Một cột báo có tựa đề Quan sát và Suy ngẫm do Alvah Scarret viết xuất hiện hàng ngày trên trang nhất của tờ Ngọn cờ New York. Nó là một chỉ dẫn đáng tin cậy, một nguồn cảm hứng và là khung tham chiếu dư luận cho những thị trấn nhỏ trên khắp cả nước. Trong cột báo này nhiều năm trước đã xuất hiện câu nói nổi tiếng: “Tất cả chúng ta sẽ tốt hơn rất nhiều nếu chúng ta quên đi những ý tưởng khoa trương của nền văn minh xa hoa của chúng ta và quan tâm nhiều hơn đến điều mà người nguyên thủy đã biết trước chúng ta lâu rồi: đó là kính trọng mẹ của chúng ta.” Alvah Scarret là một người đàn ông góa vợ, có hai triệu đô la, chơi gôn rất giỏi và là tổng biên tập những tờ báo của tập đoàn Wynand.
Chính Alvah Scarret là người nghĩ ra ý tưởng về một chiến dịch chống lại điều kiện sống trong những khu nhà ổ chuột và “Những kẻ chủ trọ cá mập.” Ông đăng nó trên tờ Ngọn cờ New York trong ba tuần lễ. Đây là đề tài mà Alvah Scarret ưa chuộng. Nó vừa hấp dẫn người đọc lại vừa có ảnh hưởng xã hội. Nó bổ trợ cho những tấm ảnh của trang phụ trương Chủ nhật – nơi có hình những cô gái nhảy xuống những dòng sông tắm, váy họ tốc lên quá đầu gối. Nó làm tăng lượng số phát hành. Nó làm mất mặt những con cá mập nhà đất vốn sở hữu những dãy nhà bên bờ sông Đông và là những kẻ được chọn làm mục tiêu chiến dịch. Những con cá mập này đã từ chối bán khu nhà này ột công ty bất động sản không mấy tên tuổi; cuối chiến dịch họ đầu hàng và bán chúng. Chẳng ai có thể chứng minh được là công ty bất động sản đó được sở hữu bởi một công ty do Gail Wynand sở hữu.
Những tờ báo của Wynand không bao giờ lại để một thời gian dài trôi qua mà không có một chiến dịch nào. Họ vừa kết thúc một chiến dịch về chủ đề hàng không hiện đại. Họ đăng những bài miêu tả khoa học về lịch sử ngành hàng không trên phụ trương Tạp chí Gia đình Chủ nhật, với những bức ảnh chụp từ những bức vẽ máy bay của Leonardo da Vinci cho đến những máy bay ném bom mới nhất; được bổ sung bằng hình vẽ về sự quằn quại đau đớn của Icarus[1] trong những ngọn lửa màu đỏ, cơ thể trần truồng của anh ta màu xanh lá cây pha lam, những đôi cánh bằng sáp của anh ta màu vàng và khói màu tím; hình vẽ về một mụ già bị bệnh hủi với đôi mắt bùng cháy và một quả cầu thủy tinh, người đã dự đoán rằng trong thế kỷ XI loài người sẽ bay; thêm vào đó là hình những con dơi, ma cà rồng và ma sói.
Các tờ báo của Wynand đã đăng tải một cuộc thi làm máy bay mẫu; cuộc thi được mở cho tất cả những cậu bé dưới mười tuổi mong muốn gửi ba bản mô tả mới đến tờ Ngọn cờ. Gail Wynand, người có chứng chỉ phi công, đã làm một chuyến bay một mình từ Los Angeles đến New York, thiết lập một kỷ lục về tốc độ xuyên lục địa, bằng một máy bay nhỏ được chế tạo một cách đặc biệt, có giá một trăm ngàn đô la. Ông đã tính toán hơi sai về thời gian đến New York và đã buộc phải hạ cánh ở một vùng đồng cỏ mấp mô; đó là một cú hạ cánh dựng tóc gáy, được xử lý hoàn hảo; và thật tình cờ làm sao, một đám thợ chụp ảnh của tờ Banner lại có mặt ngay trong vùng lân cận. Gail Wynand đã bước ra khỏi máy bay. Một phi công ưu tú hẳn đã bị sốc bởi cú hạ cánh này. Nhưng Gail Wynand đứng trước những máy ảnh, một bông hoa dành dành không hề có dấu bầm dập nằm trên ve áo khoác của ông, bàn tay ông giơ lên với một điếu thuốc lá kẹp giữa hai ngón tay không hề run. Khi được hỏi về mong muốn đầu tiên của ông khi trở lại mặt đất, ông đã nói rằng ông mong ước được hôn người phụ nữ hấp dẫn nhất có mặt ở đó, rồi ông đã chọn bà già ăn mặc tồi tàn nhất từ đám đông và cúi xuống hôn lên trán bà một cách trang nghiêm, giải thích là bà gợi ông nhớ đến người mẹ của mình.
Sau đó, khi khởi đầu chiến dịch nhà ổ chuột, Gail Wynand đã nói với Alvah Scarret: “Tiến hành đi. Vắt kiệt tất cả những gì anh có thể vắt ra từ cái chiến dịch đó,” rồi khởi hành trên chiếc du thuyền của ông để đi một chuyến du hành thế giới, được tháp tùng bởi một nữ phi công hai mươi tư tuổi – người mà ông đã tặng chiếc máy bay xuyên lục địa của mình.
Alvah Scarret đã tiến hành. Trong rất nhiều nước cờ của chiến dịch, ông giao cho Dominique Francon điều tra điều kiện của những ngôi nhà trong những khu ổ chuột và thu thập thông tin về những người ở đây. Dominique Francon vừa mới trở về từ một mùa hè ở Biarritz; cô luôn đi nghỉ suốt cả mùa hè và Alvah Scarret chấp nhận thế, vì cô là một trong những nhân viên yêu thích của ông, vì ông bị cô làm cho bối rối và vì ông biết là cô có thể bỏ công việc của cô bất kỳ khi nào cô muốn.
Dominique Francon đến sống hai tuần trong phòng ngủ của một căn hộ chung cư thuộc khu bờ Đông thành phố. Căn phòng có một cửa sổ mái nhưng không có cửa sổ thường nào; người ta phải leo năm tầng mới lên tới nơi; và nó không có nước. Cô tự nấu ăn trong căn bếp của rất nhiều gia đình ở tầng bên dưới; cô thăm các hàng xóm, cô ngồi trên đầu cầu thang của những lối thoát hỏa hoạn vào các buổi tối và đi xem những bộ phim rẻ tiền với các cô gái xung quanh đó.
Cô mặc những chiếc váy và áo sơ mi sờn rách. Sự mỏng manh không bình thường vốn có của cô đã khiến cô trông như người bị kiệt sức bởi sự thiếu thốn trong điều kiện sống ở đây; những người hàng xóm cảm thấy chắc chắn là cô bị lao. Nhưng cô đi lại như cô đã đi lại trong căn phòng vẽ của Kiki Ho be – cũng với sự đường hoàng và tự tin lạnh lùng đó. Cô kỳ cọ sàn phòng mình, cô gọt khoai tây, cô tắm trong một bồn bằng thiếc đựng nước lạnh. Trước đây cô chưa hề làm những việc này; cô làm chúng một cách thành thạo. Cô có một khả năng hành động – điều này không hề hòa hợp với vẻ bề ngoài của cô. Cô không ngại môi trường sống mới, cô thờ ơ với những khu ổ chuột cũng như cô đã thờ ơ với những phòng khách thượng lưu.
Hết hai tuần đó, cô trở lại căn hộ trên tầng mái của một khách sạn bên kia Công viên Trung tâm, và những bài báo của cô về cuộc sống trong những nhà ổ chuột xuất hiện trên tờ Ngọn cờ. Chúng là những bài báo xuất sắc, không chút khoan dung.
Cô nghe thấy những câu hỏi hoang mang ở một bữa tiệc tối. “Cưng ơi, em không thực sự viết những thứ đó đấy chứ?” “Dominique, cô không thực sự sống trong chỗ đó đấy chứ?”
“Ồ tôi có sống ở đó,” cô trả lời. “Chính là cái nhà bà sở hữu trên phố 12 Tây, bà Palmer ạ,” cô nói, bàn tay xoay tròn một cách lười biếng trong một chiếc vòng tay bằng ngọc lục bảo quá rộng và nặng đối với cổ tay thanh mảnh của cô, “có một cái cống cứ hai ngày lại tắc một lần và tràn ra, khắp cả sân trong. Nó có màu xanh và tím trong ánh mặt trời, như một cái cầu vồng.” “Khu nhà ông điều hành cho công ty bất động sản Claridge, ông Brooks ạ, có những thạch nhũ hấp dẫn nhất mọc trên tất cả những trần nhà,” cô nói, mái đầu vàng của cô ngả về phía bó hoa dành dành trắng với những giọt nước lấp lánh trên những cánh hoa không xỉn màu.
Người ta đề nghị cô đến nói chuyện ở một buổi gặp mặt của những người làm công tác xã hội. Đó là một buổi gặp mặt quan trọng, với một tinh thần chiến đấu và cấp tiến, được dẫn dắt bởi một số những phụ nữ nổi bật nhất của ngành. Alvah Scarret hài lòng và chúc mừng cô. “Đi đi, cô bé,” ông nói, “Nói thật lực vào. Chúng ta muốn có những người làm công tác xã hội.” Cô đứng trên bục dành cho diễn giả của một cái sảnh ngột ngạt và nhìn vào một mặt phẳng gồm những khuôn mặt – những khuôn mặt háo hức một cách phóng đãng với cảm giác về sự đức hạnh của chính chúng. Cô nói đều đều, không hề có ngữ điệu. Ngoài nhiều điều khác, cô nói “Gia đình ở tầng một phía đằng sau không buồn trả tiền thuê nhà, và những đứa trẻ không thể đến trường vì thiếu quần áo. Người bố có một tài khoản thanh toán ở một quán rượu lậu ở góc đường[2]. Ông ấy khỏe mạnh và có một công việc tốt... Đôi vợ chồng trên tầng ba vừa mua một cái radio với giá sáu mươi chín đô la và chín mươi nhăm xen bằng tiền mặt. Ở phần phía trước của tầng năm, người cha của gia đình chưa hề làm việc cả ngày bao giờ, và cũng không định làm thế. Có chín đứa con, được hỗ trợ bởi xứ đạo địa phương. Đứa thứ mười lại sắp ra đời...” Khi cô nói xong có một vài cái vỗ tay tức giận. Cô giơ tay lên và nói: “Quý vị không phải vỗ tay đâu. Tôi không mong đợi điều đó.” Cô hỏi một cách lịch sự: “Có câu hỏi nào không ạ?” Chẳng có câu hỏi nào hết cả.
Khi trở về nhà cô thấy Alvah Scarret đang đợi mình. Ông trông không hòa hợp với phòng khách của căn hộ trên tầng mái của cô, cái vóc dáng đồ sộ của ông ngất ngưởng trên mép của một chiếc ghế mảnh mai tinh tế, như một cái tượng thằng gù phản chiếu qua cửa kính xuống một tấm nền là thành phố lấp lánh ánh điện. Thành phố giống như một bức tranh tường được thiết kế để chiếu sáng và hoàn thiện căn phòng: đường nét mỏng manh của những ngọn tháp trên một bầu trời đen tiếp nối những đường nét mỏng manh của đồ gỗ; những ngọn đèn lấp lánh trong các khung cửa sổ ở phía xa đổ bóng lên sàn nhà trần trụi, sáng bóng; sự chính xác lạnh lùng của những cấu trúc đầy góc cạnh phía bên ngoài tương hợp vẻ duyên dáng lạnh lẽo cứng nhắc của mọi vật thể bên trong. Alvah Scarret phá vỡ sự hài hòa ấy. Trông ông vừa giống như một bác sĩ nông thôn tốt bụng vừa như một tay cờ bạc bịp vậy. Khuôn mặt nặng nề mang nụ cười nhân đức của một người cha – một nụ cười đã luôn là chìa khóa mở cửa và là thương hiệu của ông. Ông rất thạo việc làm cho vẻ tốt bụng của nụ cười của ông thêm vào, chứ không làm giảm đi, cái vẻ chính trực nghiêm túc của ông; chiếc mũi dài, gầy, khoằm không làm giảm đi vẻ tốt bụng, mà nó lại thêm vào cho vẻ chính trực; bụng ông – vốn nhô ra phía trước hai chân – thật sự có làm giảm cái chính trực ấy, nhưng nó lại thêm vào vẻ tốt bụng.
Ông đứng dậy, tươi cười và cầm tay Dominique. “Tôi đã nghĩ là sẽ ghé vào trên đường về nhà,” ông nói. “Tôi có điều này cần nói với em. Mọi chuyện thế nào, cô bé?”
“Như tôi đã mong đợi.”
Cô kéo mũ ra và ném nó xuống chiếc ghế đầu tiên cô nhìn thấy. Tóc cô ẹp xuống, tạo thành một gợn sóng phẳng ngang trán và đổ thành một đường thẳng tới đôi vai; trông nó mềm mại và căng, như một chiếc mũ bơi bằng kim loại bóng và nhạt màu. Cô đi đến cửa sổ và đứng nhìn ra ngoài, phía trên thành phố. Cô hỏi mà không quay lại: “Anh muốn nói gì với tôi?”
Alvah Scarret quan sát cô một cách thích thú. Từ lâu ông đã từ bỏ tất cả các cố gắng vượt qua việc nắm bàn tay cô khi không cần thiết hay vỗ vào vai cô; ông đã thôi không nghĩ đến chủ đề đó, nhưng ông có một cảm giác lờ mờ, nửa tỉnh táo, mà ông đã tổng kết cho bản thân mình trong mấy từ: Biết đâu đấy.
“Tôi có tin vui cho em đây, cô bé.” Ông nói. “Tôi có một kế hoạch nhỏ, chỉ là một chút sắp xếp lại, và tôi đã nghĩ ra phải kết hợp mấy thứ với nhau để thành lập một Ban Phúc lợi Phụ nữ. Em biết đấy, giáo dục, kinh tế gia đình, chăm sóc trẻ nhỏ, vị thành niên phạm pháp và tất cả những vấn đề khác cần được đảm đương bởi một người. Và tôi thấy không ai làm tốt hơn cô gái nhỏ của tôi đây.”
“Anh muốn nói là tôi?” cô hỏi mà không quay lại.
“Còn ai vào đây nữa. Ngay khi Gail trở về, tôi sẽ xin ông ta duyệt.”
Cô quay lại và nhìn vào mặt ông, hai cánh tay cô bắt chéo vào nhau, bàn tay nắm lấy khuỷu tay.
Cô nói: “Cám ơn, Alvah. Nhưng tôi không muốn làm công việc đó.”
“Em nói không muốn công việc đó là ý làm sao?”
“Là ý tôi không muốn làm công việc đó.”
“Chúa ơi, em có nhận ra rằng đấy là một bước tiến như thế nào không?”
“Tiến tới cái gì?”
“Sự nghiệp của em.”
“Tôi chưa bao giờ nói là tôi dự định có một sự nghiệp.”
“Nhưng em hẳn không muốn cứ viết mãi một cột báo nhỏ ở trang cuối chứ!”
“Không phải mãi mãi. Chỉ đến khi nào tôi chán.”
“Nhưng em hãy nghĩ đến điều em có thể làm trong một cuộc chơi thực sự. Hãy nghĩ đến việc Gail có thể làm cho em một khi em được ông ta quan tâm!”
“Tôi không mong muốn được ông ta quan tâm.”
“Nhưng chúng tôi cần em, Dominique. Giới phụ nữ sẽ hoàn toàn đi theo em, sau tối nay.”
“Tôi không nghĩ như vậy.”
“Tại sao chứ, tôi đã giữ hai cột báo để đăng chuyện về cuộc mít-tinh và bài diễn thuyết của em.”
Cô với lấy điện thoại và đưa ống nghe cho ông. Cô nói:
“Anh nên bảo họ bỏ nó đi.”
“Tại sao?”
Cô lục một đống giấy lộn xộn trên bàn, tìm kiếm những tờ được đánh máy và đưa chúng cho ông.
“Đây là bài diễn thuyết tôi đã viết tối nay,” cô nói.
Ông liếc nhìn mảnh giấy. Ông bóp trán một cái, không nói gì. Sau đó ông chộp lấy điện thoại và yêu cầu đăng một thông báo càng ngắn gọn càng tốt về buổi mít-tinh và không nói tên người diễn thuyết.
“Được rồi,” Dominique nói khi ông ta hạ ống nghe xuống. “Tôi bị sa thải chứ?”
Ông ta lắc đầu một cách buồn thảm. “Cô muốn như vậy chứ?”
“Không nhất thiết.”
“Tôi sẽ ém chuyện này đi.” Ông ta làu bàu. “Tôi sẽ không để cho Gail biết.”
“Nếu như anh muốn vậy. Tôi không quan tâm, thế nào cũng được.”
“Nghe này, Dominique – Ồ, tôi biết, tôi không được phép đặt câu hỏi – nhưng tôi chỉ thắc mắc vì cái quái gì mà em cứ luôn làm những chuyện như thế?”
“Chẳng vì cái quái gì cả.”
“Xem nào, em biết đấy, tôi đã nghe nói về cái bữa tiệc phô trương ấy, nơi mà em đã đưa ra một số nhận xét về chính chủ đề này. Thế rồi em lại đến và nói những điều thế kia trong buổi mít-tinh cấp tiến.”
“Cả hai cái đều đúng, đúng không?”
“Thì, đúng rồi, nhưng nếu em đã chọn việc nói ra thì tại sao em không đảo ngược hai dịp với nhau?”
“Làm thế thì có ý nghĩa gì?”
“Thế việc em làm thì có ý nghĩa gì?”
“Không, chẳng có ý nghĩa gì cả. Nhưng nó làm tôi thích thú.”
“Tôi không hiểu em, Dominique. Em đã từng làm thế này rồi. Em cứ đồng ý làm việc, rồi em làm mọi thứ rất tốt, và khi em sắp sửa có thể tiến một bước dài về phía trước thì em lại phá hỏng tất bằng cách gây ra một việc như thế này. Tại sao chứ?
“Có lẽ đó chính là lý do tại sao đấy.”
“Em có thể nói cho tôi – như với một người bạn, vì tôi thích em và quan tâm tới em – xem em thực sự theo đuổi cái gì?
“Tôi nghĩ điều đấy rất rõ ràng. Tôi không theo đuổi điều gì cả.”
Ông dang hai bàn tay ra, nhún vai bất lực.
Cô mỉm cười vui vẻ.
“Có gì mà trông anh phải thiểu não thế nhỉ? Tôi cũng thích anh, Alvah, và tôi quan tâm đến anh. Thậm chí tôi còn thích nói chuyện với anh – điều này còn hay hơn. Bây giờ hãy ngồi yên nào và thư giãn đi, tôi sẽ mang cho anh một ly rượu. Anh cần một ly rượu, Alvah ạ.”
Cô mang cho ông một cái ly để lạnh với những viên đá kêu lanh canh trong bầu không khí yên lặng. “Em là một đứa bé dễ thương, Dominique,” ông nói.
“Tất nhiên rồi. Tôi chính là như thế.”
Cô ngồi xuống mặt bàn, hai bàn tay xòe ra phía sau lưng, người dựa lên hai cánh tay và đôi chân đung đưa chầm chậm. Cô nói:
“Anh biết đấy, Alvah, sẽ thật khủng khiếp nếu như tôi có một công việc mà tôi thực sự muốn.”
“Thế đấy, trong hết thảy mọi điều! Trong hết thảy những điều ngốc nghếch em nói! Ý của em là sao?”
“Chỉ thế thôi. Rằng sẽ thật khủng khiếp khi có một công việc mà tôi thích và tôi không muốn mất nó.”
“Tại sao?”
“Bởi vì tôi sẽ phải phụ thuộc vào anh – anh là một người tuyệt vời, Alvah, nhưng mà anh không thực sự gây hứng thú cho ai và tôi không cho là sẽ hay ho khi phải cúi mình trước một cái roi trong tay anh – thôi nào, đừng phản đối tôi, đó có thể là một cây roi nhỏ rất lịch sự, và chính điều này lại càng làm cho sự việc trở nên tồi tệ hơn. Tôi có thể phải phụ thuộc vào sếp Gail của chúng ta – tôi chắc rằng ông ta là người vĩ đại, chỉ có điều tôi chắc chắn là tôi không bao giờ thèm để ý đến ông ta.”
“Cái gì làm cho em có thái độ điên rồ như vậy nhỉ? Khi mà em biết rằng Gail và tôi có thể làm bất cứ điều gì cho em, và riêng cá nhân tôi thì...”
“Không phải chỉ có thế đâu, Alvah. Không phải là vì riêng anh. Nếu như tôi tìm thấy một công việc, một kế hoạch, một ý tưởng hay một người mà tôi muốn – tôi có thể phải phụ thuộc vào nó hoàn toàn. Mọi thứ đều có những mối dây dẫn đến những thứ khác. Tất cả chúng ta đã quá ràng buộc lẫn nhau. Chúng ta đều đang trong một cái lưới, cái lưới đó đang chờ, và chúng ta bị mắc vào đó chỉ bởi một ham muốn duy nhất. Anh mong muốn một thứ gì đó và nó trở thành quý giá đối với anh. Anh có biết có ai đang đứng kia, sẵn sàng cướp nó khỏi tay anh không? Anh không thể biết, nó có thể ở rất sâu và rất xa, nhưng có ai đó đã sẵn sàng và anh sẽ sợ tất cả bọn họ. Và anh sẽ luồn cúi, anh sẽ bò, anh sẽ van xin và anh sẽ chấp nhận họ – chỉ để họ cho anh có cái anh muốn. Và hãy nhìn xem, anh đã chấp nhận ai.
“Nếu như tôi đúng trong việc hiểu rằng cô đang phê phán nhân loại nói chung...”
“Anh biết không, điều đó thật kỳ cục – cái ý nghĩ của chúng ta về nhân loại nói chung ấy. Chúng ta đều có một hình ảnh mơ hồ, lung linh khi chúng ta nói đến nhân loại nói chung – như một cái gì đó trang nghiêm, to lớn, và quan trọng. Nhưng trên thực tế, tất cả những gì chúng ta biết về nó chỉ là những người mà chúng ta gặp hàng ngày. Nhìn họ xem! Anh có thấy cái gì to lớn và trang nghiêm ở họ không? Chẳng có cái quái gì ngoài các bà nội trợ cò kè mặc cả bên những chiếc xe đẩy hàng, hay bọn trẻ con rớt rãi lòng thòng viết bậy viết bạ lên vỉa hè, hay bọn gái mới lớn say xỉn? Hay những kẻ tương tự như thế về tinh thần? Thực ra, cũng có thể có chút kính trọng với những người phải chịu đựng khổ sở. Họ còn có một chút tư cách nào đấy. Nhưng anh đã bao giờ nhìn bọn họ khi bọn họ sung sướng chưa? Đấy là lúc anh thấy sự thật. Hãy nhìn những kẻ đang tiêu những đồng tiền mà bọn họ đã bán mình để có chúng – ở các công viên giải trí hay ở các buổi diễn. Cứ nhìn lũ người giàu có và có cả thế giới dưới chân họ. Cứ xem xem họ chọn cái gì để giải trí. Hãy quan sát bọn họ trong các quán rượu hạng sang. Đấy chính là cái nhân loại nói chung của anh đấy. Tôi không muốn động vào chúng.
“Nhưng khỉ thật! Em không nên nhìn nhận vấn đề như thế. Đấy đâu phải là tất cả. Vẫn có cái tốt kể cả trong những người tồi tệ nhất. Ai cũng có cái tử tế mà.”
“Thế lại càng tệ. Thật là xúc động làm sao khi thấy một người có một hành động anh hùng, và rồi sau đó lại được biết rằng anh ta đến các buổi biểu diễn tạp kỹ hổ lốn để giải trí. Hay thấy một người vẽ một bức tranh tuyệt tác và rồi được biết rằng anh ta ngủ với bất cứ con điếm nào anh ta gặp?”
“Thế em muốn gì? Sự hoàn hảo chăng?”
“Hoàn hảo hoặc không gì cả. Cho nên anh thấy đấy tôi chọn cái không gì cả.”
“Điều đó không có ý nghĩa gì cả.”
“Tôi chọn một ham muốn duy nhất mà một người có thể thực sự cho phép chính bản thân mình. Sự tự do, Alvah ạ, tự do.”
“Em gọi đó là tự do?”
“Không đòi hỏi gì. Không mong chờ gì. Không phụ thuộc vào cái gì.”
“Thế nếu em tìm thấy cái mà em muốn thì sao?”
“Tôi sẽ không tìm kiếm nó. Tôi sẽ không chọn việc nhìn thấy nó. Nó sẽ là một phần thế giới đáng yêu của các anh. Tôi sẽ phải chia sẻ nó với tất cả các anh – và tôi sẽ không làm như thế. Anh biết không, tôi không bao giờ mở lại bất kỳ một quyển sách tuyệt hay nào mà tôi đã từng đọc và say mê. Đọc lại những cuốn sách này làm cho tôi đau khổ khi phải nghĩ đến những cặp mắt khác cũng đã đọc nó và rồi phải nghĩ những cặp mắt đó thuộc về ai. Những điều như vậy không thể bị chia sẻ. Không phải với những người như thế.”
“Dominique, thật không bình thường khi có tình cảm quá mạnh như thế về bất cứ cái gì.”
“Đó là cách có tình cảm duy nhất của tôi. Hoặc là tôi sẽ chẳng có tình cảm gì.”
“Dominique, em yêu quý” ông nói với một giọng sốt sắng, quan tâm chân thành, “Tôi ước gì tôi là cha em. Em đã trải qua bi kịch gì trong tuổi thơ của mình thế không biết?”
“À, không hề. Tôi có một tuổi thơ tuyệt vời. Tự do, bình yên và không bị làm phiền quá nhiều bởi bất kỳ ai. Thực tình thì tôi luôn cảm thấy một nỗi buồn chán thường xuyên. Nhưng tôi đã quen với nó.”
“Tôi nghĩ em là sản phẩm không may của cái thời đại này. Đó là điều mà tôi thường nói. Chúng ta ích kỷ, quá suy đồi. Nếu như chúng ta khiêm cung quay lại với những đức hạnh đơn giản...”
“Alvah, sao anh lại có thể nói những điều như thế nhỉ? Nó chỉ dành cho những bài xã luận của anh và...” Cô ngừng lại, nhìn vào mắt ông: hai con mắt ngạc nhiên và có chút thương tổn. Sau đó cô cười to. “Tôi sai rồi. Anh thực sự tin tưởng vào tất cả những cái đó. Nếu như đấy thực sự là niềm tin hoặc cái gì đấy mà mặt anh thể hiện. Ôi, Alvah! Đó chính là lý do vì sao tôi lại thích anh. Đó là lý do tại sao tôi lại đang lặp lại, vào chính lúc này, cái điều mà tôi đã làm tối nay tại buổi mít-tinh.”
“Cái gì?” ông bối rối hỏi.
“Nói chuyện như tôi đang nói với anh đây – với anh như chính anh. Thật dễ chịu khi nói chuyện với anh về những thứ này. Anh biết không, Alvah, người nguyên thủy đã tạc tượng các vị thần của họ giống như hình dáng con người? Thử nghĩ xem bức tượng của anh trông như thế nào nhỉ – tượng anh khỏa thân, có đủ bụng và tất cả mọi thứ.”
“Nào, cái này thì liên quan gì đây?”
“Chả liên quan đến cái gì cả, bạn thân mến ạ. Thứ lỗi cho tôi.” Cô nói thêm: “Anh biết đấy, tôi yêu những bức tượng đàn ông khỏa thân. Đừng có thần người ra thế. Tôi nói là tượng. Tôi có riêng một bức. Đấy là tượng Helios. Tôi có được nó từ một viện bảo tàng ở châu Âu. Tôi đã rất vất vả mới có được nó – tất nhiên là người ta không bán bức tượng. Tôi nghĩ tôi đã phải lòng bức tượng, Alvah ạ. Tôi đem nó về nhà với tôi.”
“Nó đâu rồi? Tôi muốn xem một cái gì đó mà em thích, để đổi gió.”
“Nó bị vỡ rồi.”
“Bị vỡ? Một cái tượng đã được đưa vào bảo tàng? Làm sao lại có chuyện đó?”
“Tôi đã đập nó.”
“Thế nào?”
“Tôi đã ném nó xuống ống thông hơi. Ở phía dưới có một cái nền bê tông.”
“Em hoàn toàn điên rồi à? Tại sao?”
“Để không người nào khác có thể nhìn thấy bức tượng nữa.”
“Dominique!”
Cô lắc mạnh đầu như thể rũ bỏ câu chuyện; mái tóc dày thẳng của cô rối thành một đường gợn, trông giống như một con sóng gợn trên một mặt hồ thủy ngân đang hóa lỏng một nửa. Cô nói: “Tôi xin lỗi, bạn yêu quý. Tôi không muốn làm anh sốc. Tôi nghĩ tôi có thể nói chuyện với anh vì anh là người đã miễn dịch với các cú sốc. Lẽ ra tôi không nên làm vậy. Chẳng ích gì, tôi đoán thế.”
Cô nhẹ nhàng nhảy xuống khỏi bàn.
“Về nhà đi, Alvah,” cô nói. “Đã muộn rồi. Tôi mệt. Hẹn gặp anh ngày mai nhé.”