Suối Nguồn (The Fountainhead)

Guy Francon đọc bài báo của con gái ông. Ông đã nghe về những nhận xét của cô tại buổi tiếp tân và tại cuộc mít-tinh với những người làm công tác xã hội. Ông không hiểu gì về chuyện này, nhưng ông biết nó chính là phần tiếp theo của chuỗi sự kiện mà ông biết con gái ông chắc chắn làm. Ý nghĩ này giày vò ông, với cảm giác hoang mang lo sợ mà ông luôn có mỗi khi nghĩ đến con gái. Ông tự hỏi liệu ông có thực sự ghét con gái mình không.
Tuy nhiên bất cứ khi nào ông tự hỏi mình câu hỏi đó, một hình ảnh lại bất giác hiện về trong tâm trí ông... Đó là hình ảnh tuổi thơ con gái ông, là hình ảnh một ngày hè nào đó, đã lâu lắm rồi, tại điền trang thôn quê của ông ở Connecticut. Ông đã quên mọi thứ khác về ngày hôm đó, cũng như quên cái gì đã dẫn đến cái khoảnh khắc ông ghi nhớ. Nhưng ông nhớ mình đã đứng ở hiên nhà và trông thấy cô bé nhảy qua một hàng rào xanh cao ở cuối bãi cỏ như thế nào. Hàng rào đó dường như quá cao đối với cô bé; ông đã nghĩ trong đầu rằng cô không thể nhảy qua được – vào chính cái khoảnh khắc ông nhìn thấy cô đang bay một cách đắc thắng qua bức hàng rào xanh đó. Ông không thể nhớ được khoảnh khắc bắt đầu và kết thúc của cú nhảy; nhưng ông vẫn trông thấy thật rõ ràng và sắc nét, như trên một tấm phim được cắt ra và lưu giữ bất động mãi mãi, cái giây phút khi thân hình đứa con gái ông lơ lửng trong không trung, đôi chân dài của nó xoạc rộng, những cánh tay mảnh khảnh vung lên, bàn tay quạt vào không khí, cái váy trắng và mái tóc vàng của cô bé xòe ra thành hai vạt tóc rộng phẳng trong gió – ông đã nhìn thấy trong một khoảnh khắc, hình ảnh một thân hình nhỏ bé bùng nổ trong sự tự do xuất thần nhất mà ông từng được chứng kiến trong đời.
Ông không biết tại sao khoảnh khắc đó đọng lại trong ông; ông không biết điều quan trọng gì – ông không để ý lúc ấy – đã khiến ông giữ lại khoảnh khắc này trong khi rất nhiều thứ quan trọng hơn đã bị lãng quên. Ông không biết tại sao cái khoảnh khắc đó lại hiện về bất cứ khi nào ông cảm thấy cay đắng cho con mình; và cũng không biết tại sao mỗi lần nghĩ đến cảnh ấy, ông lại thấy một cảm giác dịu dàng nhoi nhói trong ông đến mức không chịu nổi. Ông tự nhủ với mình rằng đấy là tình phụ tử trong ông đang lên tiếng khẳng định mình, bất chấp ý chí của ông. Nhưng về mặt nào đó – xa lạ và không chủ ý – ông muốn giúp đỡ cô mà không biết và cũng không muốn biết cô phải được giúp đỡ để chống lại cái gì.
Chính vì lẽ đó ông bắt đầu để ý thường xuyên hơn đến Peter Keating. Ông bắt đầu chấp nhận cái giải pháp mà ông chưa bao giờ thừa nhận với bản thân cả. Ông tìm thấy sự dễ chịu từ con người của Peter Keating, và ông cảm thấy rằng tính nhất quán đơn giản và ổn định của Keating là sự bù đắp cần thiết cho sự thiếu nhất quán không lành mạnh của con gái ông.
Keating sẽ không thừa nhận rằng anh đã cố gặp lại Dominique – một cách dai dẳng và không có kết quả. Anh có được số điện thoại của cô từ Francon rất lâu rồi, và anh thường gọi điện cho cô. Cô đã trả lời, cười vui vẻ và nói với anh rằng tất nhiên cô muốn gặp anh, rằng cô biết không thể thoát được điều này, rằng không may là cô lại quá bận bịu trong những tuần sắp tới và liệu anh sẽ gọi điện cho cô vào ngày đầu tháng sau không.
Francon đoán được điều này. Ông nói với Keating ông sẽ mời Dominique đi ăn trưa và giúp họ được gặp lại nhau. “Nghĩa là,” ông thêm vào, “tôi sẽ cố hỏi nó xem. Tất nhiên là con bé sẽ từ chối.” Dominique đã làm ông ngạc nhiên: cô chấp nhận lời đề nghị – tức thì và vui vẻ.
Cô gặp họ ở một nhà hàng, và mỉm cười như thể đây là một cuộc hội ngộ mà cô trông đợi. Cô nói chuyện vui vẻ và Keating cảm thấy hưng phấn, thoải mái – anh tự hỏi tại sao anh lại từng e sợ cô. Nửa giờ sau cô nhìn Francon và nói: “Thật là tuyệt khi cha dành chút thời gian của mình để gặp con. Đặc biệt là khi cha bận rộn và có quá nhiều cuộc hẹn đến thế.”
Francon làm ra vẻ sửng sốt. “Chúa ơi, Dominique, con nói thế làm cha nhớ ra một việc!”
“Cha quên cuộc hẹn nào hay sao?” cô hỏi nhẹ nhàng.
“Ố, chết tiệt thật, đúng rồi. Cha hoàn toàn quên khuấy đi mất. Một người quen của cha, Andrew Colson đã gọi cho cha buổi sáng nay và cha đã quên ghi lại và ông ta khăng khăng đòi gặp vào lúc hai giờ, con biết việc này là như thế nào đấy, cha chỉ đơn giản là không thể từ chối gặp Andrew Colson, chết tiệt thật! – lại là hôm nay mới chết...” Ông nói thêm một cách hoài nghi: “Làm thế nào mà con biết?”
“Ồ con chẳng biết gì về cuộc hẹn cả. Nhưng mà không sao đâu cha. Anh Keating và con sẽ thông cảm cho cha, chúng con sẽ có một bữa trưa thú vị cùng nhau, con thì không có cuộc hẹn nào ngày hôm nay cả, vì thế cha không phải lo là con sẽ trốn khỏi anh ấy đâu.”
Francon tự hỏi liệu cô có biết đấy là cái cớ mà ông đã chuẩn bị trước để cô một mình lại với Keating. Ông không chắc chắn lắm. Cô đang nhìn thẳng vào ông, hai con mắt cô dường như chỉ hơi quá vô tư. Ông vui mừng được đi thoát.
Dominique quay sang Keating với một cái liếc nhìn dịu dàng đến nỗi nó không thể có ý gì khác ngoài sự coi thường.
“Bây giờ hãy thoải mái nào,” cô nói. “Cả hai chúng ta biết cha tôi đang theo đuổi cái gì, vì thế nên chả sao cả. Anh đừng có xấu hổ về chuyện này. Tôi không hề xấu hổ về nó. Thật hay là anh đã xỏ mũi được cha. Nhưng tôi biết là việc xỏ mũi cha chẳng giúp ích gì cho anh đâu. Thế nên hãy quên nó đi và ăn bữa trưa của chúng ta.”
Anh muốn đứng dậy và bỏ đi; và biết – trong sự bất lực giận dữ – rằng anh sẽ không làm như thế. Cô nói:
“Đừng nhăn mặt, Peter. Anh có thể gọi tôi là Dominique[3], vì chẳng sớm thì muộn chúng ta cũng đi đến chỗ đó. Tôi chắc sẽ còn gặp anh rất nhiều. Tôi gặp rất nhiều người, cho nên nếu như việc gặp thêm anh làm cho cha tôi hài lòng thì sao lại không chứ.
Cho đến hết bữa trưa, cô nói chuyện với anh như với một người bạn cũ, vui vẻ và cởi mở; với một sự thẳng thắn không bình thường – nó dường như cho thấy chẳng có gì phải giấu giếm, đồng thời lại như nói rằng tốt hơn là đừng cố thăm dò. Sự tử tế quá mức trong cách cư xử của cô gợi ý rằng quan hệ của họ sẽ chẳng có kết quả khả dĩ nào, rằng cô không thể cho anh thậm chí cả sự cư xử hằn thù nữa. Anh biết rằng anh ghét cô khủng khiếp. Tuy vậy, anh quan sát hình dáng khuôn miệng của cô, những chuyển động của đôi môi khi cô nói; anh quan sát cách cô vắt chéo hai chân – một cử chỉ mềm mại và chính xác, như thể người ta gập một thứ gì đó rất đắt tiền – và anh không thể thoát khỏi cái cảm giác ngưỡng mộ đầy hoài nghi mà anh đã trải qua khi anh gặp cô lần đầu tiên.
Khi họ chuẩn bị đi, cô nói: “Anh sẽ đưa tôi đi rạp hát tối nay chứ, Peter? Tôi chẳng quan tâm kịch gì, bất kỳ vở nào cũng được. Hãy gọi cho tôi sau bữa tối. Nói cho cha tôi biết chuyện này. Nó sẽ làm ông ấy hài lòng.”
“Mặc dù, dĩ nhiên, cha cô đừng nên hài lòng thì hơn” Keating nói, “và tôi cũng như thế; nhưng dù vậy tôi vẫn rất vui lòng, Dominique ạ.”
“Tại sao anh không nên hài lòng thì hơn?”
“Bởi vì cô không hề có mong muốn đi xem hát hay gặp tôi tối nay.”
“Không một tí nào. Tôi đang bắt đầu cảm thấy mến anh, Peter. Gọi cho tôi lúc tám giờ rưỡi.”

Khi Keating quay trở lại văn phòng, Francon gọi anh lên phòng ông ta ngay lập tức.
“Thế nào?” Francon lo lắng hỏi.
“Có chuyện gì thế, Guy?” Keating nói, giọng anh ngây thơ. “Tại sao bác lại quan tâm vấn đề này đến vậy?”
“Ồ, tôi... tôi chỉ... thật lòng mà nói, tôi quan tâm đến việc liệu hai người có hợp nhau không. Tôi nghĩ cậu sẽ có ảnh hưởng tốt tới nó. Mọi chuyện thế nào?”
“Cũng chẳng có gì cả. Chúng cháu ăn trưa vui vẻ. Bác khéo chọn nhà hàng đấy, thức ăn thật tuyệt vời... À, phải rồi, cháu sẽ đưa con gái bác đi xem một buổi biểu diễn tối nay.”
“Không!”
“Có đấy!”
“Cậu làm thế nào mà lại được thế nhỉ?”
Keating nhún vai. “Cháu nói với bác rồi, không được sợ Dominique.”
“Tôi không sợ... Ồ, đã là “Dominique” rồi cơ à? Xin chúc mừng, Peter... Tôi không sợ gì cả, chỉ là tôi không thể hiểu được nó. Không ai có thể tiếp cận con bé. Nó chưa bao giờ có đến một cô bạn gái, thậm chí ngay cả ở nhà trẻ cũng không có. Xung quanh nó luôn có một đám đông, nhưng chẳng bao giờ có bạn cả. Tôi cũng chẳng biết nghĩ thế nào về vấn đề này. Giờ nó thế đấy, sống một mình, luôn có một lũ đàn ông xung quanh và...”
“Thôi nào, Guy, bác không được nghĩ chuyện gì bậy bạ về con gái bác.”
“Tôi không nghĩ thế! Đó chính là vấn đề đấy – rằng tôi không nghĩ thế. Tôi ước gì tôi có thể. Nhưng nó 24 tuổi, Peter ạ, và nó vẫn là gái trinh – tôi biết, tôi chắc chắn thế. Cậu có biết cách phát hiện điều này khi nhìn một cô gái không? Tôi không phải là một nhà đạo đức, và tôi nghĩ chuyện đó không bình thường. Thật là trái tự nhiên khi ở độ tuổi nó, với ngoại hình của nó, với cái kiểu sống hoàn toàn không có giới hạn của nó. Tôi cầu Chúa là nó sẽ lập gia đình. Tôi thật sự mong như thế... À, nào, đừng nhắc lại chuyện đó với nó, tất nhiên rồi, và cậu đừng hiểu lầm nhé, tôi không có ý nói thế để gợi ý đâu.”
“Tất nhiên là không rồi ạ.”
“Tiện thể, Peter này, bệnh viện đã gọi điện đến khi cậu ra ngoài. Họ nói Lucius tội nghiệp đã khá hơn. Họ nghĩ ông ta sẽ bình phục.”
Lucius N. Heyer đã bị đột quỵ, và Keating tỏ ra rất quan tâm đến tình trạng của ông, nhưng anh chưa hề đến bệnh viện thăm ông.
“Cháu rất vui khi nghe tin này,” Keating nói.
“Nhưng tôi không nghĩ là ông ta có thể trở lại làm việc. Ông ta đang ngày càng già, Peter ạ... Phải rồi, ông ta đang già đi... Ông ấy đã đến cái tuổi không nên làm việc nữa.”
Ông cầm con dao rọc giấy giữa hai ngón tay và gõ nó xuống mép cuốn lịch để bàn một cách trầm ngâm. “Chuyện này sẽ đến với tất cả chúng ta, Peter ạ, sớm muộn gì cũng vậy... Cần phải tính trước...”
*
*   *
Keating ngồi trên sàn, gần những thanh củi giả trong lò sưởi phòng khách, bàn tay anh siết chặt đầu gối, và anh lắng nghe những câu hỏi của mẹ anh về việc Dominique trông như thế nào, cô mặc gì, cô đã nói gì với anh, không biết mẹ cô thực sự đã để lại cho cô bao nhiêu tiền.

Bây giờ anh gặp Dominique thường xuyên. Anh vừa trở về sau một tối cùng cô đi một vòng các hộp đêm. Cô luôn chấp nhận lời mời của anh. Anh tự hỏi liệu thái độ của cô có phải một bằng chứng có chủ tâm rằng cô có thể phớt lờ anh một cách triệt để hơn bằng cách gặp gỡ anh thường xuyên thay vì việc từ chối gặp anh. Tuy vậy mỗi lúc gặp cô, anh lại háo hức lên kế hoạch cho cuộc hẹn tiếp theo. Anh đã không gặp Catherine một tháng nay. Cô bận bịu với công việc nghiên cứu mà chú cô giao phó cho cô để chuẩn bị ột loạt những bài giảng của ông.
Bà Keating ngồi dưới ánh đèn bàn, đang vá lại một vết rách nhỏ trong lớp vải lót áo vét-tông dùng đi ăn tối của Peter; bà trách móc anh, xen giữa những câu hỏi, về việc anh ngồi xuống sàn nhà trong khi mặc chiếc quần dài đẹp và cái áo trang trọng nhất của mình. Anh không để ý đến những lời chỉ trích hay câu hỏi của bà. Tuy nhiên trong trạng thái bị quấy rầy rất khó chịu này, anh lại cảm thấy một cảm giác thư giãn kỳ quặc; như thể một tràng những lời đay đi đay lại của bà lại đang thôi thúc và bào chữa cho anh.
Anh trả lời nhát gừng: “Đúng rồi... Không... Con không biết... Ồ, đúng rồi, cô ấy đáng yêu. Cô ấy rất đáng yêu... Mẹ ơi, muộn quá rồi đấy. Con mệt rồi. Con nghĩ con sẽ đi ngủ thôi...”
Chuông cửa rung lên.
“Chà,” bà Keating nói. “Có thể có chuyện gì vào giờ này nhỉ?”
Keating đứng lên, nhún vai và thong thả đi ra mở cửa.
Chính là Catherine. Cô đứng đó, hai tay siết chặt một quyển sách bỏ túi to, cũ, và xộc xệch. Trông cô vừa kiên quyết lại vừa lưỡng lự. Cô lùi lại một chút. Cô nói: “Chào anh, Peter. Em có thể vào không? Em phải nói chuyện với anh.”
“Katie! Tất nhiên rồi! Em thật dễ thương! Vào ngay đi. Mẹ à, đây là Katie.”
Bà Keating quan sát đôi bàn chân cô gái bước đi như thể cô đang đi trên một sàn tàu tròng trành; bà nhìn cậu con trai và bà biết rằng có chuyện gì đó đã xảy ra và cần phải xử lý thật thận trọng.
“Chào cháu, Catherine,” bà nói nhẹ nhàng.
Keating không nhận thức được điều gì ngoại trừ một nỗi vui mừng chạy xuyên qua người khi anh nhìn thấy cô; nỗi vui mừng ấy nói với anh rằng không có gì thay đổi, rằng anh vẫn an toàn trong cảm giác chắc chắn, rằng sự xuất hiện của cô đã giải tỏa mọi ngờ vực. Anh quên mất không thắc mắc về việc lúc đó đã muộn, về việc cô xuất hiện lần đầu tiên, không được mời, trong căn hộ của anh.
“Chào bác Keating” cô nói, giọng rõ ràng và trống rỗng. “Cháu hy vọng là cháu không quấy rầy bác, đã quá muộn rồi phải không ạ?”
“Ồ, không phiền chút nào cháu ạ,” bà Keating nói.
Catherine nói hấp tấp; cô không tỉnh táo, cô bám vào những âm thanh của từng từ:
“Cháu sẽ cởi mũ ra... Cháu có thể để nó ở đâu, bác Keating? Ở đây trên cái bàn này ạ? Như vậy có được không ạ?... Không, có thể cháu nên để nó trên cái tủ này, nhưng mà nó bị ẩm từ ngoài đường, cái mũ có thể làm hỏng lớp vécni, nó là một cái tủ tốt, cháu hy vọng là cái mũ không làm hỏng lớp vécni...”
“Có chuyện gì vậy, Katie?” Keating hỏi – rốt cuộc anh cũng nhận ra.
Cô ngước nhìn anh và anh nhìn thấy đôi mắt cô đầy sự kinh sợ. Đôi môi cô hé mở, cô đang cố gắng nở một nụ cười.
“Katie!” anh nói hổn hển.
Cô không nói gì.
“Em cởi áo khoác ra đi. Lại đây và sưởi ấm người cạnh lò sưởi đi.”

Anh đẩy một cái ghế dài thấp tới gần lò sưởi và ép cô ngồi xuống. Cô mặc một cái áo len đen và cái váy đen cũ – một bộ đồ ở nhà của nữ sinh mà cô đã không thay cho chuyến viếng thăm của mình. Cô ngồi khom người, đầu gối cô khép chặt vào nhau. Cô nói, giọng cô thấp và tự nhiên hơn, lần đầu tiên cô để nỗi đau chất chứa thoát ra trong giọng nói:
“Anh có một chỗ thật tuyệt... Rất ấm áp và rộng rãi... Anh có thể mở cửa sổ bất cứ lúc nào anh muốn không?”
“Katie em yêu,” anh nói dịu dàng, “chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Chẳng có việc gì cả. Chẳng có gì thực sự xảy ra cả. Chỉ là em phải nói chuyện với anh. Bây giờ. Tối nay.”
Anh nhìn bà Keating. “Nếu như mẹ có thể...”
“Không, không sao cả. Bác Keating có thể nghe câu chuyện này. Có thể nó sẽ tốt hơn nếu như bác cùng ngồi nghe.” Cô quay sang mẹ anh và nói một cách rất giản dị: “Bác thấy đấy, bác Keating, Peter và cháu đã đính hôn.” Cô quay lại phía anh và nói thêm, giọng cô vỡ ra: “Peter, em muốn cưới ngay bây giờ, ngày mai, càng sớm càng tốt.”
Bàn tay bà Keating buông từ từ xuống lòng. Bà nhìn Catherine, mắt bà vô cảm. Bà nói lặng lẽ, với một vẻ nghiêm trang mà Keating chưa bao giờ mong đợi ở mẹ mình:
“Bác không hề biết việc này, bác rất vui cháu ạ.”
“Bác không phản đối ư? Bác hoàn toàn không phản đối?” Catherine hỏi một cách tuyệt vọng.
“Ồ, cô bé, những việc như thế này phải do cháu và con trai ta quyết định.”
“Katie!” anh nói hổn hển, lấy lại giọng nói của mình. “Chuyện gì xảy ra vậy? Tại sao lại càng sớm càng tốt?”
“Ồ! Việc này nghe có vẻ như... như là em đang mắc phải một thứ rắc rối mà các cô gái phải...” Cô đỏ dừ mặt. “Ồ, Chúa ơi! Không! Không phải vậy đâu! Anh biết là không thể là như thế được. Ồ, anh không thể nghĩ rằng, Peter, rằng em... rằng...”
“Không, tất nhiên là không phải như vậy rồi,” anh cười, ngồi xuống sàn nhà bên cạnh cô, luồn một cánh tay quanh người cô. “Nhưng hãy bình tĩnh nào. Có việc gì vậy? Em biết đấy anh có thể cưới em tối nay nếu như em mong muốn anh làm điều này. Chỉ có điều anh muốn biết cái gì đã xảy ra?”
“Không có vấn đề gì cả. Giờ thì em ổn rồi. Em sẽ nói cho anh. Anh sẽ nghĩ là em điên rồ. Em chỉ đột nhiên có cảm giác là em sẽ không bao giờ cưới anh, rằng một điều gì đó khủng khiếp đang xảy ra với em và em phải thoát khỏi nó.”
“Điều gì đang xảy ra với em vậy?”
“Em không biết. Không có việc gì cả. Cả ngày hôm nay em làm việc với những ghi chép nghiên cứu của mình, và không hề có vấn đề gì xảy ra. Không có một cuộc gọi nào và cũng không có khách viếng thăm. Và rồi đột nhiên tối nay, em có cảm giác, giống như một cơn ác mộng, anh biết không, một sự khiếp sợ mà anh không thể miêu tả đựơc, nó hoàn toàn không giống như bất kỳ cái gì bình thường cả. Nó chỉ là cảm giác rằng em đang bị nguy hiểm đến tính mạng, rằng có cái gì đó đang vây chặt lấy em, rằng em sẽ không bao giờ thoát khỏi nó, bởi vì nó sẽ không để em thoát và vì đã quá trễ.”
“Rằng em không thể thoát ra khỏi cái gì?”
“Em không biết đích xác. Tất cả mọi thứ. Cả cuộc đời em. Anh biết đấy, nó giống như cát lún vậy. Thật phẳng lặng và tự nhiên. Không có điều gì khiến anh phải để ý hay đề phòng. Và anh bước lên nó một cách dễ dàng. Khi anh nhận ra thì đã quá muộn... Và em cảm thấy nó sẽ bắt được em, rằng em sẽ không bao giờ cưới anh, rằng em phải chạy, ngay bây giờ, bây giờ hoặc là không bao giờ. Anh đã bao giờ có cảm giác như vậy chưa, chỉ là một nỗi sợ mà anh không thể nào lý giải được?”
“Rồi,” anh thì thầm.
“Anh có nghĩ là em điên rồ không?”
“Không, Katie. Chỉ có điều, chính xác thì cái gì gây cho em ý nghĩ như vậy? Có cái gì cụ thể không?”
“Ồ... bây giờ thì nó có vẻ buồn cười.” Cô rúc rích cười một cách hối lỗi. “Chuyện là như thế này: em đang ngồi trong phòng mình và trời hơi lạnh, chính vì vậy em đã không mở cửa sổ phòng. Trên mặt bàn có quá nhiều giấy tờ và sách, em hầu như không có một khoảng trống nào để viết và cứ khi nào em ghi chép khuỷu tay em lại đẩy cái gì đó rớt khỏi bàn. Có hàng đống thứ trên sàn nhà xung quanh em, tất cả giấy tờ, và nó kêu sột soạt khe khẽ, do em để cánh cửa phòng khách mở một nửa và có một một chút gió lùa, em đoán thế. Chú em cũng đang làm việc trong phòng khách. Em đang làm việc khá ổn, em đã ở đó hàng giờ liền và thậm chí không biết là lúc đó mấy giờ. Và đột nhiên cảm giác này xâm chiếm em. Em không biết là tại sao lại như thế. Có thể là vì căn phòng quá ngổn ngang, hay có thể là do sự yên ắng, em không nghe thấy bất cứ cái gì, không một âm thanh trong phòng khách, và chỉ có tiếng giấy sột soạt rất nhẹ, giống như thể ai đó đang bị bóp cổ đến chết. Và khi đó em nhìn quanh và... và em không thấy chú em ngồi trong phòng khách, nhưng em nhìn thấy bóng ông trên tường, một cái bóng lớn, gù gù, và nó không hề động đậy, chỉ có điều là nó quá lớn!”
Cô rùng mình. Việc này dường như không còn ngu ngốc với cô nữa. Cô thì thầm:
“Đó chính là lúc em cảm thấy thế. Cái bóng đó không hề chuyển động, nhưng em nghĩ rằng tất cả giấy tờ thì lại đang di chuyển, chúng đang dâng lên rất chậm khỏi sàn nhà, chúng đang đi về phía cổ họng của em và em sắp sửa chết đuối. Khi đó em gào lên. Và, Peter, chú ấy không hề nghe thấy gì. Chú ấy không nghe thấy. Bởi vì cái bóng không cử động. Sau đó em chộp lấy mũ, áo choàng và em chạy. Khi em chạy qua phòng khách, em nghĩ rằng chú em đã nói: ‘Ồ Catherine, mấy giờ rồi? – Cháu đang đi đâu đấy?’ Đại loại như thế, em không chắc lắm. Nhưng khi đó em đã không ngoái lại và em không trả lời – em không thể. Em thấy sợ ông ấy. Em sợ chú Ellsworth, người chưa bao giờ nói nặng với em một lời... Đó là tất cả mọi chuyện, Peter. Em không thể hiểu được, nhưng em sợ. Không còn quá sợ nữa, không còn nữa khi em ở đây với anh, nhưng em sợ rằng...”

Bà Keating nói, giọng bà khô và quả quyết:
“Ồ, thật dễ hiểu việc gì đã xảy ra với cháu, cháu yêu quý. Cháu đã làm việc quá căng thẳng và quá nhiều, cháu chỉ hơi bị kích động thôi.”
“Vâng... có thể là như vậy...”
“Không,” Keating nói đều đều, “không, không thể là nó được...” Anh đang nghĩ đến cái loa phóng thanh trong hành lang của buổi mít-tinh đình công. Sau đó anh nói nhanh: “Ừ, mẹ đúng đấy. Em đang tự giết mình bằng công việc, Katie. Cái ông chú của em – anh sẽ vặn cổ ông ấy một ngày nào đó.”
“Ồ, nhưng đó không phải lỗi của chú ấy! Chú không hề muốn em làm việc. Chú thường lấy sách của em đi và nhắc nhở em hãy đi xem phim. Chính chú bảo em thế, rằng em làm việc quá nhiều. Nhưng em thì lại thích công việc. Em cứ nghĩ rằng mỗi ghi chép của em, mỗi mẩu thông tin – chúng sẽ được dạy cho hàng trăm sinh viên trẻ khắp nước, và em nghĩ rằng chính mình đang giúp đào tạo con người, chỉ một chút xíu sức lực của chính mình đóng góp ột sự nghiệp lớn lao – và em thấy tự hào và không muốn ngừng công việc. Anh hiểu rồi phải không? Em thật sự không có điều gì phải phàn nàn về vấn đề này. Và rồi... rồi, như tối nay... em không biết điều gì đã xảy ra với mình.”
“Nghe này, Katie, chúng mình sẽ đi đăng ký kết hôn sáng ngày mai và sau đó chúng mình sẽ tổ chức đám cưới ngay lập tức, ở bất cứ chỗ nào em muốn.”
“Chúng mình hãy làm như vậy nhé, anh Peter,” cô thì thầm. “Anh thật sự không thấy phiền? Em chẳng có lý do thực sự nào cả, nhưng em rất muốn điều đó. Em rất muốn chúng mình cưới nhau. Lúc đó em sẽ biết là mọi chuyện đều ổn cả. Chúng mình sẽ ổn. Em có thể tìm một công việc gì đó nếu như anh... nếu như anh chưa thật sự sẵn sàng hay...”
“Ồ, vớ vẩn nào. Đừng nói như vậy. Chúng mình sẽ ổn. Không có chuyện gì đâu. Chỉ cần chúng mình cưới nhau và mọi việc khác sẽ tự khắc đâu vào đấy.”
“Anh yêu, anh hiểu, đúng không? Anh thực sự hiểu?”
“Anh hiểu, Katie.”
“Bây giờ mọi việc đã được thu xếp,” bà Keating nói, “Bác sẽ pha cho cháu một tách trà nóng, Catherine. Cháu cần một tách trà trước khi về nhà.”
Bà pha trà, và Catherine uống với vẻ biết ơn; cô mỉm cười nói: “Cháu... cháu thường e ngại rằng bác sẽ không tán thành việc này, bác Keating ạ.”
“Làm thế nào mà cháu lại có ý nghĩ ấy chứ,” bà Keating kéo dài giọng, giọng bà không phải là một câu hỏi. “Bây giờ cháu hãy về nhà như một cô gái ngoan và ngủ ngon nhé.”
“Mẹ à, Katie không thể ở đây tối nay được sao? Cô ấy có thể ngủ với mẹ.”
“Thôi nào, Peter, đừng có kích động như vậy chứ. Chú cô ấy sẽ nghĩ sao đây?”
“Ồ, không, tất nhiên là em không nên ở lại đây. Em sẽ hoàn toàn ổn thôi, Peter. Em sẽ về nhà.”
“Không, nếu như em...”
“Em không sợ. Không phải bây giờ. Em ổn rồi. Anh không nghĩ là em sợ chú Ellsworth đấy chứ?”
“Được thôi. Nhưng em đừng đi vội.”
“Nào, Peter,” bà Keating nói, “con không muốn cô ấy đi qua các phố vào lúc muộn hơn thế này đấy chứ.”
“Con sẽ đưa cô ấy về nhà.”
“Không,” Catherine nói. “Em thế này đã là vớ vẩn lắm rồi. Không, em sẽ không để anh đưa em về.”
Anh hôn cô ở cửa và nói: “Anh sẽ đến chỗ em vào lúc mười giờ sáng mai và chúng mình sẽ đi đăng ký.”
“Vâng, Peter,” cô thì thầm.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui