệnh…”
Hóa ra giữa phụ hoàng, mẫu hậu và chú thím của Tinh Trầm còn có quá khứ xấu hổ như vậy nữa…
Tinh Trầm khiếp sợ quá, mãi sau mới lẩm bẩm: “Sau này chú con không bảo vệ được thím con trong loạn núi Vu… Sư tổ đã đến đó… báo thù cho thím con…”
A Phụ cười khổ: “Không có thù hận gì cả, chẳng qua ta nhất thời giận chó đánh mèo thôi.
Ta những tưởng kiếp này nàng ấy tự chọn con đường cho mình, tất nhiên có thể hạnh phúc cho đến cuối đời.
Ta từ bỏ nỗi bất mãn trong lòng, đứng từ đằng xa nhìn nàng yên vui kiếp này.
Nhưng nàng lại tự khiến bản thân hồn phi phách tán, chẳng để lại tới một phách tàn cho ta…”
Gió lạnh thổi bay những bông tuyết tích đầy cửa sổ, hơi lạnh thấm da thịt nhẹ nhàng len vào…
Căn phòng im ắng, chẳng ai nói gì mất một lúc lâu.
A Phụ đột nhiên cất tiếng: “Món Thần Khí đầu tiên được biến ra từ sự thấu hiểu với nỗi khổ yêu mà phải biệt ly trong lòng ta.
Thần Khí thứ hai biến hoá từ nỗi khao khát không thể đạt được trong lòng ta, Thần Khí thứ ba do sự oán giận trong lòng ta hoá thành.
Sau khi trở về từ núi Vu, ta ngồi bên vách đá trên đỉnh Mộ Vãn, ngắm biển mây biến ảo nơi xa, cảm thấy cảnh tượng này vô cùng tương tự với cảnh bên vách đá cô độc ở Phong Lăng ngày xưa.
Ta bỗng nhận thấy tất cả yêu ghét trong lòng đã bay theo gió sạch trơn mất bóng.
Dường như ta lại quay về ba ngàn năm trước, khi cây phong ven vách núi còn chưa tu được linh thức, một vùng trời đất chỉ có mình ta.
Ta vốn nên không vui không buồn, không sống không chết bình yên qua ngày như thế, đến tận khi già đi cùng trời đất.
Cây phong kia là kiếp nạn trong số mệnh ta, khiến ta nếm trải nỗi khổ yêu ghét, làm ta gặm nhấm sự tra tấn của sinh lão bệnh tử, giúp ta biết hương vị cầu mà không được là như thế nào.
Sau khi tất cả kết thúc, thế giới của ta chỉ còn lại chính ta.
Rốt cuộc ta không thể quay về làm một ta hỗn độn vô tri như xưa nữa.
Từ khoảnh khắc đó trở đi, ta đã mang lòng muốn chết.
Đó cũng là khoảnh khắc món Thần Khí cuối cùng ra đời nhờ sự giác ngộ của ta.
Đó là một con suối, ào ạt chảy dòng nước độc nhất trên đời.
Ta đặt tên nó là Tử Sinh, vốn để chuẩn bị cho chính mình.
Nhưng uống vào rồi ta vẫn không được giải thoát, tiên lực chỉ không còn mạnh bằng trước kia.
Con suối này về sau được ta đặt trong mê trận, cho Nhược Thủy tiên tử bảo quản…”
Câu chuyện về bốn món Thần Khí quá mức khó tin.
Suốt dọc đường đến núi Vương Ốc, nó luôn chiếm cứ trong đầu ta, khiến ta mất hồn mất vía.
Đến tận khi vào địa phận vùng núi Vương Ốc, ta mới tạm thời bỏ chuyện Thần Khí qua một bên, không nghĩ nữa.
Từ khi thành tiên tới nay, ta chỉ mới thấy một ngọn núi tiên là Lưu Ba, còn tưởng núi tiên nào cũng sống lánh đời, hoặc ẩn mình trong biển cả, hoặc núp sâu trong khe núi.
Không ngờ núi Vương Ốc lại tọa lạc trên nhân gian vạn trượng hồng trần, cũng không cách thành Biện Lương phồn hoa tráng lệ nhất là bao.
Cửa núi nguy nga mở rộng giữa sườn núi tráng lệ, thiện nam tín nữ lũ lượt tới dâng hương cầu phúc vái xin.
Du khách đi đông như mắc cửi trên con đường núi uốn lượn.
Sương khói lượn lờ ở lưng chừng núi, nhìn xa như một hội chùa.
Ta đứng dưới chân núi, không yên tâm hỏi: “Sư huynh, có phải huynh dẫn lộn đường không?”
Vừa dứt lời, một thiếu niên thanh thoát mặc đồ trắng đã đi lên tiếp đón, cung kính vái chào chúng ta, sau đấy nhỏ nhẹ hỏi: “Các hạ đến từ núi tiên nào đó?”
Tinh Trầm chắp tay nói: “Chúng ta là đệ tử Lưu Ba, ghé riêng dịp này để chúc thọ nữ thần.”
Tiên sứ áo trắng cười đáp: “Khách quý của Lưu Ba đã đến gần hết.
Hôm nay Cảnh Húc sư huynh còn nhón chân mong chờ ngoài cửa núi, chắc hẳn đang đợi mấy các hạ đây.
Mời các vị mau theo ta lên.”
Tinh Trầm cười gật đầu, ánh mắt bỗng trở nên tràn ngập chờ mong.
Ta đang định đi dọc theo con đường du khách đông như mắc cửi để lên núi, tiên sử lại lắc đầu với ta, dẫn chúng ta vòng qua một con đường nhỏ yên tĩnh, vừa đi vừa giải thích: “Lưng chừng núi Lạc Hà là giới tục tu, nhận hương khói cung phụng, ban phát phúc trạch cho người đời.
Đỉnh núi Phượng Vũ là giới thanh tu, là chỗ mà nữ thần tu hành thanh tịnh…”
Tiên sứ bấm tay niệm thần chú gọi một đụn mây lành xuống, chở chúng ta đi như gió lốc, xuyên qua vùng trời quang mây tạnh lưng chừng núi.
Ngước mắt nhìn lên, quả thật có một ngọn núi biếc tích tụ anh linh ở đó.
Núi mãi ngoài xa, tựa như mọc lên từ biển mây.
Ta không khỏi tán thưởng trong lòng, quả thật là nơi tuyệt vời để tìm yên tĩnh giữa chốn xô bồ.
Quả nhiên có mấy người đang đứng ngoài cửa núi nhón chân mong chờ, ta nhìn thật kỹ, mừng như điên quên hết tất cả, suýt sảy chân ngã xuống khỏi đụn mây.
Người đứng trước cửa không phải Cảnh Húc sư huynh, mà là Sở Dao tiên quân, còn cả Tiểu Thạch Lựu và Thiên Thanh của ta nữa.
“Phinh Phinh…”
“Phinh Phinh…”
“Tiểu Thạch Lựu, Thiên Thanh…”
Tiểu Thạch Lựu khoác một chiếc áo choàng đỏ thẫm, Thiên Thanh khoác áo ngoài màu trắng xanh.
Hai con bé hồ hởi chạy như bay đến.
Ta hạ mây xuống dang tay chạy về phía chúng, đón chúng vào lòng mình.
Sở Dao tiên quân thổn thức nói: “Gia đình bốn người nhà mình cuối cùng cũng đoàn viên rồi…”
Nói xong ngài cũng xích lại gần ôm cả ba chúng ta vào lòng.
Ta chỉ cảm thấy cổ áo mình căng lại, bị ai đấy túm từ đằng sau.
Ta lảo đảo đâm sầm vào một v0m nguc.
Ngoái đầu lại, ta thấy Tinh Trầm đang nhìn Sở Dao tiên quân với vẻ mặt sầm sì, ngoài cười nhưng trong không cười hỏi thăm: “Lâu ngày không gặp, da mặt sư thúc lại dày thêm rồi.”
Sở Dao tiên quân đáp lễ ngay: “Như nhau như nhau thôi.”
Tiểu Thạch Lựu đang nằm trong lòng ta bỗng leo lên cổ ta gào khóc, “Phinh Phinh, sao tỷ lại có thể không từ mà biệt như vậy chứ, tỷ có biết muội và Thiên Thanh nhớ tỷ tới nhường nào không?”
Thiên Thanh không phóng khoáng như Tiểu Thạch Lựu, con bé chỉ túm vạt áo ta lặng lẽ rơi lệ, nhìn đến là thương.
Lòng ta ngập tràn áy náy, ta ôm hai đứa nói: “Tỷ cũng không nỡ xa hai muội, nhưng tỷ thật sự không thể đưa hai đứa tới núi Tu Di được.
Làm sao mấy đứa tới được đây?”
Tiểu Thạch Lựu cọ hết nước mắt nước mũi dính đầy mặt lên vai ta, nín khóc mỉm cười nói: “Sở Dao tiên quân nói Cảnh Húc sư huynh tính gặp các tỷ ở đây, nên tụi muội đi theo.”
Thiên Thanh vẫn thút tha thút thít nức nở: “Trời xanh không phụ người có lòng, cuối cùng cũng tìm thấy tỷ rồi.”
Ta ngẩng đầu nói với Sở Dao tiên quân: “Phiền ngài rồi ạ.”
Sở Dao tiên quân dịu dàng cười với ta: “Phinh Phinh, nỗi nhớ nhung ta dành cho nàng đã thành bệnh tật, nay coi như có thuốc giải rồi.”
Nói xong ngài lại bước lên tính nắm tay ta, Tinh Trầm dời bước chắn phía trước ta.
Hắn ưỡn v0m nguc rộng lớn cho Sở Dao tiên quân không bủn xỉn tẹo nào.
Sở Dao tiên quân ghét bỏ ra mặt né đi ngay.
Ngài liếc qua liếc lại mấy giây giữa ta và Tinh Trầm, đột nhiên gào lên với vẻ mặt tuyệt vọng: “Chẳng lẽ… chẳng lẽ hai người…”
Tinh Trầm cười khẩy quẳng lại một câu: “Ngài nói đi…”
Sau đó hắn kéo ta về hướng cửa núi, ta không giằng ra được, đành cau mày chất vấn Tinh Trầm: “Huynh… Huynh có ý gì?”
Hắn còn chưa kịp trả lời, ta đã liếc thấy một bóng người yểu điệu chạy như bay tới từ khóm trúc rặng bách xanh rì, “Tiểu sư muội, Phinh Phinh…”
Lòng ta mừng rỡ quá đỗi, hôm nay là ngày gì mà bao niềm vui bất ngờ đều ập xuống đầu thế này?
“Sư tỷ…”
Ta ôm hai đứa nhỏ ríu rít vào lòng mình, mặt mày hớn hở chào đón Mạn Mạn sư tỷ.
Sư tỷ cười nói: “Tỷ còn tưởng phải tới Biện Lương mới có thể tìm được hai người.
Hôm ấy, sau khi Tễ Nguyệt sư huynh nhận được thư của Cảnh Húc sư huynh, bọn tỷ bèn vội vã chạy tới đây không ngừng nghỉ, đã đợi mấy muội ở đây hai hôm rồi.”
Ta vội vàng nói: “Sư tỷ, mấy lời đồn ấy là sao thế? Có yêu tinh nào đòi ăn thịt tim tỷ không, để muội nhìn tỷ một cái xem nào…”
Sư tỷ ôm chầm lấy ta, vừa đi vừa nói với vẻ mặt đau khổ: “Nói ngắn thì khó kể hết lắm, cuối cùng tỷ cũng hơi hiểu được vì sao trước khi đi sư phụ lại hắt một thùng nước lạnh cho bọn mình.
Nếu chỉ mình tỷ lẻ bóng trên đoạn đường này, thì e rằng vụn xương cũng chẳng còn nữa rồi…”
Tỷ ấy nói được nửa chừng thì bỗng khựng lại.
Ta nhìn theo mắt tỷ ấy về phía cách đó không xa, thấy Tễ Nguyệt sư huynh đang đứng dưới một gốc cây bách nhìn chúng ta, ta vội vẫy tay chào hỏi anh ta.
Tễ Nguyệt thờ ơ gật đầu với ta, ánh mắt hình như lại dừng hơi lâu trên mặt Mạn Mạn sư tỷ.
Sau đấy anh ta ngượng nghịu ngoảnh mặt nhìn qua chỗ khác.
Bầu không khí giữa hai người hơi kỳ quái nhỉ…
[HẾT CHƯƠNG 72].