Suối Nguồn (The Fountainhead)


II.
Dominique tình dậy mỗi sáng với hình dung về một ngày mà cô sẽ làm cho nó trở nên trọng đại bởi sự hiện diện của cái mục tiêu mà cô phải đạt tới: cô sẽ biến hôm nay thành một ngày mà cô không đi tới mỏ đá.
Cô đã mất cái tự do mà cô yêu thích. Cô biết rằng bản thân trận chiến dai dẳng chống lại sự cưỡng bách của một ham muốn cũng chính là một sự cưỡng bách, nhưng nó tồn tại trong một hình thái mà cô dễ chấp nhận hơn. Đấy là cách duy nhất mà cô có thể để anh làm động cơ thúc đẩy cuộc sống của cô. Cô tìm thấy một niềm thỏa mãn đen tối trong sự đau đớn – bởi vì sự đau đớn ấy đến từ anh.
Cô đi thăm những người hàng xóm xa – một gia đình giàu có, lịch thiệp mà lúc ở New York, cô cho là tẻ ngắt; cô đã không đi thăm ai suốt cả mùa hè. Họ ngạc nhiên và vui mừng được đón cô. Cô ngồi giữa một nhóm những người có thế lực ở bên bờ một bể bơi. Cô quan sát cái không khí lịch sự cảnh vẻ ở quanh cô. Cô quan sát sự tôn kính trong bộ dạng của những người này khi họ nói chuyện với cô. Cô liếc nhìn bóng mình trong bể bơi: trông cô giản dị hơn bất cứ ai trong bọn họ.
Một buổi tối, một người khách đề nghị được lái xe đưa cô về nhà. Anh ta là một nhà thơ trẻ nổi tiếng. Anh ta xanh xao và dong dỏng; có một cái miệng mềm mại, tinh tế và một đôi mắt như bị cả vũ trụ làm cho tổn thương. Cô đã không để ý tới sự quan tâm đầy ngụ ý mà anh dành cho cô lâu nay. Khi họ lái xe xuyên qua buổi hoàng hôn, cô thấy anh nghiêng người một cách do dự về phía cô. Cô nghe thấy giọng anh thì thầm những lời cầu xin rời rạc mà cô đã nghe thấy từ rất nhiều người đàn ông. Anh dừng xe lại. Cô thấy môi anh áp vào bờ vai cô.
Cô vùng ra khỏi anh ta. Cô ngồi im trong một giây, bởi vì cô sẽ phải chạm vào anh ta nếu cô cử động và cô không thể chịu được việc chạm vào anh ta. Rồi cô mở tung cửa xe, cô nhảy ra ngoài, sập mạnh cửa xe lại phía sau, như thể tiếng sập cửa có thể xóa anh ta ra khỏi thực tại và cô điên cuồng chạy. Một lúc sau, cô ngừng chạy và cô đi bộ, run rẩy; cô đi xuống con đường tối cho đến khi cô nhìn thấy đường mái của nhà mình.
Cô dừng lại, nhìn quanh mình với cảm giác kinh ngạc đầy đủ đầu tiên. Những sự việc như thế đã xảy ra với cô thường xuyên trong quá khứ; có điều lúc đó, cô đã thích thú; cô đã không cảm thấy sự kinh tởm; cô chẳng cảm thấy gì cả.
Cô đi bộ chậm chạm dọc bãi cỏ, vào đến nhà. Trên cầu thang dẫn lên phòng mình, cô dừng lại. Cô nghĩ đến người đàn ông ở mỏ đá. Cô nghĩ, bằng những ngôn từ rành mạch, thành lời, rằng người đàn ông đó muốn cô. Cô đã biết trước điều đó; cô đã biết nó từ cái liếc nhìn đầu tiên của anh lên người cô. Nhưng cô chưa bao giờ tuyên bố cái nhận thức này với bản thân mình.
Cô cười lớn. Cô nhìn xung quanh mình; nhìn vào sự nguy nga im lìm của ngôi nhà. Ngôi nhà làm cho những lời của cô trở nên phi lý. Cô biết điều này chưa bao giờ xảy ra với cô. Và cô biết sự chịu đựng mà cô có thể bắt anh chịu.
Trong nhiều ngày, cô đi lại trong các căn phòng của ngôi nhà với cảm giác thỏa mãn. Đây là phòng tuyến của cô. Cô nghe thấy những tiếng nổ từ mỏ đá và mỉm cười.
Nhưng cô cảm thấy căn nhà quá chắc chắn và quá an toàn. Cô cảm thấy một ham muốn phải hạ thấp sự an toàn bằng cách thách thức nó.
Cô chọn một miếng đá cẩm thạch ở phía trước lò sưởi trong phòng ngủ của cô. Cô muốn đập vỡ nó. Cô quỳ, búa trong tay, và cố đập vỡ phiến đá. Cô đập liên tục, cánh tay gầy guộc vung lên quá đầu, bổ xuống với một sự bất lực hung bạo. Cô cảm thấy đau trong những khớp xương của cánh tay, xương bả vai. Cô chỉ có thể tạo ra được một vết nứt dài trên phiến đá.
Cô đi tới mỏ đá. Cô thấy anh từ xa và bước thẳng tới chỗ anh.
“Chào.” – cô nói với vẻ bình thường.
Anh dừng mũi khoan. Anh dựa người vào một gờ đá. Anh trả lời:
“Chào.”
“Tôi đã nghĩ tới anh” – cô nói khẽ, và dừng lại, rồi nói thêm, giọng cô tuôn ra đều đều như một lời mời hấp dẫn – “bởi vì có một chút việc nặng cần làm trong nhà tôi. Anh có muốn kiếm thêm ít tiền không?”
“Chắc chắn rồi, cô Francon.”
“Anh có thể đến chỗ tôi tối nay không? Lối vào cho người hầu ở phía đường Ridgewood. Có một viên đá cẩm thạch ở lò sưởi bị vỡ và cần được thay. Tôi muốn anh lấy nó ra và đặt một viên mới cho tôi.”
Cô chờ đợi sự giận dữ và từ chối. Anh hỏi:
“Mấy giờ thì tôi đến?”
“Bảy giờ. Anh được trả công bao nhiêu ở đây?”
“Sáu mươi hai xu một giờ.”
“Tôi chắc là anh đáng giá từng đó. Tôi sẵn sàng trả cho anh như vậy. Anh có biết tìm nhà tôi không?”
“Không, cô Francon.”
“Cứ hỏi người trong làng chỉ cho.”
“Được, cô Francon.”
Cô bước đi, thất vọng. Cô cảm thấy sự ngầm hiểu giữa họ đã bị mất; anh đã nói như thể đó là một công việc đơn giản mà cô có thể đề nghị bất cứ người thợ nào. Rồi cô thấy một khoảng rỗng chìm dần bên trong – cái cảm giác nhục nhã và khoan khoái mà anh luôn mang lại cho cô: cô nhận ra rằng sự ngầm hiểu giữa hai người trở nên gần và trắng trợn hơn bao giờ hết – trong sự chấp nhận tự nhiên của anh với một lời đề nghị không tự nhiên; anh đã cho cô thấy anh biết những gì – chính ở sự không hề ngạc nhiên của anh.
Cô yêu cầu người quản gia già và vợ ông ta ở lại trong nhà vào buổi tối đó. Sự hiện diện khiêm cung của họ làm cho khung cảnh một biệt thự cổ trở nên trọn vẹn. Cô nghe thấy tiếng chuông cửa từ lối vào dành cho người làm đúng bảy giờ. Bà già dẫn anh vào trong sảnh trước – ở đó Dominique đứng trên cái chiếu nghỉ của cầu thang lớn.
Cô quan sát anh tiến lại gần, nhìn lên cô. Cô giữ tư thế của mình đủ lâu để anh có thể nghi ngờ rằng đấy là một tư thế có chủ đích, được cố ý dàn dựng; cô phá vỡ nó đúng vào cái khoảnh khắc ngay trước khi anh trở nên chắc chắn về nó. Cô nói:
“Chào.” Giọng cô nhẹ, nghiêm nghị.
Anh không trả lời nhưng khẽ nghiêng đầu và đi lên cầu thang về phía cô. Anh mặc quần áo lao động và mang theo một túi dụng cụ. Cử động của anh mang một vẻ nhanh nhẹn, thoải mái trái ngược với ngôi nhà, với những bậc thang đánh bóng, với những lan can tinh xảo, cứng nhắc. Cô đã chờ được thấy anh trở nên lố bịch trong nhà cô; nhưng chính là căn nhà dường như trở nên lố bịch xung quanh anh.
Cô đưa một tay, ra dấu cánh cửa phòng ngủ của cô. Anh đi theo. Anh dường như không để ý tới căn phòng khi anh bước vào. Anh bước vào như thể nó là một cái xưởng. Anh đi thẳng tới chỗ lò sưởi.
“Nó đấy.” – cô nói, một ngón tay trỏ vào miếng đá.
Anh không nói gì. Anh quỳ xuống, lấy một tấm kim loại mỏng ra khỏi túi đồ, giữ nó cắm vào vết nứt trên mặt đá, lấy một cái búa ra và gõ mạnh. Viên đá nứt thành một đường dài, sâu.
Anh liếc lên nhìn cô. Đấy là cái nhìn mà cô đã sợ – cái nhìn mang một tiếng cười mà cô không thể đáp lại, bởi vì tiếng cười ấy không thể nhìn thấy, chỉ có thể cảm thấy. Anh nói:
“Giờ thì nó vỡ rồi và cần phải được thay.”
Cô hỏi bình thản:
“Anh có biết nó là loại đá nào và có thể đặt một miếng như thế ở đâu không?”
“Có, cô Francon.”
“Thế thì làm đi. Lấy nó ra.”
“Vâng, cô Francon.”
Cô đứng nhìn anh. Thật lạ khi cảm thấy sự cần thiết phi lý phải quan sát một tiến trình thủ công như thể mắt cô đang giúp vào tiến trình ấy. Rồi cô nhận ra rằng cô sợ phải nhìn căn phòng quanh mình. Cô buộc mình ngẩng đầu lên.
Cô nhìn thấy cái giá trên bàn trang điểm, cái gờ thủy tinh của nó như một miếng ruy-băng mỏng, bằng sa-tanh xanh trong bóng tối mờ mờ; và những cái lọ pha lê; cô thấy một đôi dép lê trắng để đi trong phòng ngủ, một cái khăn màu xanh nhạt trên sàn, ngay cạnh gương; một đôi tất vứt trên thành ghế; cô thấy tấm ga trải giường bằng sa-tanh trắng. Áo của anh có những vết nhơ ẩm ướt và những đám bụi đá màu xám; bụi làm thành những vệt ngang dọc trên da tay anh. Cô cảm thấy mỗi đồ vật trong phòng đều đã được anh chạm vào, như thể không khí trong phòng là một bể nước nặng nề mà cả hai người đều đã đầm mình trong đó; và làn nước đã chạm vào anh lại chuyển cái va chạm đó sang cô, tới mọi đồ vật trong phòng. Cô muốn anh nhìn lên. Anh làm việc, không hề ngẩng đầu lên.
Cô tiến lại gần anh và đứng im lặng phía trên anh. Cô chưa bao giờ đứng gần anh như vậy. Cô nhìn xuống làn da nhẵn ở gáy anh; cô có thể phân biệt từng sợi tóc của anh. Cô liếc xuống mũi chiếc xăng-đan của cô. Nó ở đó, trên sàn, chỉ cách cơ thể anh vài xăng-ti-mét; cô chỉ cần một cử động, một cử động rất nhỏ của bàn chân, là chạm vào anh. Cô bước lùi lại sau.
Anh quay đầu nhưng không ngẩng lên, mà chỉ lấy một dụng cụ khỏi túi, và lại cúi xuống công việc.
Cô cười lớn. Anh dừng lại và liếc nhìn cô.
“Gì vậy?” – anh hỏi.
Mặt cô nghiêm nghị, giọng cô nhẹ nhàng khi cô trả lời:
“À, tôi xin lỗi. Anh có thể nghĩ là tôi cười anh. Nhưng dĩ nhiên là không.”
Cô nói thêm:
“Tôi không muốn làm phiền anh. Tôi chắc anh nóng lòng làm cho xong và đi khỏi đây. Dĩ nhiên, ý tôi là bởi vì anh hẳn rất mệt. Nhưng mặt khác, tôi đang trả công anh theo giờ; vì thế nên cũng chả sao nếu như anh kéo dài thời gian một chút, nếu anh muốn kiếm nhiều hơn. Hẳn là anh phải muốn nói chuyện gì đó.”
“À, vâng, cô Francon.”
“Thế nào?”
“Tôi nghĩ cái lò sưởi này xấu tồi tệ.”
“Thế à? Cái nhà này do cha tôi thiết kế.”
“Vâng, dĩ nhiên rồi, cô Francon.”
“Anh không có lý gì lại bàn việc của một kiến trúc sư.”
“Hoàn toàn không có lý gì.”
“Chắc chắn là chúng ta có thể chọn một chủ đề khác.”
“Vâng, cô Francon.”
Cô bước đi khỏi anh. Cô ngồi xuống giường, chống người vào những cánh tay thẳng, hai chân bắt chéo và áp sát vào nhau thành một đường thẳng dài. Thân người cô, hơi chùng xuống từ bả vai, đối nghịch với sự chính xác tuyệt vời của đôi chân; sự nghiêm khắc lạnh lùng trên mặt cô đối nghịch với dáng ngồi của cô.
Thỉnh thoảng anh liếc nhìn cô trong lúc làm việc. Anh nói với vẻ phục tùng:
“Tôi sẽ đảm bảo việc lấy cho cô một miếng đá đúng loại này, cô Francon. Việc phân biệt các loại cẩm thạch rất quan trọng. Nhìn chung, có ba loại. Loại cẩm thạch trắng, hình thành do sự kết tinh của đá vôi, cẩm thạch mã não là do can-xi các-bon-nát lắng lại, còn cẩm thạch xanh chủ yếu gồm hợp chất si-li-cát hoặc séc-pơ-tin có tích nước của ma-giê. Loại sau cùng này thực ra không phải là cẩm thạch thực sự. Cẩm thạch thực sự phải là dạng biến chất của đá vôi, hình thành do nhiệt và áp suất. Áp suất là một nhân tố quan trọng. Nó đưa đến những hậu quả mà một khi đã phát sinh thì khó kiểm soát”.
“Những hậu quả nào?” – cô hỏi, nghiêng người về phía trước.
“Sự kết tinh của các hạt đá vôi và sự xâm nhập của các tạp chất từ trong đất xung quanh. Những thứ này tạo nên các vệt màu thường thấy ở hầu hết các loại cẩm thạch. Cẩm thạch hồng là do sự có mặt của ô-xít măng-gan; cẩm thạch xám là do chất than chì, cẩm thạch vàng là do việc ô-xi hóa sắt. Miếng cẩm thạch này, dĩ nhiên, là cẩm thạch trắng. Có nhiều loại cẩm thạch trắng khác nhau. Cô phải rất cẩn thận, cô Francon.”
Cô ngồi chúi người về trước, thu mình thành một cái bóng đen mờ mờ; ánh sáng ngọn đèn rọi vào một bàn tay cô đang đặt hờ trên đầu gối, lòng bàn tay ngửa lên, những ngón tay khép hờ, một đường ánh sáng mảnh vạch qua các kẽ ngón tay, màu vải thẫm của chiếc váy cô mặc khiến cho bàn tay trở nên quá trần trụi và trắng.
“... để đảm bảo là tôi sẽ đặt một miếng đá khác cùng loại. Ví dụ như không nên thay bằng một miếng cẩm thạch trắng vùng Georgia, vì nó không mịn như cẩm thạch trắng vùng Alabama. Đây là cẩm thạch Alabama. Loại rất tốt. Rất đắt.”
Anh thấy bàn tay cô nắm lại và buông xuống, ra khỏi ánh đèn. Anh tiếp tục công việc trong im lặng.
Khi anh đã xong, anh đứng dậy, hỏi cô:
“Tôi nên bỏ vụn đá ở đâu?”
“Cứ để đó. Tôi sẽ cho người dọn.”
“Tôi sẽ đặt một miếng mới, đo vừa và mang đến cho cô, cô trả tiền khi nhận đá. Cô có muốn tôi gắn nó không?”
“Có chứ, chắc chắn rồi. Tôi sẽ cho anh biết khi nào nó đến. Tôi nợ anh bao nhiêu tiền?” Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ trên cái bàn cạnh giường. “Để xem nào, anh ở đây 45 phút. Vậy là 48 xu.” Cô với tay lấy túi, cô lấy ra đồng một đô la, đưa cho anh. “Cứ giữ lấy tiền thừa đi.” – cô nói.
Cô hy vọng anh sẽ ném nó vào mặt cô. Anh nhét tờ bạc vào túi. Anh nói:
“Cảm ơn, cô Francon.”
Anh nhìn rìa tay áo dài của cô đang run lên ở bên dưới những ngón tay nắm chặt.
“Chúc ngủ ngon.” – cô nói; giọng cô rỗng ra vì giận dữ.
Anh cúi người. “Chúc ngủ ngon, cô Francon.”
Anh quay người và bước xuống cầu thang, ra khỏi nhà.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui