Keating nóng ruột đợi cho đến khi cô dừng lại một giây. Anh muốn thay đổi chủ đề. Anh liếc nhìn xung quanh phòng và thấy mấy tờ báo Chủ nhật. Đây là một câu hỏi mà anh đã muốn hỏi từ rất lâu. Anh thận trọng cất tiếng:
“Ellsworth... chú nghĩ thế nào về Roark?”
“Roark? Roark?” Toohey hỏi. “Roark là ai?”
Vẻ quá ngây thơ, quá vô tư trong cách ông lặp lại cái tên, với một dấu chấm hỏi uể oải khinh miệt nổi bật ở cuối, làm cho Keating chắc chắn rằng Toohey biết cái tên này rất rõ.
Người ta không bao giờ cần nhấn mạnh việc mình hoàn toàn không biết gì về vấn đề nếu người ta thực sự không biết về nó. Keating nói:
“Howard Roark. Chú biết đấy, kiến trúc sư. Người đang xây cái nhà Enright ấy.”
“À? À, phải, vậy là cuối cùng cũng có một ai đó xây Ngôi nhà Enright?”
“Trên tờ Tin Hàng ngày hôm nay có một bức ảnh về nó.”
“Thế à? Tôi cũng có liếc qua tờ Tin Hàng ngày.”
“Và... chú nghĩ gì về tòa nhà đó?”
“Nếu nó mà quan trọng thì tôi đã nhớ nó rồi.”
“Tất nhiên rồi!” Những âm tiết trong giọng của Keating nhảy múa, như thể hơi thở của anh giữ chặt từng âm tiết đi qua: “Thật là một thứ kinh khủng, điên rồ! Không giống bất cứ cái gì người ta từng nhìn thấy hoặc muốn nhìn!”
Anh cảm thấy được giải thoát. Cứ như thể anh đã mất cả cuộc đời tin rằng anh mang một thứ bệnh bẩm sinh, và bỗng nhiên một chuyên gia vĩ đại nhất trên Trái đất tuyên bố là anh khỏe mạnh. Anh muốn cười to, một cách thoải mái, vớ vẩn, chẳng cần tự trọng gì hết. Anh muốn nói chuyện.
“Howard là một người bạn của cháu,” anh phấn khởi nói.
“Một người bạn của anh? Anh biết anh ta à?”
“Cháu biết cậu ấy à! Trời đất, bọn cháu cùng học một trường với nhau – trường Stanton, chú biết đấy – trời ơi, cậu ấy sống ở nhà cháu ba năm, cháu có thể nói với chú quần lót của cậu ta màu gì và cậu ta tắm như thế nào – cháu biết cậu ấy quá rõ!”
“Anh ta sống ở cùng nhà anh ở Stanton?” Toohey hỏi lại. Ông nói với một sự chính xác thận trọng. Những âm thanh trong giọng ông nhỏ và khô và có tính chung kết, như những tiếng rắc rắc của những que diêm bị bẻ gãy.
Kỳ cục thật, Keating nghĩ. Toohey đang hỏi anh rất nhiều câu hỏi về Howard Roark. Nhưng những câu hỏi đó dường như chẳng có nghĩa gì hết. Chúng không phải về các tòa nhà, chúng chẳng hỏi về kiến trúc một chút nào. Chúng toàn là những câu hỏi cá nhân vô nghĩa – thật là lạ khi dùng để hỏi về một người mà ông ta chưa bao giờ nghe nói đến.
“Anh ta có hay cười không?”
“Rất hiếm khi.”
“Anh ta trông có vẻ rầu rĩ không?”
“Không bao giờ.”
“Anh ta có nhiều bạn ở Stanton không?”
“Cậu ấy chưa bao giờ có bất kỳ bạn bè nào ở bất kỳ đâu.”
“Các bạn học không thích anh ta à?”
“Không ai có thể thích cậu ta được.”
“Tại sao?”
“Cậu ta làm cho người ta cảm thấy thật là phi lý nếu thích cậu ta.”
“Anh ta có đi ra ngoài, có uống rượu, có vui vẻ xả hơi không?”
“Không bao giờ.”
“Anh ta có thích tiền không?”
“Không.”
“Anh ta có thích được ngưỡng mộ không?”
“Không.”
“Anh ta có tin vào Chúa Trời không?”
“Không.”
“Anh ta có hay nói không?”
“Rất ít.”
“Anh ta có lắng nghe nếu người khác thảo luận bất kỳ một... ý kiến nào với anh ta không?”
“Cậu ấy lắng nghe. Nhưng nếu cậu ta không lắng nghe thì sẽ tốt hơn.”
“Tại sao?”
“Như thế sẽ đỡ xúc phạm người ta hơn – nếu chú biết ý cháu muốn nói gì, khi một người lắng nghe kiểu thế và ta biết rằng nó chẳng có một tý tác động nào hết đối với anh ta.”
“Anh ta có luôn mong muốn trở thành một kiến trúc sư không?”
“Cậu ta...”
“Sao vậy Peter?”
“Không sao cả. Tự nhiên cháu nghĩ thật lạ là cháu chưa bao giờ tự hỏi điều này về cậu ta. Điều lạ lùng là thế này: người ta không thể hỏi như thế về cậu ấy. Cậu ta hoàn toàn phát điên lên về kiến trúc. Nó có ý nghĩa nhiều với cậu ta đến mức cậu ta đánh mất hết những cảm nhận khác của con người. Cậu ta đơn giản là chẳng có một tý khiếu hài hước nào với chính mình – đây chính là người hoàn toàn không có hiếu hài hước đấy chú Ellsworth ạ. Người ta không thể hỏi, cậu ta sẽ làm gì nếu cậu ta không muốn làm kiến trúc sư.”
“Không,” Toohey nói. “Người ta phải hỏi anh ta sẽ làm gì nếu anh ta không thể làm một kiến trúc sư.”
“Cậu ta sẽ bước qua xác người. Bất kỳ xác nào và tất cả các xác người. Tất cả chúng ta. Để trở thành một kiến trúc sư.”
Toohey gấp khăn ăn, một tấm khăn hình vuông thẳng nếp, trên đầu gối mình; ông gấp nó một cách chính xác, mỗi đường chéo một lần, và lùa ngón tay và các mép gấp để nếp gấp được vuốt phẳng.
“Anh còn nhớ nhóm nhỏ các kiến trúc sư trẻ của chúng ta không Peter?” ông hỏi. “Tôi đang sắp xếp để sớm có buổi gặp mặt lần đầu tiên. Tôi đã nói chuyện với nhiều thành viên tương lai của chúng ta và anh sẽ rất tự hào được nghe những gì họ nói về anh với tư cách là chủ tịch tương lai của chúng ta.”
Họ nói chuyện một cách vui vẻ trong khoảng nửa giờ nữa. Khi Keating đứng dậy từ biệt, Toohey tuyên bố: “Ồ, đúng rồi. Tôi đã nói với Lois Cook về anh. Cô ấy sẽ liên lạc với anh sớm thôi.”
“Cảm ơn chú rất nhiều, chú Ellsworth. Nhân tiện, cháu đang đọc cuốn Đám mây và vải liệm đấy.”
“Và?”
“Ôi, nó thật tuyệt diệu. Chú biết đấy, chú Ellsworth, nó... nó làm ta nghĩ thật khác đi về mọi thứ trước đây ta đã nghĩ.”
“Chính thế,” Toohey nói, “chính thế phải không?”
Ông đứng cạnh cửa sổ, ngắm nhìn những tia nắng cuối cùng trong một buổi chiều nắng lạnh. Rồi ông ta quay người và nói: “Một ngày thật đẹp. Có lẽ sẽ là một trong những ngày cuối cùng thế này trong năm nay. Anh có muốn đi dạo bên ngoài với Catherine một chút không, Peter?”
“Ôi cháu rất muốn!” Catherine háo hức nói.
“Thế thì đi đi.” Toohey mỉm cười vui vẻ. “Sao thế Catherine? Con phải đợi ta cho phép mới đi à?”
Khi họ sánh bước với nhau ngoài trời, khi họ bên nhau một mình trong ánh sáng lành lạnh của những đường phố tràn ngập ánh nắng chiều muộn, Keating cảm thấy anh đã lấy lại được mọi thứ trong Catherine mà anh đã luôn thấy, lấy lại được cái tình cảm kỳ lạ mà anh không thể có được khi ở bên những người khác. Anh nắm tay cô. Cô rút tay, tháo găng ra và lùa các ngón tay cô vào các ngón tay anh. Và rồi anh đột nhiên nghĩ rằng các bàn tay sẽ đổ mồ hôi khi bị nắm quá lâu, và anh bực bội đi nhanh hơn. Anh nghĩ rằng họ đang đi giống như chuột Mickey và Minnie và rằng họ có lẽ trông thật lố bịch đối với người qua đường. Để thoát khỏi những ý nghĩ này, anh liếc xuống mặt cô. Cô đang nhìn thẳng về phía ánh nắng vàng rực, anh thấy nét mặt trông nghiêng mảnh mai của cô và bóng dáng thấp thoáng của một nụ cười nơi khóe miệng cô, một nụ cười hạnh phúc lặng lẽ. Nhưng anh nhận thấy vành mi mắt cô tái xanh và anh bắt đầu tự hỏi liệu cô có mắc chứng thiếu máu hay không.
*
* *
Lois Cook ngồi trên sàn nhà giữa phòng khách, chân bắt chéo nhau theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, để lộ hai đầu gối lớn để trần, bít tất màu xám cuộn qua nịt tất, và mặc một chiếc quần đùi màu hồng đã ngả bạc. Peter Keating ngồi sát mép chiếc ghế dài màu tím bóng lộn. Chưa bao giờ anh cảm thấy không thoải mái như thế này trong cuộc gặp đầu tiên với một khách hàng.
Lois Cook ba mươi bảy tuổi. Trong các cuộc nói chuyện trước công chúng và riêng tư, cô đã khăng khăng nói rằng cô sáu mươi tư tuổi. Nó được lặp đi lặp lại như một trò đùa kỳ quái và tạo cho tên tuổi của cô một ấn tượng mơ hồ về sự trẻ trung vĩnh cửu. Cô cao, khô, vai hẹp, và hông rộng. Cô có một khuôn mặt dài, nông, và đôi mắt gần nhau. Tóc cô dài đến tai và cuộn thành những lọn bóng nhờn. Móng tay cô bị gãy. Cô trông bù xù một cách quá lố, với vẻ luộm thuộm có chủ ý, được tạo ra một cách cẩn thận như khi người ta làm đẹp – và cũng với mục đích như vậy.
Cô nói liên hồi, người đung đưa qua lại trên đôi hông:
“... đúng, bên sông Bowery. Một ngôi nhà riêng. Ngôi đền thánh bên sông Bowery. Tôi có địa điểm, tôi muốn nó và mua nó, đơn giản như thế, hoặc chính xác là ông luật sư ngu ngốc của tôi đã mua nó cho tôi, anh phải gặp luật sư của tôi, ông ta bị chứng thối miệng. Tôi không biết anh sẽ đòi tôi bao nhiêu tiền, nhưng điều đó cũng không quan trọng, tiền là chuyện tầm thường. Cải bắp cũng tầm thường. Nhà tôi phải có ba tầng và một phòng khách có sàn lát gạch hoa.”
“Thưa chị Cook, tôi đã đọc cuốn Đám mây và vải liệm của chị và đó là một sự mở mắt về tinh thần cho tôi. Xin cho phép tôi được đứng vào hàng ngũ những người hiểu được lòng dũng cảm và ý nghĩa lớn lao của những gì chị đã một tay đạt được khi mà...”
“Ôi, đừng nói vớ vẩn nữa” Lois Cook nói và nháy mắt với anh.
“Nhưng tôi thực sự nghĩ vậy mà!” anh tức giận kêu lên. “Tôi rất thích cuốn sách của chị. Tôi...”
Trông Cook chán nản.
“Thật tầm thường,” cô ta dài giọng, “khi mà ai cũng hiểu được.”
“Nhưng ông Toohey nói rằng...”
“À, đúng rồi. Ông Toohey.” Mắt cô giờ đây mang vẻ cảnh giác, tội lỗi một cách xấc láo, giống như ánh mắt của một đứa trẻ vừa thực hiện một trò nghịch tinh quái. “Ông Toohey. Tôi là chủ tịch của một nhóm nhỏ các nhà văn trẻ mà ông Toohey rất quan tâm.”
“Vậy sao?” anh phấn khởi nói. Có vẻ như đây là sự trao đổi trực tiếp đầu tiên giữa họ. “Thú vị thật! Ông Toohey cũng đang tập hợp một nhóm nhỏ các kiến trúc sư trẻ và ông ấy rất tốt bụng khi định cho tôi làm chủ tịch.”
“Ồ,” cô nói và nháy mắt. “Cùng hội với chúng tôi?”
“Hội với ai?”
Anh không biết anh đã làm gì, nhưng anh biết rằng mình đã làm cô thất vọng. Cô bắt đầu cười. Cô ngồi đó, ngước đầu nhìn anh, cố tình cười vào mặt anh, cười một cách chẳng tử tế gì và chẳng vui vẻ gì.
“Có cái quái gì...!” Anh kìm mình lại. “Có vấn đề gì vậy hả chị Cook?”
“Ối giời ơi!” cô nói. “Anh thật là một cậu bé dễ thương, dễ thương và xinh đẹp nữa!”
“Ông Toohey là một người vĩ đại,” anh giận dữ nói. “Ông ấy là nhân cách... cao quý nhất tôi từng...”
“Ồ đúng vậy. Ông Toohey là một người tuyệt vời.” Giọng cô nghe lạ vì thiếu một thứ, nó thiếu tôn trọng một cách trắng trợn. “Bạn tốt nhất của tôi. Con người tuyệt vời nhất trên quả đất. Có quả đất thì phải có Toohey – một quy luật của tự nhiên. Ngoài ra, thử nghĩ xem chúng ta có thể gieo vần hay đến thế nào: Tuhi – ủy mị – lầm lì – phi lý[71]. Tuy nhiên, đó là một ông thánh. Chuyện đó rất hiếm có. Hiếm như thiên tài vậy. Tôi là một thiên tài. Tôi muốn một phòng khách không có cửa sổ. Không một cửa sổ nào hết, hãy nhớ điều này khi anh vẽ thiết kế. Không cửa sổ, sàn lát gạch hoa và trần màu đen. Và không điện đóm gì hết. Tôi không muốn điện trong nhà mình, chỉ có đèn dầu thôi. Đèn dầu với ống khói, và nến. Quỷ tha ma bắt Thomas Edison đi! Mà ông ta là ai ấy nhỉ?”
Lời nói của cô không làm anh khó chịu bằng nụ cười của cô. Đó không phải là một nụ cười, đó là một cái nhếch mép thường trực – hai góc cái miệng dài nhướn lên, làm cho cô trông giống một con yêu tinh xảo quyệt và độc ác.
“Và, Keating, tôi muốn ngôi nhà phải thật xấu. Cực kỳ xấu. Tôi muốn nó là ngôi nhà xấu nhất ở New York.”
“Ngôi nhà... xấu nhất, thưa chị Cook?”
“Cưng ơi, cái đẹp thì quá tầm thường!”
“Đúng vậy, nhưng... nhưng... tôi... làm sao tôi có thể cho phép mình...”
“Keating, lòng dũng cảm của anh ở đâu rồi? Anh không thể thỉnh thoảng thực hiện một cử chỉ cao thượng được ư? Bọn họ đều làm việc chăm chỉ và vật lộn và chịu đựng, cố đạt đến cái đẹp, cố vượt mặt người khác trong cái đẹp. Chúng ta sẽ vượt mặt tất cả bọn họ! Hãy ném mồ hôi của chính họ vào mặt họ. Hãy tiêu diệt họ chỉ bằng một cái phất. Hãy là thánh thần! Hãy xấu!”
Anh nhận hợp đồng thiết kế. Sau vài tuần, anh không còn cảm thấy khó chịu về chuyện này nữa. Bất kỳ khi nào anh đề cập đến công trình mới này, anh đều gặp phải một sự tò mò đầy kính trọng. Đó là một sự tò mò khó hiểu, nhưng đầy vẻ kính trọng. Cái tên Lois Cook nổi tiếng tại những phòng thiết kế sáng giá nhất mà anh đến thăm. Nhan đề những cuốn sách của cô lấp lánh trong những cuộc chuyện trò như thể những viên kim cương gắn trên vương miện tri thức của người nói. Trong những giọng nói tuyên bố những nhan đề đó luôn có một vẻ thách thức nghe như thể người nói đang rất dũng cảm. Đó là một sự dũng cảm khiến người ta thỏa mãn; nó không bao giờ khuấy lên sự phản kháng. Đối với một tác giả mà tác phẩm không bán được thì tên của người đó có vẻ sẽ nổi tiếng và được vinh danh một cách kỳ lạ. Cô là người lãnh đạo của đội quân tiên phong trong lĩnh vực tri thức và nổi loạn. Chỉ có điều anh cũng không rõ lắm về việc nổi loạn chống cái gì. Về cơ bản, anh cũng không muốn biết.
Anh thiết kế ngôi nhà như cô muốn. Đó là một dinh thự ba tầng, một phần lát đá cẩm thạch, một phần trát vữa, trang trí bằng những miệng máng xối kiểu Gothic và đèn lồng xe ngựa. Trông nó giống như một cấu trúc của một công viên giải trí.
Bản vẽ thiết kế ngôi nhà này lên báo nhiều hơn bất kỳ một bản vẽ nào khác của anh, trừ Tòa nhà Cosmo-Slotnick. Một nhà bình luận tuyên bố rằng “Peter Keating hứa hẹn không chỉ là một thanh niên trẻ thông minh với khả năng làm hài lòng những đại gia hủ lậu. Anh đang dấn thân cả vào lĩnh vực tri thức với một khách hàng như Lois Cook.” Toohey thì nói đến ngôi nhà như “một trò đùa vĩ đại.”
Nhưng một cảm giác kỳ lạ vẫn vương vấn trong đầu Keating: đó là cảm giác về một thứ dư vị. Anh thường thoáng có cảm giác này khi làm việc với một công trình quan trọng mà anh thích; anh thường có cảm giác này vào những lúc anh tự hào về công việc của mình. Anh không thể nhận ra được tính chất của cảm giác đó; nhưng anh biết rằng một phần trong nó là sự hổ thẹn.
Một lần, anh thổ lộ điều đó với Ellsworth Toohey. Toohey cười. “Thế là tốt cho anh, Peter ạ. Không ai được tự cho phép phóng đại tầm quan trọng của bản thân mình. Không cần thiết phải làm khổ mình về các giá trị tuyệt đối.”