Khi Keating đến gặp Stengel với một đề nghị về một bữa ăn trưa, Stengel lắng nghe mà chẳng nói lời nào. Sau đó ông ta hất hàm và cắm cảu:
“Anh được lợi lộc gì từ chuyện này?”
Trước khi Keating kịp trả lời, Stengel đột ngột quay đầu lại.
“À,” Stengel nói. “À, tôi hiểu rồi.”
Sau đó ông ta cúi người về phía trước, miệng ông ta bĩu ra với vẻ khinh bỉ:
“Được. Tôi sẽ đến dự bữa trưa đó.”
Khi Stengel rời hãng Francon & Heyer để mở văn phòng riêng của mình và tiến hành việc xây dựng ngôi nhà của gia đình Dunlop, hợp đồng đầu tiên của ông ta, Guy Francon phang mạnh cái thước kẻ vào cạnh bàn làm việc của mình và gầm lên với Keating:
“Thằng khốn nạn! Đồ táng tận lương tâm! Sau tất cả những gì ta đã làm cho nó mà nó dám...!”
“Bác hy vọng gì chứ?” Keating hỏi trong lúc nằm ườn trên một cái ghế bành thấp trước mặt ông ta. “Đời là thế đấy.”
“Nhưng điều tôi không hiểu là làm sao mà cái con chồn hôi hám bé tý đó lại biết được vụ này? Để cướp lấy nó ngay trước mũi chúng ta!”
“À, thực ra cháu chưa bao giờ tin ông ta.” Keating nhún vai. “Bản tính con người mà...”
Sự chua chát trong giọng nói của anh rất chân thành. Anh đã không nhận được một chút biết ơn nào từ Stengel. Lời nhận xét lúc ra đi của Stengel đối với anh chỉ là: “Anh khốn nạn hơn tôi tưởng. Chúc may mắn. Một ngày nào đó, anh sẽ là một kiến trúc sư vĩ đại.”
Và như thế, Keating đã được nhận vị trí kiến trúc sư trưởng của hãng Francon & Heyer.
Francon ăn mừng dịp này bằng một bữa tiệc nhỏ ở một nhà hàng yên tĩnh và đắt tiền. “Chỉ một vài năm” ông lặp đi lặp lại, “Chỉ một vài năm nữa thôi, cậu sẽ thấy... Peter... Cậu là một chàng trai tốt và tôi thích cậu và tôi sẽ tạo điều kiện cho cậu... Tôi đã tạo điều kiện cho cậu chưa?... Cậu sẽ được đi chỗ này chỗ khác... chỉ một vài năm nữa thôi...”
“Cái cà-vạt của bác bị xoắn kìa, Guy,” Keating nói với giọng khô khan, “bác đang làm đổ rượu brandy vào áo vét của bác...”
Đối mặt với nhiệm vụ thiết kế đầu tiên của mình, Keating nghĩ đến Tim Davis, đến Stengel, đến rất nhiều người đã thèm muốn nhiệm vụ này, cố gắng giành giật nó và bị anh đánh bại. Đó là một cảm giác chiến thắng. Đó là sự khẳng định hữu hình về sự vĩ đại của anh. Nhưng rồi anh thấy mình trong văn phòng ốp kính, trước mặt là một tờ giấy trắng – và anh chỉ có một mình. Có cái gì đó cuộn trong cổ họng anh xuống dạ dày, lạnh lẽo và trống rỗng – chính là cái cảm giác cũ về một cái hố rỗng đang rơi. Anh dựa vào bàn, nhắm mắt lại. Chưa bao giờ anh thực sự cảm nhận một cách thực tế như lúc này – rằng đây mới chính là điều người ta mong chờ ở anh: lấp trống một tờ giấy, tạo ra một cái gì đó trên tờ giấy.
Nó chỉ là một biệt thự nhỏ. Nhưng thay vì thấy nó mọc lên trước mặt anh, thì anh thấy nó đang chìm xuống; anh thấy hình dáng của nó như một cái hố sâu trên mặt đất; và như một cái hố sâu trong chính anh; như một sự trống rỗng mà trong lòng nó chỉ có những tiếng kêu gào tuyệt vọng của Davis và Stengel. Francon đã nói với anh về biệt thự này: “Nó phải có sự bề thế, cậu biết đấy, sự bề thế... không được có cái gì lập dị, một ngôi nhà tao nhã... và phải tiêu trong phạm vi ngân sách,” – đấy chính là quan điểm của Francon về việc khơi gợi ý tưởng cho kiến trúc sư của mình, rồi để cho anh ta tự suy luận. Trong một cơn ớn lạnh, Keating nghĩ đến cảnh khách hàng cười nhạo vào mặt anh; anh nghe thấy giọng nói nhỏ nhẹ nhưng đầy quyền uy của Ellsworth Toohey nhắc nhở anh chú ý đến các cơ hội mở ra cho anh trong nghề thợ ống nước. Anh căm ghét mọi hòn đá trên bề mặt trái đất. Anh căm ghét bản thân mình vì đã chọn nghề kiến trúc sư.
Khi anh bắt đầu vẽ, anh cố không nghĩ đến công việc mà anh đang làm; anh chỉ nghĩ rằng Francon đã từng làm việc này; Stengel, thậm chí cả Heyer và tất cả những người khác đã từng làm; rằng anh cũng có thể làm được nếu như họ từng làm được.
Anh mất nhiều ngày để hoàn thành các bản phác thảo sơ bộ. Anh dành hàng tiếng trong thư viện của Francon & Heyer, để chọn – từ trong các bức ảnh về kiến trúc cổ điển – kiểu dáng bề ngoài cho ngôi nhà đang thiết kế. Anh cảm thấy sự căng thẳng đang tan dần trong đầu mình. Ngôi nhà đó đang mọc lên dưới bàn tay anh – chuẩn mực và đẹp đẽ – bởi vì con người vẫn tôn thờ những bậc thầy kiến trúc trước anh. Anh không phải băn khoăn, sợ hãi, cũng chẳng cần mạo hiểm; mọi thứ đã được làm sẵn cho anh rồi.
Khi các bản vẽ đã sẵn sàng, anh đứng nhìn chúng – hoang mang. Nếu có ai đó nói với anh rằng đây là ngôi nhà đẹp nhất hoặc xấu nhất trên thế giới, thì anh sẽ đồng ý với cả hai. Anh không chắc chắn. Nhưng anh cần phải chắc chắn. Anh nghĩ đến Stanton và nghĩ đến cái mà anh thường dựa vào khi làm các bài tập của mình ở đó. Anh gọi điện đến văn phòng của Cameron và xin gặp Howard Roark.
Anh đến chỗ ở của Roark vào đêm đó và trải ra trước mặt Roark tất cả các bản phác mặt bằng, hình chiếu, phối cảnh tòa nhà đầu tiên của mình. Roark đứng nhìn chúng, cánh tay anh duỗi thẳng, hai bàn tay nắm lấy cạnh bàn và chẳng nói gì một lúc lâu.
Keating bồn chồn chờ đợi; anh cảm thấy sự giận dữ cũng dâng dần lên cùng với sự bực bội – bởi vì anh không thể hiểu nổi tại sao mình lại bồn chồn đến vậy. Khi anh không còn chịu đựng nổi cảm giác này, anh nói:
“Howard, cậu biết đấy, mọi người nói rằng Stengel là người thiết kế giỏi nhất trong thành phố và tôi không nghĩ là anh thực sự sẵn sàng bỏ việc, nhưng tôi đã buộc anh làm vậy và tôi thế chỗ của anh. Tôi đã phải tốn nhiều công để làm được cái trò đó, tôi...”
Anh ngừng lời. Những lời của anh nghe không vui vẻ và tự mãn như khi anh nói với những người khác. Chúng giống như những lời cầu xin.
Roark quay lại và nhìn anh. Đôi mắt Roark không tỏ ra khinh bỉ; chỉ mở to hơn bình thường một chút, chăm chú và ngạc nhiên. Roark không nói gì và quay trở lại với các bản vẽ.
Keating cảm thấy bị lột truồng. Davis, Stengel, Francon chẳng có ý nghĩa gì ở đây. Trước đây, anh luôn luôn dùng người này để chống lại người khác. Nhưng Roark lại không để ý đến con người. Những người khác cho Keating cảm giác về giá trị của bản thân anh. Còn Roark chẳng cho anh cái gì cả. Keating nghĩ anh nên thu vén các bản vẽ của mình và biến khỏi đây. Mối nguy hiểm không phải là Roark. Mối nguy hiểm là việc anh, Keating, vẫn cứ đứng đó.
Roark quay về phía anh.
“Anh có thấy vui khi làm việc theo kiểu này không, Peter?” Roark hỏi.
“Ồ, tôi biết,” Keating nói, giọng anh thất thanh, “Tôi biết cậu không đồng ý kiểu làm việc này, nhưng đây là chuyện làm ăn, tôi chỉ muốn biết cậu nghĩ gì về nó – nghĩ một cách thực tế chứ không phải là lý thuyết, không phải...”
“Không, tôi không định nói lý thuyết với anh. Tôi chỉ muốn biết thôi.”
“Nếu cậu có thể giúp tôi, Howard, hãy giúp tôi chút ít thôi. Nó là ngôi nhà đầu tiên của tôi và nó rất quan trọng cho công việc của tôi ở hãng. Cậu nghĩ sao? Cậu sẽ giúp tôi chứ, Howard?”
“Thôi được.”
Roark ném sang một bên cái bản vẽ mặt tiền trang nhã với những trụ tường có rãnh, các trán tường đứt quãng, các huy hiệu kiểu La Mã trên các cửa sổ và hai con đại bàng biểu tượng của đế chế La Mã ở lối ra vào. Anh nhặt các bản vẽ mặt bằng lên. Anh lấy một tờ giấy can, đặt lên trên bản phác thảo và bắt đầu vẽ. Keating đứng nhìn cái bút chì trong tay Roark. Anh thấy cái phòng đợi hoành tráng ở lối ra vào biến mất, cả các hành lang lắt léo, và các góc tường thiếu ánh sáng; anh nhìn thấy phòng khách mới, rộng mênh mông, mọc lên từ khoảng không mà anh từng nghĩ là quá chật hẹp; một bức tường với các cửa sổ lớn mở ra vườn, một nhà bếp rộng rãi. Anh nhìn một lúc lâu.
“Còn mặt tiền thì sao?” anh hỏi khi Roark bỏ cái bút chì xuống.
“Tôi không thể giúp anh cái đó được. Nếu anh cứ muốn làm mặt tiền theo kiểu Cổ điển, thì ít nhất hãy làm Cổ điển một cách tử tế. Anh không cần tới ba cái trụ tường trong khi một cái là đủ. Và hãy bỏ những con vịt đó khỏi cửa ra vào đi, trông rối mắt lắm.”
Lúc ra về, với các bản vẽ kẹp dưới nách, Keating mỉm cười với Roark với vẻ biết ơn; nhưng liền đó, anh đi xuống cầu thang với cảm giác tổn thương và căm giận. Anh làm việc suốt ba ngày để hoàn thành các bản thiết kế mới từ bản vẽ phác của Roark; và để thiết kế một cái cầu thang mới, đơn giản hơn. Anh nộp bản vẽ ngôi nhà của mình cho Francon với cử chỉ đầy tự hào, trông như một sự cung tiến.
“Chà,” Francon nói trong lúc xem, “chà, tôi phải thừa nhận... Cậu thật là có óc tưởng tượng, Peter... Thiết kế hơi khác thường, nhưng mà...” Ông ta hắng giọng và nói thêm: “Nó đúng như tôi đã hình dung.”
“Tất nhiên rồi,” Keating nói. “Cháu đã nghiên cứu các tòa nhà của bác và cố gắng đoán xem bác sẽ làm gì; và nếu thiết kế này đẹp thì chính là vì cháu biết cách nắm bắt các ý tưởng của bác.”
Francon mỉm cười. Và Keating chợt nghĩ: Francon không thực sự tin vào điều này và ông ta biết chính Keating cũng không tin; nhưng cả hai đều đồng tình với nhau, ràng buộc chặt hơn với nhau bởi vì họ là những kẻ cùng hội cùng thuyền.
*
* *
Bức thư trên bàn làm việc của Cameron cho biết Ban giám đốc của Công ty Tín thác Chứng khoán lấy làm tiếc rằng, sau khi đã cân nhắc rất thận trọng, họ không thể chấp nhận các bản thiết kế của ông cho việc xây dựng tòa nhà chi nhánh mới của công ty ở Astoria và hợp đồng thiết kế đã được ký với hãng Gould & Pettingill.
Một tờ séc được đính kèm với bức thư để thanh toán cho các bản phác thảo sơ bộ, như đã thỏa thuận; số tiền đó không đủ để trang trải chi phí thực hiện những bản vẽ đó.
Bức thư được để ngỏ trên bàn làm việc. Cameron ngồi trước nó, dựa người về phía sau, không chạm vào bàn, hai tay đặt trên đùi, hai mu bàn tay úp vào nhau, các ngón tay khép chặt. Nó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhưng ông ngồi co người lại và không cử động; như thể lá thư là một vật siêu nhiên, nó giống như chất phóng xạ Radium và nó đang phát ra các tia xạ có thể làm ông bị thương nếu ông cử động và để lộ làn da của mình.
Suốt ba tháng qua, ông đã chờ đợi hợp đồng với Công ty Tín thác Chứng khoán.
Trong hai năm qua, các cơ hội hiếm hoi đã lần lượt ra đi, sau khi thấp thoáng hiện ra trong những lời hứa mơ hồ và biến mất trong những lời từ chối thẳng thừng. Cách đây khá lâu, ông đã buộc phải để một nhân viên thiết kế nghỉ việc. Ông chủ nhà liên tục hỏi tiền thuê, lúc đầu là lịch sự, sau thì khô khan rồi thô lỗ và huỵch toẹt. Nhưng không ai trong văn phòng quan tâm đến điều đó cũng như những khoản nợ lương thường xuyên; bởi vì đã có hợp đồng của Công ty Tín thác chứng khoán rồi. Ông phó chủ tịch, người yêu cầu Cameron nộp bản thiết kế, đã nói rằng: “Tôi biết một số giám đốc sẽ không nhìn đến nó như tôi đâu. Nhưng cứ làm đi, ông Cameron. Chúng ta phải nắm lấy cơ hội này; tôi sẽ tranh đấu cho ông.”
Cameron đã nắm lấy cơ hội. Ông và Roark đã làm việc với cường độ khủng khiếp – để hoàn thành các bản vẽ đúng thời hạn, trước thời hạn, trước khi hãng Gould & Pettingill có thể nộp bản vẽ của họ. Pettingill là anh họ của vợ ông chủ tịch Ngân hàng và là một người nổi tiếng am hiểu về các di tích Pompeii; còn ông chủ tịch Ngân hàng lại là người hâm mộ cuồng nhiệt Julius Caesar và một lần, khi ở Rome, ông đã dành một tiếng mười lăm phút đồng hồ để kính cẩn thăm viếng Đại hý trường La Mã.
Cameron và Roark và một bình cà phê đen đã sống ở văn phòng từ bình minh này đến bình minh khác trongnhiều ngày. Cameron đã ép mình phải quên đi những hóa đơn tiền điện mà ông thỉnh thoảng bất giác nghĩ đến. Các bóng điện vẫn thắp trong phòng thiết kế vào lúc sáng sớm khi ông yêu cầu Roark đi mua bánh mì kẹp và Roark thấy bình minh đã lên trên các đường phố khi mà màn đêm vẫn ngự trị trong văn phòng, trong các cửa sổ nhìn ra bức tường gạch cao. Vào ngày cuối cùng, chính Roark đã buộc Cameron phải về nhà sau nửa đêm vì bàn tay của Cameron run rẩy còn đầu gối ông phải liên tục dựa vào cái ghế đẩu cao dùng để ngồi thiết kế thì mới đứng vững được. Ông dựa vào nó một cách chậm chạp, thận trọng và ốm yếu. Roark đưa ông xuống taxi và dưới ánh sáng một ngọn đèn đường, Cameron nhìn thấy khuôn mặt của Roark hõm sâu, đôi mắt cố mở to, đôi môi thì khô ráp. Buổi sáng hôm sau, Cameron bước vào phòng thiết kế và thấy bình cà phê trên sàn nhà, bên cạnh nó là một vũng nước đen và bàn tay của Roark đặt trong vũng nước đó, lòng bàn tay ngửa lên, các ngón tay khép hờ, người Roark nằm dài trên sàn, đầu ngửa ra sau, ngủ say như chết. Trên bàn, Cameron thấy các bản vẽ đã hoàn thành...
Ông ngồi nhìn bức thư trên bàn làm việc của mình. Điều tồi tệ là ông không thể nghĩ đến những đêm đã qua đó, ông không thể nghĩ đến tòa nhà đáng lẽ đã mọc lên ở Astoria và về tòa nhà giờ sẽ thay thế nó; ông chỉ nghĩ đến hóa đơn tiền điện chưa được thanh toán...
Trong hai năm qua, có lúc Cameron đã không có mặt tại văn phòng của mình trong nhiều tuần liền và Roark không thấy ông ở nhà. Anh biết điều gì đang xảy ra nhưng anh chỉ có thể chờ đợi và hy vọng rằng Cameron sẽ trở về an toàn. Rồi Cameron thậm chí mất cả cảm giác xấu hổ về tình trạng của mình; ông khật khưỡng đến văn phòng, không nhận ra một ai, say rượu một cách công khai và khoe khoang điều đó trước những bức tường của tòa nhà duy nhất trên trái đất mà ông tôn trọng.
Roark học cách đối mặt với người cho thuê nhà bằng một câu trả lời nhẹ nhàng, rằng anh không thể trả tiền thuê trong tuần tới; ông chủ nhà sợ anh và không kiên quyết đòi nữa. Bằng cách nào đó, Peter Keating biết được điều này – giống như anh luôn biết mọi thứ mà anh muốn biết. Anh đến căn phòng không có lò sưởi của Roark vào một buổi tối và ngồi xuống mà vẫn mặc nguyên áo khoác. Anh mở ví, lấy ra năm tờ mười đô và đưa cho Roark. “Cậu cần nó, Howard. Tôi biết là cậu cần nó. Đừng phản đối. Cậu có thể trả lại tôi bất kỳ lúc nào.” Roark nhìn anh, ngạc nhiên, nhận lấy số tiền và nói: “Đúng vậy, tôi cần nó. Cảm ơn anh, Peter.” Sau đó Keating nói: “Cậu đang làm cái quái gì vậy, phí phạm bản thân mình cho ông già Cameron à? Tại sao cậu lại muốn sống như vậy chứ? Dẹp nó đi, Howard, đến chỗ tôi. Tôi chỉ cần nói một tiếng là được. Francon sẽ rất mừng. Chúng tôi sẽ trả cậu mức lương khởi điểm là 60 đô một tuần.” Roark lấy tiền khỏi ví của mình và đưa lại cho Keating.
“Ồ, vì Chúa, Howard! Tôi... tôi không có ý xúc phạm cậu.”
“Tôi cũng vậy.”
“Thôi nào, Howard, hãy cầm tiền đi.”
“Tạm biệt anh, Peter.”
Roark đang nhớ lại chuyện này khi Cameron bước vào phòng thiết kế, bức thư của Công ty Tín thác Chứng khoán trong tay ông. Ông đưa bức thư cho Roark, chẳng nói gì, quay ra và đi về phòng của mình. Roark đọc lá thư và đi theo ông. Bất kỳ khi nào họ bị mất thêm một hợp đồng, thì Roark biết Cameron muốn gặp anh trong phòng làm việc của mình, không phải để nói về chuyện đó; mà chỉ là để nhìn thấy anh ở đó, để nói về những chuyện khác và để cảm thấy an tâm về sự hiện diện của anh.
Trên bàn làm việc của Cameron, Roark nhìn thấy tờ Ngọn cờ New York.
Nó là tờ báo hàng đầu của tập đoàn Wynand nổi tiếng. Nó là tờ báo mà anh biết là có thể tìm thấy trong bếp, ở cửa hàng cắt tóc, trong một phòng thiết kế hạng ba, dưới tàu điện ngầm, ở bất kỳ chỗ nào, ngoại trừ trong văn phòng của Cameron. Cameron thấy anh nhìn nó và nhăn mặt.
“Tôi mua nó sáng nay trên đường đến đây đấy. Buồn cười, phải không? Tôi không biết là chúng ta sẽ... nhận được bức thư đấy vào hôm nay. Nhưng có vẻ chúng đẹp đôi đấy – tờ báo này và bức thư. Không biết tại sao tôi lại mua nó. Chắc là linh cảm về các biểu tượng liên quan đến nhau. Đọc đi, Howard. Thú vị lắm đấy!”
Roark đọc lướt qua tờ báo. Trang đầu tiên có hình một bà mẹ không hôn thú với đôi môi dày bóng nhẫy đã bắn chết người tình của mình; bức hình mở đầu cho kỳ đầu tiên của cuốn tự truyện và những tin chi tiết về phiên tòa xử bà ta. Các trang tiếp theo đưa tin một cuộc vận động chống lại các công ty dịch vụ công cộng (điện, nước, chất đốt); tử vi hàng ngày; trích đoạn các bài thuyết giáo của nhà thờ; công thức nấu ăn cho các cô dâu trẻ; ảnh các cô gái đẹp; tư vấn cách giữ chồng; thi bé khỏe bé đẹp; một bài thơ tuyên bố rằng rửa bát cao quý hơn soạn nhạc giao hưởng; một bài báo chứng minh rằng một phụ nữ đã sinh một đứa con thì tự động trở thành một vị thánh.
“Đó là câu trả lời cho chúng ta, Howard. Đó là câu trả lời cho cậu và cho tôi. Tờ báo này. Sự tồn tại của nó và việc nó được ưa chuộng. Cậu có thể đấu tranh chống lại điều đó không? Cậu có lời nào để nói cho họ nghe và làm cho họ hiểu không? Lẽ ra họ không cần gửi thư cho chúng ta làm gì. Họ chỉ cần gửi tờ Ngọn cờ của Wynand. Sẽ đơn giản và rõ ràng hơn nhiều. Cậu có biết rằng chỉ một vài năm nữa, cái thằng khốn nạn, vô liêm sỉ Gail Wynand đó sẽ thống trị thế giới này không? Sẽ là một thế giới tuyệt đẹp. Và có lẽ hắn ta đúng.”
Cameron mở rộng tờ báo và để nó trong lòng bàn tay mình để ước lượng.
“Cho bọn chúng cái bọn chúng muốn, Howard, và để chúng tôn thờ vì đã liếm gót chân chúng... hay là... hay là... Ôi, đằng nào cũng thế... Chả còn nghĩa lý gì cả, chả nghĩa lý gì hết, thậm chí việc nó chả có ý nghĩa gì cũng chẳng còn quan trọng với tôi...”
Rồi ông nhìn Roark. Ông nói thêm:
“Giá mà tôi có thể cố gắng đến lúc tôi giúp cậu đứng được một mình, Howard...”
“Đừng nói đến chuyện đó.”
“Tôi muốn nói đến chuyện đó... Thật buồn cười, Howard, đến mùa xuân tới là cậu làm ở đây được ba năm. Cảm giác là lâu hơn thế nhiều, đúng không? Hừm, tôi đã dạy cậu cái gì chưa nhỉ? Tôi sẽ nói cho cậu biết: Tôi đã dạy cậu rất nhiều và chẳng gì cả. Không ai có thể dạy cậu bất kỳ cái gì – không thể dạy ở phần gốc rễ, nguồn cội của nó. Cái mà cậu đang làm – nó là của cậu, không phải của tôi, tôi chỉ có thể dạy cậu làm nó tốt hơn mà thôi. Tôi có thể đưa cho cậu phương tiện, chứ không phải là mục đích – mục đích là của chính cậu. Cậu sẽ không phải là tín đồ đi chắp vá những thứ nhỏ mọn từ thời tiền vua Giêm I hoặc hậu Cameron. Cậu sẽ trở thành... giá mà tôi có thể sống để thấy điều đó!”
“Bác sẽ sống để thấy điều đó. Và bác biết điều đó, ngay chính lúc này.”
Cameron đứng nhìn những bức tường trống không của văn phòng mình, các tập hóa đơn trắng trên bàn làm việc của mình, những vệt nước mưa đen như bồ hóng chầm chậm chạy dọc cửa sổ.
“Tôi không có câu trả lời nào cho chúng, Howard ạ. Tôi sẽ để cậu đối mặt với chúng. Cậu sẽ trả lời chúng. Tất cả bọn chúng – những tờ báo của Wynand, những cái làm cho những tờ báo như thế tồn tại, và cả những cái phía sau chúng. Giao cho cậu việc này là kỳ quặc. Tôi không biết câu trả lời của chúng ta là gì. Tôi chỉ biết rằng có một câu trả lời và rằng cậu đang nắm giữ nó, rằng cậu chính là câu trả lời, Howard, và một ngày nào đó, cậu sẽ tìm được từ ngữ để diễn tả nó.”
[1] Ở đây, Keating gọi Guy Francon bằng tên riêng là Guy - điều này ám chỉ hai người trở nên rất thân, do đó sẽ không có “ông” hay “ngài” nữa. (NHĐ)