//
Tuy Tạ Chinh Hồng không tổ chức đại điển Nguyên Anh nhưng vẫn phải mời vài bằng hữu tụ họp một bữa.
May mà người hắn quen không nhiều lắm, đếm đi đếm lại cũng chỉ có mấy người, còn lại phần lớn đều là đệ tử của Quy Nguyên tông, vậy nên cũng tiện. Có điều Tạ Chinh Hồng bị đám người Thẩm Phá Thiên hâm mộ ghen tị chuốc cho không ít rượu, cuối cùng vẫn như trước, Tạ Chinh Hồng không say còn bọn họ thì say bí tỉ.
Tuy nhiên thế cũng đúng thôi, Tạ Chinh Hồng lúc ở kỳ Kim Đan uống rượu còn chẳng say, đến kỳ Nguyên Anh hắn uống mà còn chẳng đỏ mặt tí nào.
Để đáp lại lễ vật của đám người Thẩm Phá Thiên, Tạ Chinh Hồng tặng cho mỗi người một chuỗi phật châu, bên trên có tâm kinh do chính hắn khắc lên, rất có hiệu quả cho tu sĩ kỳ Kim Đan. Điểm ưu việt của Phật tu kỳ Nguyên Anh chính là ở chỗ đó, phật châu và hạt bồ đề được bọn họ khai quang đều khiến biết bao tu sĩ tranh giành, nếu đổi thành linh thạch thì tương đương với một kỹ năng luyện đan hoặc luyện khí cao cấp.
Ít nhất thì Tạ Chinh Hồng cũng không cần lo khi mình thiếu linh thạch thì Văn Xuân Tương lại phải đi cướp nữa.
A Di Đà Phật, thiện tai thiện tai.
Chỉ còn mấy tháng nữa là đến đại hội Phật đản, hai người Lịch Hòa Quang và Cảnh Dĩ Phong cuối cùng cũng phá Đan thành Anh thành công, tên họ đều biến mất trên Thiên Đan bảng.
Có được động lực nhờ hai người này, nghe nói Diêm Bằng Thiên cũng tuyên bố bế quan kết Anh, hai người Kỳ Vĩnh Duyên và Thẩm Phá Thiên lập tức trở thành hạng đầu và hạng nhì trên Thiên Đan bảng, khiến Thẩm Phá Thiên rất buồn bực.
Hắn vốn tưởng rằng phải vất vả khiêu chiến để lên hạng, giờ hắn cũng trở thành sóng trước rồi. ( “Sóng trước” trong câu “Trường Giang sóng sau xô sóng trước”, ý nói thế hệ đi trước, những người mới muốn lên hạng thì phải vượt qua những hạng đầu, giờ Thẩm Phá Thiên đã thành lớp người đi trước trong kỳ Kim Đan.)
May mà tâm cảnh của Kỳ Vĩnh Duyên và Thẩm Phá Thiên vô cùng ổn định, không vì những người xếp trên mình đều phá Đan thành Anh mà tỏ ra vội vàng xao động. Thời cơ kết Anh của bọn họ còn chưa tới, không cần nóng vội ép mình đột phá.
Bọn họ vẫn muốn mài giũa căn cơ lại đã.
Vì thế, ba người trực tiếp đến ở động phủ gần chỗ Tạ Chinh Hồng, định cùng nhau theo dõi quá trình kết Anh của Lịch Hòa Quang.
Thiên tượng kết Anh của Lịch Hòa Quang vô cùng hoành tráng, nghe nói đã hấp dẫn không ít tu sĩ Kim Đan hậu kỳ đến xem. Thiên kiếp khi kết Anh sẽ duy trì khoảng hơn một tháng, cho nên khách phòng ở Quy Nguyên tông không đủ. Khách phòng của đám Thẩm Phá Thiên đã được Tạ Chinh Hồng chuẩn bị sẵn từ trước, nếu muộn chút nữa thôi thì chắc phải tốn không ít linh thạch rồi.
Hiện giờ Tạ Chinh Hồng đã là chân nhân kỳ Nguyên Anh, đám người Thẩm Phá Thiên nói thẳng rằng hắn tốt nhất không nên ra mặt làm gì, Văn Xuân Tương cũng đề nghị giống vậy. Giữa kỳ Nguyên Anh và kỳ Kim Đan có một cánh cửa ngăn cách, dù Lịch Hòa Quang sắp sửa trở thành chân nhân kỳ Nguyên Anh nhưng cũng mới chỉ đặt nửa bước chân qua cánh cửa đó. Theo quy tắc của Tu Chân giới, Tạ Chinh Hồng là “tiền bối” thì tốt nhất là không nên đến quan sát cơ duyên của tu sĩ kỳ Kim Đan. Vậy nên Tạ Chinh Hồng đành dùng thuật pháp để quan sát từ trong động phủ.
Thiên tượng khi kết Anh của Lịch Hòa Quang có hơi khác so với Tạ Chinh Hồng, là mây mù màu tím, sẫm màu gần như ngả sang đen. Thiên tượng như vậy cho thấy Lịch Hòa Quang tích lũy rất hùng hậu, hậu tích bạc phát[1], bây giờ đã lấy lại được không ít.
Tạ Chinh Hồng ngồi trong động phủ quan sát được rõ ràng, cẩn thận thảo luận với Văn Xuân Tương.
Khi thấy từng đạo Thiên lôi bổ về phía Lịch Hòa Quang, Tạ Chinh Hồng không khỏi nhớ lại cảnh tượng ngày đó khi mình đạt đến kỳ Nguyên Anh.
Phải tự mình trải qua mới biết được sự lợi hại của Thiên lôi.
Khi Lịch Hòa Quang kết Anh, mây tím hóa thành cự thú mang điềm lành, kiếm khí sáng rực kéo dài vạn dặm, gần như làm chấn động phân nửa Đạo Xuân trung thế giới. Còn khi Cảnh Dĩ Phong kết Anh, vạn quỷ gào khóc, mây khói bốc ngùn ngụt, là thiên tượng hiếm có trong thế hệ Ma đạo này, khiến không ít tu sĩ Tiên đạo tim đập thình thịch.
Tạ Chinh Hồng thì ngược lại, lúc hắn bị Thiên lôi bao phủ khi kết Anh, vốn không thấy được thứ gì ở bên ngoài, trong tinh thạch ghi lại ở Kinh Tàng tiểu thế giới cũng không thấy xuất hiện hiện tượng đặc biệt nào.
………..Bởi vì đạo Thiên lôi cuối cùng quá lợi hại, khiến toàn bộ bầu trời đều bị cột sáng chiếu rọi, không thể thấy rõ được gì.
“Tiền bối, thiên tượng khi kết Anh tượng trưng cho điều gì sao?” Tạ Chinh Hồng không hiểu liền hỏi.
“À, dị tượng càng nhiều thì màu mây càng thuần khiết, chứng tỏ tu sĩ có tích lũy hùng hậu, sau khi kết Anh có thể một bước lên trời. Ngược lại, nếu nền tảng ban đầu là dựa vào ăn đan dược linh thảo mà thành thì mây sẽ rất hỗn tạp, không thể thành hình, những tu sĩ như thế hầu như đều sẽ bỏ mạng. Thiên tượng của Lịch Hòa Quang chứng tỏ hắn có Đạo Tâm kiên định, cự thú mang điềm lành xuất hiện có nghĩa hắn chưa từng làm việc gì thương thiên hại lý[2] cả, cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Trước đây khi bổn tọa đi du lịch, từng bắt gặp một Kiếm tu đang kết Anh, mây mù hóa thành vạn kiếm, kiếm khí chọc thẳng lên tầng mây hơn vạn dặm, khiến rất nhiều Kiếm tu cự phách tìm đến muốn nhận hắn làm đồ đệ.”
“Khi tiền bối kết Anh, hẳn cũng xuất hiện nhiều dị tượng lắm.” Tạ Chinh Hồng gật đầu nói.
“Khụ khụ, cũng tạm thôi.” Văn Xuân Tương hiển nhiên không muốn nhiều lời, “Ma tu ấy à, đều như vậy hết.”
Tạ Chinh Hồng lại dời lực chú ý sang Lịch Hòa Quang.
Nghe nói khi Cảnh Dĩ Phong biết tin Tạ Chinh Hồng đã kết Anh trước thì liền cười to hồi lâu, khiến mọi người tranh nhau phỏng đoán, trong Quy Nguyên tông còn có vài đệ tử lén cá cược, đánh cược xem Cảnh Dĩ Phong có tìm đến khiêu chiến hay không. Nhưng kỳ quái là, Cảnh Dĩ Phong cũng chẳng có bất cứ động tĩnh gì.
Thiên tượng kết Anh của Lịch Hòa Quang kéo dài hơn một tháng, đám người Thẩm Phá Thiên đều như có đăm chiêu, hẳn đã thu hoạch được gì đó, truyền âm báo cho Tạ Chinh Hồng bảo mình sẽ trở về bế quan. Các tu sĩ còn lại đều đến chúc mừng Lịch Hòa Quang, sau đó rời khỏi địa giới của Quy Nguyên tông.
Sau khi kết Anh, Lịch Hòa Quang phát hiện có rất nhiều người đang chúc mừng mình, sắc mặt có chút kỳ lạ.
Trong lúc bế quan, dù có là tin tức động trời mọi người cũng không nói cho Lịch Hòa Quang.
Lịch Hòa Quang đảo mắt nhìn quanh, thấy Tần Anh đang du lịch bên ngoài nay đã trở lại, Dư Đồng cũng dùng ánh mắt ẩn tình nhìn hắn đăm đăm, chỉ thiếu mỗi Tạ Chinh Hồng, hắn bèn hỏi thăm.
“………..Đại, đại sư huynh.” Tần Anh ấp a ấp úng nhìn Lịch Hòa Quang, ngập ngừng nói.
Lịch Hòa Quang khẽ nhíu mày, chẳng lẽ Tạ Chinh Hồng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn ư?
“Vẫn để ta nói đi.” Dư Đồng vén tóc mai, cười nhẹ nhìn Lịch Hòa Quang, “Đại sư huynh, mấy tháng trước Tạ Chinh Hồng chân nhân đã kết Anh thành công ở Kinh Tàng tiểu thế giới, hiện giờ đang chuẩn bị cho đại hội Phật đản. Đợi lát nữa chắc hắn sẽ đến gặp huynh thôi.”
Lịch Hòa Quang quả thật có chút sửng sốt, “Hắn đã kết Anh rồi, quả là đáng mừng.”
Lúc trước Cảnh Dĩ Phong từng nói thành tựu của Tạ Chinh Hồng có lẽ sẽ vượt qua hai người bọn họ, Lịch Hòa Quang cũng đồng ý với điều này, bởi vậy nên mới lập tức mời Tạ Chinh Hồng về tông môn. Lại không ngờ rằng, mới có mười mấy năm ngắn ngủi trôi qua, hắn bế quan mất một thời gian, liền phát hiện Tạ Chinh Hồng đã vượt lên trước hắn, thậm chí còn nhận được thiệp mời đến dự đại hội Phật đản của Hoa Nghiêm tông.
Có thể thấy, Tạ Chinh Hồng đang dần dần được ngày càng nhiều người chú ý.
Vàng đi đến đâu cũng sẽ phát sáng, chẳng qua chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn mà thôi.
Lịch Hòa Quang khẽ gật đầu, trên đường quay về động phủ của mình, quả nhiên nhìn thấy Tạ Chinh Hồng đang đứng bên đường chờ hắn.
“Tạ đạo hữu, chúc mừng.”
“Đạo hữu cũng thế.”
“Khi kết Anh tại hạ có thu được chút thành quả, không biết đạo hữu có muốn cùng ta luận đạo một chút không?” Lịch Hòa Quang im lặng một lát rồi hỏi.
“Bần tăng xin quét dọn giường chiếu để nghênh đón.” Tạ Chinh Hồng cười nói. (Nguyên văn câu này là “Tảo tháp dĩ nghênh”, nghe thì có vẻ mờ ám vậy đó nhưng đây là câu người Trung Quốc hay nói nha, nghĩa là chuẩn bị cẩn thận để chào đón khách)
Quan hệ giữa hắn và Lịch Hòa Quang không phải quá thân thiết, lại không gặp đã mười mấy năm, dù muốn tán gẫu cũng chẳng có gì mà nói.
Cứ duy trì quan hệ quân tử chi giao như vậy cũng rất tốt. (Không biết mọi người còn nhớ câu này mình từng chú thích rồi không? Tình cảm người quân tử đạm nhạt như nước nhưng lại chân thành và sâu đậm.)
Khi tiễn Lịch Hòa Quang rời đi, Văn Xuân Tương hiếm khi mà đánh giá một câu “Tạm được”.
Với tính tình của tiền bối, Tạ Chinh Hồng nghĩ, câu này có lẽ là khích lệ nhỉ.
Không đợi Tạ Chinh Hồng nghĩ nguyên nhân, giọng nói của Văn Xuân Tương lại lập tức vang lên, “Tiểu hòa thượng, ngươi nên đi mua chút pháp bảo và pháp y đi.”
“Tiền bối, số pháp y mà lần trước ngài luyện chế cho bần tăng vẫn còn đủ dùng.” Tạ Chinh Hồng trả lời.
Văn Xuân Tương chỉ tiếc rèn sắt không thành thép, nhìn Tạ Chinh Hồng, “Đống pháp y mà bổn tọa luyện chế cho ngươi là dành cho Pháp tu, ngươi là một Phật tu, đi tham dự đại hội Phật đản thì phải mặc tăng y mới đúng. Nhưng mà bổn tọa sẽ không luyện chế quần áo của hòa thượng cho ngươi đâu, từ bỏ đi.”
………..Không, chuyện đó thì bần tăng vẫn hiểu mà.
“Tuy nhiên, bổn tọa vẫn có thể tế luyện những pháp khí khác cho ngươi, ngươi đi mua chút vật liệu về đây.” Có lẽ cảm thấy lời của mình có hơi độc đoán, Văn Xuân Tương bèn nói thêm một câu.
“Đa tạ tiền bối.” Tạ Chinh Hồng cười nói.
Pháp y ở Quy Nguyên tông hầu hết đều là hàng chuyên dụng cho Pháp tu, cũng có vài bộ cho Kiếm tu, Phật tu dù có thì cũng chỉ có loại thích hợp cho tu sĩ đẳng cấp thấp kỳ Trúc Cơ. Muốn tìm tăng y phù hợp thì cần phải nhờ tu sĩ ngoài chợ làm theo yêu cầu mới được.
Tạ Chinh Hồng được các đệ tử Quy Nguyên tông giới thiệu ở chợ Phi Tiên có một cửa tiệm có tên là “Thải Y các” (Thải y là loại trang phục nhiều màu sặc sỡ), trong tiệm đều là thợ may kỳ Kim Đan, cũng có vài thợ may cao cấp kỳ Nguyên Anh. Tu sĩ làm thợ may hầu hết đều có Mộc linh căn hoặc Thủy linh căn, linh căn của các nàng đều tương đối ôn hòa, công pháp theo học cũng không có nhiều lực công kích, nếu đi luyện khí hay luyện đan thì khó có thể thành công, còn có vài người học về phù lục nữa, đa số đều chọn con đường thợ may.
Tu sĩ có thể không ăn cơm, nhưng không thể không mặc quần áo được, đẳng cấp của pháp y không được phân loại cụ thể tỉ mỉ như pháp bảo, cơ bản chia làm bốn cấp Thiên, Địa, Huyền, Hoàng. Pháp y cấp Thiên hoặc Địa hầu như chỉ có tu sĩ từ kỳ Nguyên Anh trở lên mới có, tu sĩ kỳ Kim Đan mà có được một bộ pháp y cấp Huyền cũng đã là khó rồi. Văn Xuân Tương không phải thợ may chuyên nghiệp, nhưng trên phương diện luyện khí, y có thể nói cho mọi người, nếu pháp y mà y luyện chế cho Tạ Chinh Hồng cũng tính theo đẳng cấp này, thì bét nhất cũng là cấp Địa.
Các tu sĩ kỳ Nguyên Anh đều có thợ may riêng trong các tiệm quần áo, đa số tu sĩ đều hy vọng pháp y của mình là độc nhất vô nhị. Thợ may riêng cũng căn cứ theo công pháp, linh căn, … của khách hàng để làm ra pháp y phù hợp. Tạ Chinh Hồng vừa trở thành Nguyên Anh chân nhân, nếu lọt vào mắt một thợ may nào lợi hại, có khi còn được tặng pháp y miễn phí.
Thợ may giỏi nhất ở Thải Y các là Thời Dĩ Đồng, một nữ tu kỳ Nguyên Anh, tác phẩm nổi tiếng nhất của nàng là pháp y trong lễ song tu đại điển của một vị đại năng kỳ Xuất Khiếu, không những lực phòng ngự cực tốt mà còn tuyệt đẹp, mặc bộ pháp y đó vào chẳng khác nào ăn Mỹ Dung đan mỗi ngày, lập tức khiến các nữ tu ở Đạo Xuân trung thế giới điên cuồng, giá tiền ngày càng cao.
Những pháp khí cướp được ở Kinh Tàng tiểu thế giới trước kia hầu hết đều vô dụng, toàn bộ dấu hiệu thần thức ở bên trên đã bị Văn Xuân Tương xóa sạch, Tạ Chinh Hồng chọn ra vài món thuận tay để giữ lại, còn đâu đem đổi hết thành linh thạch.
Tức khắc nhẫn trữ vật lại đầy ắp.
“Thấy chứ, cách kiếm linh thạch nhanh nhất chính là đánh cướp, phương pháp này tu sĩ nào cũng biết. Cá lớn nuốt cá bé, cá bé lại nuốt tôm vốn là chuyện thường. Tiểu hòa thượng, đạo thống của ngươi chính là lớp vỏ ngụy trang tốt nhất, nếu ngươi ra tay đánh cướp, chắc chắn sẽ thành công.” Văn Xuân Tương nghiêm túc đề nghị.
“Tiền bối chớ nói đùa.”
Tạ Chinh Hồng vừa đến bên ngoài Thải Y các, lập tức liền bị một hàng dài nữ tu chen chúc làm cho hoảng sợ.
Có hơn trăm nữ tu đang xếp hàng, ai nấy đều trẻ tuổi xinh đẹp, tu vi từ kỳ Trúc Cơ đến kỳ Kim Đan, ngoài ra vài nữ tu còn đi cùng nam tu, đứng kín hết cả lối vào Thải Y các.
“Sản phẩm mới ra lò của Thải Y các – “Thái Trà y” (nghĩa là hái trà), tổng cộng có mười tám màu mười tám bộ, mỗi người chỉ được mua một bộ, tu sĩ từ kỳ Trúc Cơ đến kỳ Kim Đan đều dùng được. Huyền giai trung phẩm, một bộ chỉ một trăm chín mươi chín linh thạch thượng phẩm, mau mua đi nào.” Một nữ tu hô to, tung ra một bộ pháp y cho nữ màu xanh nhạt, khí Ất Mộc ẩn hiện, tươi đẹp động lòng người.
“Được được được, mua mua mua!”
Nam tu cùng đi bên cạnh một nữ tu đành phải vì đạo lữ nhà mình mà lấy túi trữ vật ra, đầu năm nay tìm một đạo lữ chẳng dễ dàng, nhất định phải hầu hạ cẩn thận mới được.
“Pháp y Huyền giai trung phẩm chỉ tương đương một món pháp khí trung phẩm, năm mươi linh thạch thượng phẩm đã là giá trên trời rồi, vì sao………?” Vì sao giá tận một trăm chín mươi chín linh thạch thượng phẩm mà vẫn có người mua thế này?
Tạ Chinh Hồng vốn định dùng một món pháp bảo cực phẩm và linh thạch cực phẩm để đến đây mua pháp y, bây giờ xem ra, phải trả thêm nhiều nữa mới mua pháp y được.
Tốt xấu gì số linh thạch này cũng là do tiền bối vất vả kiếm được, sao lại có thể lãng phí như vậy?
Tạ Chinh Hồng xoay người định rời đi, lại bị Văn Xuân Tương ngăn lại.
“Bộ pháp y kia trông cũng không tồi, con số một trăm chín chín cũng đáng. Đừng có rề rà lằng nhằng nữa, mua đi.” Hiển nhiên bộ pháp y kia rất hợp với thẩm mỹ của Văn Xuân Tương, mặc dù y rất ghét tiểu hòa thượng mặc tăng bào, nhưng nếu mặc lên mà đẹp thì không phải y không chịu đựng được.
Tạ Chinh Hồng yên lặng thở dài trong lòng, “Vẫn nên chờ một lát đã, những tu sĩ này chưa rời đi ngay đâu.”
Mười tám bộ pháp y chẳng mấy chốc đã bán hết veo, những tu sĩ không mua được thì liền bỏ thêm tiền đặt may thêm một bộ nữa hoặc xem thử pháp y kiểu dáng khác.
Mấy tu sĩ có vẻ cũng đã quen với việc này nên cũng không để ý.
Người mua được thì đương nhiên vui vẻ ra mặt, người không mua được mặc dù có hơi nản lòng nhưng cũng không quan tâm lắm, đến buổi chiều các nàng vẫn có thể đến đây xếp hàng tiếp.
“Các hạ phải chăng là Tạ chân nhân Tạ Chinh Hồng?” Một vị nữ tu của Thải Y các vừa mở lời, cẩn thận dè chừng nhìn sang, không dám chắc lắm.
“Đúng là bần tăng.” Tạ Chinh Hồng gật đầu nói.
Trong mắt nữ tu nọ lóe lên vẻ mừng rỡ, “Mời, mời vào.”
Xem ra là người hâm mộ của Tạ Chinh Hồng đây mà.
“Thực ra thì với tu vi của chân nhân, ngài có thể trực tiếp lên trên tầng hai của Thải Y các chúng ta, không cần phải xếp hàng chờ. Tu sĩ có tu vi cao thâm, vốn có đặc quyền này.” Nữ tu che miệng cười nói.
“Vẫn nên tuân theo quy củ.” Tạ Chinh Hồng không có thói quen hưởng “đặc quyền” như thế, “Không biết nên xưng hô với cô nương như thế nào?”
“Chân nhân khách khí quá, cứ gọi ta Trân Trân là được.” Nữ tu nhìn Tạ Chinh Hồng không chớp mắt.
“Trân Trân cô nương.” Tạ Chinh Hồng không nhìn ánh mắt của nàng, nghiêm túc gọi.
“Chân nhân đến đây là vì muốn may pháp y dự lễ Phật đản ư?” Trân Trân nghiêng đầu hỏi.
“Đúng vậy.”
“Gần đây có rất nhiều Phật tu đến tiệm chúng ta để đặt may tăng y, chân nhân một lòng hướng đạo, chẳng mấy khi ra ngoài nên nhất định là đến vì việc này rồi.” Trân Trân ẩn ý nói, “Đại hội Phật đản lâu lắm mới tổ chức một lần, Tam Tư đại sư của Hoa Nghiêm tông và các chủ nhà ta là chị em kết nghĩa, pháp y của ngài ấy đều do các chủ tự tay chế tác, có thể so sánh với pháp bảo, lợi hại lắm đó.”
“Nhưng nếu các chủ thấy chân nhân, có khi lại càng vui hơn ấy chứ.” Dù sao Tạ Chinh Hồng cũng là Phật tu xuất sắc nhất trong thế hệ trẻ ở Đạo Xuân trung thế giới. Có điều hắn quanh năm chẳng ra khỏi cửa, hiếm khi gặp người khác, hầu hết mọi người đều chỉ nghe kỳ danh chứ chưa gặp ngoài đời bao giờ, lại không thể tiến vào Quy Nguyên tông để xem được, đúng là đáng tiếc mà!
“Cảm ơn ý tốt của cô nương.” Tạ Chinh Hồng cười nói.
Trân trân lại cười.
Đừng nói là tu sĩ kỳ Nguyên Anh như Tạ Chinh Hồng, dù là tu sĩ kỳ Kim Đan đến tiệm các nàng, người lễ độ không vênh váo tự đắc như vậy rất ít. Những Phật tu khác mà Trân Trân từng gặp, trông thì ôn hòa nhưng luôn có vẻ xa cách, ít có ai khiến người ta có cảm giác thoải mái không làm bộ như Tạ Chinh Hồng.
Có lẽ chỉ có Phật tu coi “Chúng sinh bình đẳng” như vậy mới có thể tạo nên sự khác biệt.
“Chân nhân, mời ngồi, tiểu nữ sẽ đi bẩm báo cho các chủ một tiếng.” Trân Trân dẫn Tạ Chinh Hồng vào một căn phòng, phân phó tỳ nữ dâng trái cây và linh tửu ngon lên, sau đó thong thả rời đi.
“Cửa tiệm như thế này ở thế giới nào mà chẳng có, ngươi không cần phải câu nệ như vậy.” Văn Xuân Tương thấy biểu hiện của Tạ Chinh Hồng, không khỏi cười nói.
“Đại đạo ba ngàn, đó cũng là một cách để tu hành.”
Văn Xuân Tương biết tiểu hòa thượng lại lý sự đây mà. Như thế đúng là có thể tu hành thật, thợ may nói dễ nghe thì chính là luyện khí sư kiêm phù lục sư, nói không dễ nghe thì là cao không được mà thấp cũng chẳng xong, hai thứ đều không thể làm tốt nhất, đành phải kết hợp hai thứ lại thành thợ may. Chuyện này vốn cũng bình thường, dù sao người luyện khí và luyện đan thì nhiều nhưng người xuất sắc thì lại ít, đại bộ phận không có gì đặc biệt, chẳng làm được thứ gì hay ho. Bởi vậy, nghề thợ may liền giúp họ kiếm thêm không ít thu nhập để tu luyện.
Có điều phương thức bán tay nghề như vậy không được các môn phái lớn xem trọng cho lắm, chỉ có những đệ tử ngoại môn thiên phú tu luyện không đủ cao lại không chịu được khắc khổ mới bị phái ra ngoài để quản lý cửa tiệm. Làm việc ở cửa hàng không cần hao tổn tâm tư, có điều cần tiếp xúc với người khác rất nhiều, không thể chuyên tâm tu luyện như ở trong môn phái, ưu điểm là số linh thạch kiếm được sẽ nhiều hơn. Đa số cửa tiệm của các môn phái đều có quy định về số lượng linh thạch, đệ tử trong tiệm mang đến ích lợi càng nhiều thì đãi ngộ họ nhận được sẽ càng tốt. Nếu làm việc tốt, bọn họ có thể dùng số linh thạch kiếm được để mua đan dược và pháp khí, hoàn cảnh tu luyện có khi còn tốt hơn cả đệ tử trong môn phái.
Đáng tiếc là, hầu hết các đệ tử tu luyện bên ngoài đều đi lệch trọng điểm, kiếm được càng nhiều linh thạch thì tâm tư lại càng phức tạp. Chỉ có các môn phái không ngừng phái đệ tử đến cửa tiệm chứ ít có đệ tử nào trong tiệm có thể thông qua kiểm tra để trở về môn phái. Thậm chí không ít người còn cảm thấy ở bên ngoài còn tốt hơn tu luyện cả ngày trong môn phái nhiều. Chẳng qua là lựa chọn của mỗi người mà thôi.
“Dù là tu sĩ gì, Tiên tu hay là Ma tu, tu hành vốn là chuyện gian nan, không thể thiếu căn cốt, ngộ tính, siêng năng và cả may mắn, dốc hết tiềm lực của mình mà còn chưa đủ yêu cầu thì không thể không du lịch xung quanh để tìm kiếm cơ duyên. Nếu đặt tâm tư ở chỗ khác, thì càng không thể thành đại đạo được. Trong những gia tộc thế gia tu chân không hẳn là không có công pháp thượng hảo, nhưng bọn họ đều nguyện ý đưa đệ tử đến tu hành trong môn phái, chính là bởi vì ở trong gia tộc sẽ dễ đấu đá nhau vì ngoại vật. Con đường khác thì cũng được đó, nhưng tiểu hòa thượng ngươi chỉ được nhìn thôi, tốt nhất là đừng có đi thử.” Văn Xuân Tương nhắc nhỏ một phen, y đã tốn nhiều công sức vất vả nhìn Tạ Chinh Hồng thành tài, không phải để cho Tạ Chinh Hồng đi kinh doanh cửa tiệm được.
Lịch thạch hay pháp khí dù sao đều là vật ngoài thân, tuy rằng không thể thiếu nhưng tuyệt đối không được để vì cái này mà mất cái khác.
“Tiền bối nói phải, tiểu tăng hiểu rồi.” Tạ Chinh Hồng hiển nhiên cũng hiểu được đạo lý này, chẳng qua gặp được tu sĩ đi trên con đường khác nên nhịn không được muốn thảo luận chút thôi.
Đương nhiên, Tạ Chinh Hồng cho rằng Văn Xuân Tương lo lắng như vậy là thể hiện sự dịu dàng thôi.
Thỉnh thoảng nghe căn dặn như vậy khiến tâm tình Tạ Chinh Hồng rất thoải mái.
Suy nghĩ này không cần phải nói cho tiền bối biết làm gì.
“Thì ra là Tạ chân nhân, đúng là khách hàng hiếm thấy. Mấy ngày nay trong lúc tu luyện, thiếp thân cảm thấy có cơ duyên sắp đến, ra là Tạ chân nhân đích thân đến đây.” Cửa phòng bỗng xuất hiện một nữ tu mang khuôn mặt hơi yếu ớt, trông vô cùng động lòng người.
“Bần tăng Tạ Chinh Hồng, rất vui được gặp các chủ của Thải Y các.” Tạ Chinh Hồng thấy pháp y của nữ tu này tỏa sáng, tu vi cũng cao thâm, liền biết người này hẳn là các chủ của Thải Y các – Thời Dĩ Đồng. Hắn chắp tay chữ thập, nghiêm túc kính lễ với Thời Dĩ Đồng.
Thời Dĩ Đồng là tu sĩ Nguyên Anh trung kỳ, thành danh đã lâu, Tạ Chinh Hồng vừa mới kết Anh, theo tình theo lý, hẳn là nên khách khí một chút.
“Chân nhân đa lễ rồi.” Thời Dĩ Đồng không tránh không né, đôi mắt nhìn Tạ Chinh Hồng cúi thấp đầu lộ ra chút khinh thường, đứng thẳng nhận lễ của Tạ Chinh Hồng.
Đối với Tạ Chinh Hồng, nàng không phải là không ghen tị.
Nàng vất vả mở cửa tiệm này, đi du lịch chung quanh kết thiện duyên hồi lâu mới dần mạnh lên, trở thành nữ tán tu đầu tiên ở đây tiến vào kỳ Nguyên Anh, cuộc sống giàu có, mọi thứ linh thạch hay pháp bảo đều không thiếu, chính là tấm gương trong lòng các tán tu.
Ai ngờ Tạ Chinh Hồng bỗng dưng xuất hiện, chỉ trong thời gian ngắn ngủi đã tiến đến kỳ Nguyên Anh, tuy rằng có nhiều tu sĩ ngoài mặt thì thổi phồng đủ kiểu, nhưng trong bụng thì ai cũng hận cắn răng. Luôn có vài người được ông trời ưu ái như vậy đấy, cái gì cũng không thiếu, linh thạch và công pháp đều được người khác đưa đến tận tay, dễ dàng vượt qua cánh cửa đang ngăn giữ vô số tu sĩ. Ngay cả mấy thị nữ trong Thải Y các của nàng cũng vậy, cứ mở miệng ra là toàn nói chuyện về Tạ Chinh Hồng.
Mà nàng vốn giao hảo với Tam Tư, trong lòng vô cùng yêu mến một hậu bối như Tam Tư, lại thấy Tạ Chinh Hồng cướp hết sạch sự nổi bật của Tam Tư. Mọi người chỉ biết Phật tu có Tạ Chinh Hồng, hoàn toàn ném “Thánh Tâm phật quân Tam Tư” lúc trước qua một bên.
Tam Tư là đệ tử Phật môn nên không thèm để ý mấy thứ hư danh này.
Nhưng Thời Dĩ Đồng sao có thể không buồn bực cho được?
Nàng phá Đan thành Anh mất gần ba mươi năm, đến giờ hơn một trăm năm đã trôi qua, tu vi mới đến trung kỳ. Số tuổi năm nay của Tạ Chinh Hồng cộng lại còn chẳng bằng số lẻ của nàng, mà hắn đã là tu sĩ kỳ Nguyên Anh như nàng.
Nói không ghen tị đương nhiên là giả.
Bởi vậy, khi Tạ Chinh Hồng kính lễ với mình, nàng vốn nên né tránh, cùng lắm thì nhận nửa lễ hoặc đáp lễ lại, đều là tu sĩ kỳ Nguyên Anh, có thể xem là đạo hữu ngang hàng với nhau. Song bỗng ma xui quỷ khiến lại trực tiếp nhận lễ của Tạ Chinh Hồng.
Thấy một vị thiên chi kiêu tử cúi đầu trước mình như vậy, thậm chí còn phải nhờ vả mình chế tác một bộ pháp y cho hắn.
Tư vị này, thật sự là muốn ngừng mà không được.
Vẻ mặt đắc ý của Thời Dĩ Đồng tránh được Tạ Chinh Hồng, nhưng lại tránh không khỏi Văn Xuân Tương đang ở trong chuỗi hạt nhìn ra.
Văn Xuân Tương thờ ơ lạnh nhạt, không có bình luận nào với hành vi tìm chết của vị các chủ này.
Ít ra tính đến hiện tại thì chưa từng có tu sĩ nào nghiêm túc không né không tránh mà nhận lễ của Tạ Chinh Hồng. Nếu tu vi cao hơn Tạ Chinh Hồng một đoạn thì còn được, ít ra vẫn miễn cưỡng chịu nhận lễ được. Nhưng Thời Dĩ Đồng chẳng qua chỉ là một tu sĩ Nguyên Anh trung kỳ, kinh doanh quanh năm nên thuật pháp không tốt, vậy mà dám nhận lễ của Tạ Chinh Hồng……….
Văn Xuân Tương sờ cằm tỏ vẻ đăm chiêu, nữ tu này sắp gặp chuyện không hay rồi.
Ngay cả y cũng chẳng dám nhận lễ của Tạ Chinh Hồng đâu!
******
★Chú thích:
[1]Hậu tích bạc phát: là một câu thành ngữ Trung Quốc, ý nói để giành, gom góp, chuẩn bị đầy đủ thì công việc mới thuận lợi, suôn sẻ.
[2]Thương thiên hại lý: chuyện độc ác, tàn nhẫn, trái đạo đức.