Guy Francon cố phản đối khi ông biết chuyện.
“Nghe này, Dominique” – ông giận dữ nói – “phải có giới hạn chứ. Thực sự là phải có giới hạn – ngay cả với con. TẠi sao con lại làm vậy? Tại sao – mà lại là ột công trình của Roark nữa chứ? Sau tất cả những điều con nói và làm để chống lại anh ta – con có biết mọi người đang nói gì không? Nếu là người khác thì cũng chả ai quan tâm hay để ý làm gì. Đằng này lại là con –và Roark! Cha sẽ chẳng thể đi đâu mà không bị người ta hỏi han về chuyện này. Cha phải làm gì đây?”
“Cha nên đặt làm một bản sao bức tượng. Nó sẽ rất đẹp đấy.”
Peter Keating từ chối bình luận về chuyện này. Nhưng anh gặp Dominique ở một bữa tiệc và hỏi, mặc dù anh đã dự định là sẽ không hỏi về chuyện này:
“Có đúng là em đang làm mẫu tượng cho ngôi đền của Roark không?”
“Đúng.”
“Dominique, anh không thích chuyện đó.”
“Không ư?”
“Ồ, anh xin lỗi. Anh biết anh không có quyền… Có điều… Có điều trong tất cả mọi người, anh không muốn thấy em trở nên thân thiện với Roark. Không phải là Roark. Bất kỳ ai cũng được, trừ Roark.”
Cô chăm chú nhìn anh và hỏi:
“Tại sao?”
“Anh không biết.”
Ánh mắt dò hỏi của cô làm anh thấy lo lắng. Anh lắp bắp:
“Có thể, có thể vì việc em khinh bỉ các công trình của anh ta – nó chẳng hợp lý tí nào. Anh đã rất mừng vì em làm thế … nhưng nó có vẻ chẳng hợp lý – đối với con người em.”
“Không hợp lý ư, Peter?”
“Không. Nhưng em không thích con người anh ta, đúng không?”
“Không. Em không thích con người anh ta.”
Ellsworth Toohey không hài lòng với chuyện này.
“Đó là hành động kém khôn ngoan nhất của cô đấy, Dominique” ông nói riêng trong phòng làm việc của cô. Giọng ông có vẻ không tự nhiên.
“Tôi biết điều đó.”
“Cô không thể thay đổi quyết định và từ chối sao?”
“Ellsworth, tôi sẽ không thay đổi quyết định.”
Ông ngồi xuống và nhún vai; một lúc sau, ông mỉm cười: “Thôi được, cô bé thân mến của tôi, cứ làm theo ý mình đi.”
Cô vạch một đường chỉ qua một tập bản thảo và không nói gì.
Toohey chăm một điều thuốc. “Vậy là anh ta đã chọn Steven Mallory làm việc này.” – ông nói.
“Cô gái ơi, đó chẳng phải là sự trùng hợp. Những chuyện như thế này chẳng bao giờ là sự trùng hợp tình cờ cả. Có một quy luật cơ bản đằng sau nó. Mặc dù tôi chắc là anh ta không biết quy luật đó và chẳng ai giúp anh ta chọn người cả.”
“Tôi tin là ông đang đồng đình với việc này?”
“Hoàn toàn đồng tình. Nó làm ọi chuyện trở nên hoàn hảo. Hoàn hảo hơn bao giờ hết.”
“Ellsworth, tại sao Mallory định giết ông?”
“Tôi hoàn toàn chịu chết. Tôi không biết. Tôi nghĩ là ngài Roark biết đấy. Hoặc anh ta nên biết. Tiện thể, ai đã chọn cô làm người mẫu cho bức tượng đó? Roark hay Mallory?”
“Đó không phải là việc của ông, Ellsworth.”
“Ra thế. Là Roark.”
“Nhân tiện, tôi đã nói với Roark rằng chính ông đã xui Hopton Stoddard thuê anh ta.”
Ông giữ điếu thuốc lơ lửng trong không trung; rồi ông lại cử động và đặt nó lên môi.
“Cô đã nói ư? Tại sao?”
“Tôi đã nhìn thấy các bản thiết kế ngôi đền.”
“Nó đẹp đến thế cơ à?”
“Còn hơn thế, Ellsworth.”
“Anh ta nói gì khi cô kể cho anh ta?”
“Chẳng gì cả. Anh ta phá ra cười.”
“Thật vậy sao? Anh ta thật tử tế. Tôi dám cá rằng chẳng lâu nữa, khối người cũng sẽ phá ra cười như anh ta.”
Trong suốt những tháng mùa đông năm đó, hiếm khi Roark ngủ quá ba tiếng mỗi đêm. Anh di chuyên với một vẻ mạnh mẽ dẻo dai, như thể cơ thể anh toả năng lượng nuôi sống những thứ quanh anh. Năng lượng ấy chạy qua những bức tường văn phòng làm việc của anh để tới ba điểm trong thành phố: toà nhà Cord, một toà tháp bằng đồng thau và kính ở trung tâm Manhattan; khách sạn Aquitania ở phía nam công viên trung tâm; và Đền Stoddard trên một triền đá bên cạnh sông Hudson, về phía Bắc đường Riverside.
Khi họ có thời gian gặp nhau, Austen Heller quan sát anh với vẻ thích thú và hài lòng. Ông nói:
“Howard, khi ba công trình này hoàn thành, không ai có thể cản trở cậu nữa. Không bao giờ nữa. Thỉnh thoảng tôi thử đoán xem cậu sẽ tiến xa đến đâu. Cậu biết đấy, tôi luôn tò mò về số phận con người mà.
Vào một tối tháng Ba, Roark đứng trong khu đất sẽ xây dựng ngôi đền – cả khu đất được bao bọc bởi một hàng rào cao, theo lệnh của Stoddard. Những khối đá móng đầu tiên đã mọc lên khỏi mặt đất. Lúc đó đã muộn và công nhân đã về nhà. Công trường vắng lặng, tách biệt với thế giới và tan dần vào bóng tối mặc dù bầu trời bên trên vẫn còn ủng đỏ rực rỡ, như thể ánh nắng ở lại lâu hơn thường ngày để thông báo mùa xuân sắp đến. Tiếng còi tàu vang lên ở đâu đó trên sông; âm thanh của nó như vọng đến từ một miền quê xa xôi, xuyên qua những dặm dài tĩnh lặng. Một ngọn đèn vẫn sáng trong một căn lều gỗ được dựng làm xưởng điêu khắc cho Steven Mallory. Dominique đứng mẫu ở đó.
Ngôi đền sẽ là một công trình nhỏ bằng đá vôi xám. Những đường nét của nó không vươn lên thiên đường mà trải rộng theo chiều ngang trên mặt đất. Nó như những cánh tay dang thẳng ra từ bờ vai, lòng bàn tay mở rộng, hướng xuống mặt đất, yên lặng chấp nhận mặt đất. Nó không bám víu vào mặt đất và cũng không còng xuống dưới bầu trời. Nó như nâng mặt đất lên trong khi một vài trụ đứng của nó kéo bầu trời xuống. Ngôi đền được kiến thiết theo tỷ lệ chiều cao của con người; nó không làm cho con người nhỏ bé đi; nó đứng như một tấm phông làm nổi bật cơ thể con người, khiến cho con người trở thành cái tuyệt đối, thành thước đo chuẩn cho tất cả mọi thứ.
Khi một người bước vào ngôi đền, anh ta sẽ cảm thấy không gian được đúc xung quanh anh ta, cho riêng anh ta, như thể nó đã chờ đợi anh ta bước vào để trở thành hoàn thiện. Ngôi đền là một nơi vui vẻ –một niềm vui của sự thăng hoa âm thầm. Nó là nơi mà người ta đến để cảm thấy mình trong sạch và mạnh mẽ, để tìm thấy sự nhẹ nhõm tinh thần – sự nhẹ nhõm vốn không bao giờ dành được trừ khi nhờ chính mình.
Bên trong ngôi đền không có bất kỳ vật trang trí nào, ngoại trừ những bức tường được phô bày một cách khéo léo và những cửa sổ lớn. Nơi này không bị che phủ bởi những mái vòm mà được mở toang với thế giới xung quanh, với cây cối, với con sông, với mặt trời – và với đường chân trời của thành phố ở xa xa, với những toà nhà chọc trời, với hình dáng của những gì con người đã xây nên trên mặt đất.
Ở cuối căn phòng, đối diện với lối vào, là một bức tượng người khoả thân, đứng nổi bật trên nền thành phố phía xa.
Lúc này, trước mặt anh chẳng có gì trong bóng tối ngoại trừ những tảng đá đầu tiên của công trình, nhưng Roark nghĩ đến toà nhà đã hoàn thành. Anh cảm thấy nó trong những khớp tay và vẫn nhớ từng đường chỉ đã vẽ nên nó. Anh đứng và suy nghĩ về nó. Sau đó anh đi ngang qua khu đất lổn nhổn đến xưởng điêu khắc.
“Chờ chút,” tiếng Mallory vang lên khi anh gõ cửa.
Bên trong lều, Dominique bước xuống khỏi bậc làm mẫu và khoác áo choàng lên.
Sau đó Mallory mở cửa.
“Ồ, anh đấy à?” Mallory nói. “Chúng tôi tưởng là người bảo vệ. Anh làm gì ở đây muộn thế này?”
“Chào cô Francon.” Roark nói và Dominique gật đầu với vẻ sỗ sàng. “Xin lỗi vì làm gián đoạn công việc của cậu, Steve.”
“Không sao. Chúng tôi cũng chẳng làm được việc mấy. Tối nay Dominique không thể thực hiện được cái tôi muốn. Ngồi xuống đi, Howard. Chết tiệt thật, không biết mấy giờ rồi nhỉ?”
“Chín rưỡi. Nếu cậu còn ở đây, có muốn tôi gọi người mang bữa tối cho cậu không?”
“Tôi không biết. Chúng ta hút thuốc đã.”
Căn lều có sàn bằng gỗ, không sơn, xà nhà bằng gỗ trơn, một bếp lò bằng gang đang cháy ở trong góc. Mallory đi đi lại lại như một lãnh chúa phong kiến; đất sét bám thành vệt trên trán anh. Anh liên tục rít thuốc một cách sốt ruột và đi đi lại lại trong phòng.
“Cô muốn mặc đồ chưa, Dominique?” Anh ta hỏi. “Tôi nghĩ tối nay chắc chỉ như vậy thôi.” Cô không trả lời. Cô đứng nhìn Roark. Mallory bước tới cuối phòng, quay người và mỉm cười với Roark: “Sao anh chưa bao giờ đến đây hả Howard? Tất nhiên là nếu anh đến mà tôi bận thì tôi cũng tống anh ra khỏi cửa thôi. Nhưng sao hôm nay anh lại đến giờ này?”
“Tối nay tôi muốn nhìn chỗ này. Nhưng tôi không thể đến sớm hơn được.”
“Steve, anh muốn thế này phải không?” Dominique đột ngột cất tiếng. Cô cởi áo choàng ra và khoả thân đi đến bục làm mẫu. Mallory nhìn cô, rồi nhìn Roark, rồi lại nhìn cô.
Sau đó anh ta thấy cái mà anh ta đã cố tìm kiếm cả ngày hôm nay. Anh ta thấy cơ thể cô đứng trước mặt anh, thẳng đứng và căng lên, đầu cô ngả ra sau, hai cánh tay buông dọc theo người, lòng bàn tay mở ra phía ngoài. Cô đứng như cô vẫn đứng nhiều ngày qua, nhưng lúc này, cơ thể cô sống động và im lìm đến mức dường như nó đang run lên, đang tuyên bố điều mà anh đã muốn nghe: đấy là sự đầu hàng kiêu hãnh, cao cả, say sưa đối với một viễn cảnh mà riêng cô thấy. Đấy là khoảnh khắc duy nhất, cái khoảnh khắc trước khi một hình dáng sẽ biến đổi và tan vỡ, cái khoảnh khắc được thắp lên bởi những gì cô nhìn thấy.
Điếu thuốc của Mallory bay ngang trong phòng.
“Dominique, giữ nguyên tư thế đó!” anh kêu lên. “Giữ nguyên! Giữ nguyên!”
Anh đến bục làm việc của mình trước khi điếu thuốc chạm mặt đất. Anh làm việc trong lúc Dominique đứng bất động, còn Roark đứng đối diện cô, dựa lưng vào tường.
*
* *
Vào tháng Tư, những bức tượng của ngôi đền nổi lên thành những đường đứt gãy trên mặt đất. Vào những đêm sáng trăng, ánh trăng phủ một lớp ánh sáng lóng lánh, mềm mại, và loang lổ trên ngôi đền. Hàng rào cao đứng bao quanh bảo vệ ngôi đền.
Sau giờ làm việc, Roark, Mallory, Dominique và Mike Donnigan thường ở lại công trường. Mike chưa bao giờ bỏ qua bất cứ công trình nào của Roark.
Bốn người ngồi trong căn lều của Mallory sau khi tất cả những người khác đã ra về. Một tấm vải ướt che lên bức tượng dang dở. Cánh cửa căn lều mở ra để đón hơi ấm đầu tiên của đêm xuân. Một cành cây lửng lơ bên ngoài, ba chiếc lá mới nhú nổi lên tren nền trời đen, những ngôi sao lung linh như những giọt nước trên mép lá. Căn lều không có chiếc ghế nào. Mallory đứng bên bếp gang, chuẩn bị bánh mì kẹp và cà phê. Mike ngồi trên bục của người mẫu, miệng ngậm một tẩu thuốc. Roark nằm dài trên sàn, chống người lên bằng hai khuỷu tay, Dominique ngồi trên cái ghế đẩu nhà bếp. Một tấm áo chàng lụa mỏng bọc quanh người cô. Đôi bàn chân trần của cô đặt lên trên những tấm ván sàn.
Họ không nói về công việc. Mallory kể những câu chuyện nhố nhăng và Dominique cười như nắc nẻ. Họ không nói chuyện gì cụ thể; những câu nói có nghĩa chỉ bởi vì giọng họ đang phát ra chúng vì sự vui vẻ thân mật, vì sự thư giãn hoàn toàn của tất cả. Họ đơn thuần chỉ là bốn người thích ở đó cùng nhau. Những bức tượng đang mọc lên trong bóng tối bên ngoài cánh cửa mở phê chuẩn sự nghỉ ngơi của họ, cho họ cái quyền được thư giãn. Đấy là công trình mà tất cả họ đã làm việc cùng nhau, công trình giống như một hoà âm trầm, hoà vào giọng nói của họ. Dominique chưa từng nhìn thấy Roark cười như vậy ở bất kỳ nơi nào khác; hai môi anh thả lỏng và trẻ trung.
Họ ở đó cho đến đêm khuya. Mallory rót cà phê vào một hàng những chiếc cốc nham nhở. Mùi cà phê quyện với mùi lá non bên ngoài.
*
* *
Vào tháng Năm, việc xây dựng ở công trường Khách sạn Aquitania bị ngừng lại.
Hai chủ đầu tư công trình bị sạt nghiệp vì thị trường chứng khoán; phần vốn đầu tư của người thứ ba bị giữ vì dính vào một vụ kiện thừa kế; còn người thứ tư thì biển thủ cổ phần của người khác. Công ty bị cuốn vào mớ bòng bong các vụ kiện cáo đòi hỏi nhiều năm mới có thể giải quyết xong. Vì thế, toà nhà đang xây dở phải chờ đợi.
“Tôi sẽ giải quyết mọi việc, kể cả nếu như tôi phải giết một vài người” Kent Lansing nói với Roark. “Tôi sẽ lấy nó khỏi tay chúng. Chúng ta sẽ hoàn thành nó một ngày nào đó, anh và tôi. Nhưng phải có thời gian. Có thể là rất lâu đấy. Tôi sẽ không khuyên anh phải kiên nhẫn. Những người như anh và tôi hẳn không thể tồn tại quá mười lăm năm nếu không có sự kiên nhẫn của một tên đao phủ. Và sự lì lợm của một chiến hạm.”
Ellsworth Toohey cười to khi ngồi bên cạnh bàn làm việc của Dominique. “Bản giao hưởng dang dở - ơn Chúa,” ông nói.
Dominique dùng lại từ này trong bài báo của mình. Cô viết “Bản giao hưởng dang dở ở phía nam Công viên trung tâm.” Cô không nói, “ơn Chúa.” Cái tên này được người ta truyền nhau. Những người lạ nhận thấy một công trình đắt tiền trên một đường phố quan trọng đang bị bỏ dở với những ô cửa trống hoắc, những bức tường mới trát vữa một nửa, những xà nhà trần trụi. Khi họ hỏi về công trình đó, những người chưa từng biết tiếng Roark hoặc câu chuyện đằng sau công trình, đều cười khuẩy và trả lời rằng: “À, đấy là Bản giao hưởng dang dở.”
Ban đêm Roark thường đứng bên kia phố, dưới những tán cây của công viên và nhìn cái hình khối đen sì, chết chóc giữa những công trình đang rực rỡ ánh đèn trên đường chân trời của thành phố. Bàn tay anh di chuyển như thể chúng đang chuyển động trên một mẩu đất sét; ở khoảng cách đó, lòng bàn tay anh có thể lấp đầy những đứt gãy của công trình dang dở; nhưng cái chuyển động lấp đầy mang tính bản năng đó chỉ chạm vào không khí.
Thỉnh thoảng, anh bắt mình đi xuyên qua toà nhà. Anh bước bên những tấm ván run rẩy được bắc lơ lửng qua khoảng không; anh đi xuyên qua các văn phòng không có trần và các phòng không có sàn; anh đi đến những gờ tường bỏ ngỏ, nơi những khung thép chìa ra ngoài như những khúc xương đâm xuyên qua chỗ da bị rách toạc.
Một người bảo vệ già sống trong một gian phòng nhỏ ở đằng sau tầng trệt. Ông ta biết Roark và để anh đi lang thang quanh toà nhà. Một lần ông ta ngăn Roark lại trên đường anh đi ra và đột ngột nói: “Tôi từng có một đứa con trai - gần như vậy. Nó chết trước khi chào đời.” Một điều gì đó đã làm ông ta buột miệng nói ra và ông ta nhìn Roark, phân vân không hiểu ông đã định nói gì. Nhưng Roark mỉm cười, anh nhắm mắt lại và bàn tay anh nắm lấy bờ vai của ông già, như một cái bắt tay rồi anh đi.
Những điều chỉ xảy ra trong vài tuần đầu tiên. Sau đó anh buộc mình phải quên Aquitania đi.
Vào một tối tháng Mười, Roark và Dominique đi bộ cùng nhau xuyên qua Ngôi đền đã hoàn thành. Nó sẽ được mở cửa công khai trong một tuần – ngay sau ngày Stoddard trở về. Chưa có ai nhìn thấy ngôi đền ngoại trừ những người đã làm việc ở công trường này.
Đó là một buổi tối quang đãng và tĩnh lặng. Công trường trống không và tĩnh lặng. Những tia sáng đỏ của hoàng hôn trên những bức tường đá vôi giống như tia nắng đầu tiên của buổi bình minh.
Họ đứng nhìn Ngôi đền từ bên ngoài. Sau đó họ đứng bên trong, trước bức tượng bằng đá cẩm thạch. Họ không nói gì với nhau. Dường như, những bóng tối đang lấp dần khoảng không quanh họ cũng được tạo ra từ cùng bàn tay đã dựng những bức tường quanh họ. Dòng ánh sáng nhạt nhoà cuối ngày di chuyển theo một trật tự nhất định, như những câu nói trong một bài diễn văn mà những bức tượng là người diễn thuyết.
“Roark…”
“Gì vậy em?”
“Không… không có gì…”
Họ cùng nhau đi bộ quay trở lại xe ô-tô, bàn tay anh nắm chặt cổ tay cô.