XV
Chín giờ sáng hôm đó, Peter Keating đi đi lại lại trong phòng, khoá trái cửa. Anh quên rằng bây giờ là chín giờ sáng và Catherine đang đợi anh. Anh buộc mình quên cô và tất cả những gì mà cô có thể gợi ra.
Căn phòng anh khoá trái để bảo vệ anh khỏi bà mẹ. Đêm qua, khi thấy sự bồn chồn nóng nảy của anh, bà đã bắt anh nói sự thât. Anh gắt lên rằng vừa mới cưới Dominique Francon và anh đã thêm vào một lời giải thích, rằng Dominique Francon không có mặt vì cô phải đi đâu đó để thông báo về lễ cưới ột người họ hàng cũ. Mẹ anh quá bận rộn với hàng loạt câu hỏi và choáng váng vì sung sướng đến mức anh không phải trả lời cụ thể cái gì và cũng không bị phát hiện rằng anh đang hoảng sợ. Anh không chắc chắn rằng mình có một người vợ và anh không chắc liệu cô có quay lại với anh vào sáng hôm sau.
Anh đã cấm mẹ công bố tin này với bất cứ ai, nhưng đêm qua bà đã gọi điện cho vài người và sáng nay thì gọi thêm vài người nữa. Và lúc này thì điện thoại liên túc đổ chuông. Những giọng nói háo hức hỏi: “Có thật không đấy?”, rồi cứ thế tuôn ra những lời lẽ ngạc nhiên và những câu chúc mừng. Keating có thể thấy tin tức lan ra khắp thành phố thành những vòng tròn nở rộng dần, theo tên tuổi và vị trí của những người gọi điện. Anh từ chối cầm máy. Anh có cảm giác mọi góc phố ở New York đều ngập lụt sự mừng vui với lễ cưới của anh; chỉ riêng anh trốn trong căn phòng khoá chặt là thấy lạ lùng, hoang mang và hoảng sợ.
Gần trưa cửa rung lên và anh lấy hai tay bịt tai để khỏi phải biết ai vừa đến và họ muốn gì. Rồi anh nghe thấy tiếng mẹ anh. Tiếng bà thất thanh vì sung sướng, đến mức nó trở nên ngớ ngẩn một cách đáng xấu hổ.
“Peter con yêu, con không muốn ra ngoài hôn vợ con sao?”
Anh bay ra hành lang. Dominique đứng đó. Cô đang bỏ chiếc áo khoác lông chồn ra. Từ mặt lông, một làn hơi lạnh của đường phố trộn lẫn với nước hoa thoang thoảng của cô phả vào mũi anh. Cô đang mỉm cười rất đúng mực và nhìn thẳng vào anh trong lúc nói: “Chúc buổi sáng tốt làh, Peter.”
Anh đứng rúm người lại trong một giây và trong giây phút đó anh nhớ đến những cú điện thoại. Anh cảm thấy niềm vui chiến thắng mà những cú điện thoại này đã trao cho anh. Anh cử động như một võ sĩ trong một đấu trường chận kín người. Anh mỉm cười như thể anh cảm thấy một vòng hào quang ánh sáng bao phủ lấy nụ cười của anh. Anh nói:
“Dominique em yêu, đây là một giấc mơ đã thành hiện thực.”
Sự ngầm hiểu bất đắc dĩ giữa họ đã bị phá vỡ và giờ đây, cuộc hôn nhân của họ trở thành cái mà cả hai đã dự định.
Cô có vẻ hài lòng với điều này. Cô nói: “Xin lỗi vì anh đã không được bế em qua ngưỡng cửa, Peter.” Anh không hôn cô nhưng anh cầm tay cô và hôn vào ngay phía trên cổ tay với một vẻ dịu dàng, thân mật.
Anh thấy mẹ anh đứng đó và anh nói với một chút hân hoan chiến thắng trong họng nói: “Mẹ - Dominique Keating.”
Anh thấy mẹ mình hôn cô. Dominique hôn trả lại bà một cách lạnh lẽo. Bà Keating lắp bắp: “Con yêu quý, mẹ thật hạnh phúc, thực sự hạnh phúc. Chúa phù hộ cho con; mẹ không biết là con đẹp thế này!”
Anh không biết phải làm gì tiếp nhưng Dominique đã chủ động giành lấy phần việc đó một cách giản dị. Cô không cho họ thời gian để suy nghĩ. Cô bước vào phòng khách và nói: “Hãy ăn trưa đã, rồi anh sẽ dẫn em đi xem nhà. Đồ đạc của em sẽ đến trong vòng một tiếng.”
Bà Keating rạng rỡ: “Bữa trưa cho ba người sẽ sẵn sàng, cô Fra…” Bà dừng lại. “Ôi con yêu quý, mẹ nên gọi con là gì? Cô Keating hay …”
“Dominique, dĩ nhiên” Dominique trả lời mà không mỉm cười.
“Chúng ta có định thông báo lễ cưới hay mời ai…” Keating lên tiếng, nhưng Dominique cắt lời anh:
“Để sau đã, Peter. Đám cưới sẽ tự nó thông báo.”
Sau đó, khi đồ đạc của cô được đưa đến, anh thấy cô bước vào phòng ngủ của anh mà không hề do dự. Cô hướng dẫn người hầu gái cách treo quần áo của cô. Cô yêu cầu anh giúp cô sắp xếp các tủ quần áo.
Bà Keating hoang mang. “Nhưng chả nhẽ các con không đi tuần trăng mật sao? Thế này thật là bất ngờ và lãng mạn, nhưng mà… chả nhẽ không hề có tuần trăng mật sao?”
“Không,” Dominique trả lời, “con không muốn Peter phải nghỉ việc.”
Anh nói: “Dominique, dĩ nhiên những thứ này chỉ là tạm thời. Rồi chúng ta sẽ chuyển đến một căn hộ khác, to hơn. Anh muốn để em chọn.”
“Không,” cô nói, “em nghĩ điều đó không cần thiết. Chúng ta sẽ ở đây.”
“Mẹ sẽ chuyển ra ngoài,” bà Keating đề nghị. Bà không hề nghĩ, bà chỉ bất thần buột miệng nói ra vì cảm giác sợ hãi trước Dominique. “Mẹ sẽ thuê một chỗ nhỏ.”
“Không,” Dominique trả lời. “Con muốn mẹ cứ ở đây. Con không muốn thay đổi bất cứ thứ gì. Con muốn hoà hợp với cuộc sống của Peter đúng như cuộc sống của anh ấy bây giờ.”
“Con thật tốt bụng!” Bà Keating mỉm cười trong lúc Keating cay đắng nghĩ rằng cô chẳng hề tốt bụng chút nào.
Bà Keating biết rằng khi bà bình phục khỏi cơn hào hứng ban đầu, bà sẽ căm ghét con dâu của bà. Bà có thể chấp nhận sự hỗn hào. Nhưng bà không thể tha thứ cho sự lịch thiệp lạnh lẽo của Dominique.
Điện thoại đổ chuông. Thiết kế trưởng của Keating gọi từ văn phòng đến để chúc mừng. Anh ta nói: “Chúng tôi mới biết tin, Peter, và Guy rất ngạc nhiên. Tôi nghĩ anh nên gọi cho ông ấy hoặc là đến đây hoặc làm gì đó.”
Keating vội vã đến văn phòng. Anh mừng rỡ được thoát khỏi nhà một lúc. Anh bước vào văn phòng với dáng vẻ hoàn hảo của một chàng trai trẻ rạng rỡ vì tình yêu. Anh cười vang và bắt tay mọi người trong phòng thiết kế giữa những lời chúc mừng ồn ào, những tiếng hú vui vẻ xem lẫn ghen tỵ và một vài lời bóng gió tục tĩu. Rồi anh vội vã đi tới phòng Guy Francon.
Trong một khoảnh khắc, anh cảm thấy tội lỗi khi anh bước vào và nhìn thấy nụ cười trên môi Francon - nụ cười như một sự ban phước. Anh thân mật ôm vai Francon và lẩm bẩm:
“Con rất hạnh phúc, Guy, con rất hạnh phúc.”
Francon lặng lẽ nói:
“Ta đã luôn mong đợi chuyện này, và giờ thì ta thấy yên tâm rằng chuyện này là đúng. Tất cả đúng là phải thuộc về anh, Peter, tất cả, căn phòng này, mọi thứ, sẽ sớm thôi.”
“Cha nói gì thế?”
“Nào, anh luôn hiểu. Ta mệt rồi, Peter. Anh biết đấy, sẽ đến một lúc mà anh trở nên mệt mỏi đến mức mọi thứ kết thúc ở đó và sau đó… Không, anh sẽ không hiểu đâu, anh còn trẻ quá. Nhưng quỷ tha ma bắt, Peter, ta còn có ích gì ở đây nữa. Buồn cười là ta thậm chí cũng chẳng buồn giả vờ rằng ta có ích… Thỉnh thoảng ta cũng muốn thành thật. Đấy là một cảm giác dễ chịu… Chà, được rồi, chắc sẽ mất một hai năm nữa, nhưng rồi ta sẽ nghỉ hưu. Khi đó tất cả sẽ là của anh. Có thể ta sẽ qua lại thêm một thời gian – anh biết đấy, ta thực lòng yêu quý chỗ này – nó luôn bận rộn, nó đang phát đạt, mọi người tôn trọng chúng ta – nó là một hãng tốt, Francon & Heyer, đúng không nhỉ? – Nhưng mà ta đang nói cái quái gì thế này? Francon và Keating. Rồi sẽ chỉ còn là Keating… Peter ạ.”
Ông hỏi khẽ.
“Tại sao trông anh không vui?”
“Dĩ nhiên là con vui. Con rất biết ơn… nhưng tại sao cha lại nghĩ đến chuyện nghỉ hưu vào lúc này chứ?”
“Cha không có ý thế. Tức là - tại sao trông anh không vui khi ta nói rằng mọi thứ sẽ thuộc về anh? Ta… cha muốn con vui mừng về chuyện đó, Peter.”
“Vì Chúa, Guy… cha đang ốm rồi, cha…”
“Peter, chuyện này rất quan trọng với cha – chuyện anh vui mừng khi cha để lại các thứ cho anh. Chuyện anh sẽ tự hào về nó. Anh có tự hào, đúng không Peter? Đúng không?”
“Dào, ai mà lại không?” Anh không nhìn Francon. Anh không thể chịu được âm điệu van vỉ trong giọng nói của Francon.
“Phải ai lại không? Dĩ nhiên rồi… Còn anh thì sao, Peter?”
“Cha muốn gì?” Keating gắt lên giận dữ.
“Ta muốn anh cảm thấy tự hào về ta, Peter” – Francon nói với vẻ nhún nhường, đơn giản và tuyệt vọng – “Ta muốn biết rằng ta đã làm được một cái gì đó. Ta muốn cảm thấy rằng nó có ý nghĩa. Vào lúc cuối cùng, ta muốn biết chắc rằng tất cả không phải vô nghĩa.”
“Cha không chắc về điều đó sao? Cha không chắc sao?” – Ánh mắt Keating ánh lên nét độc ác, như thể Francon đang bất chợt trở thành một hiểm hoạ của anh.
“Có chuyện gì thế, Peter?” Francon hỏi nhẹ nhàng, gần như thờ ơ.
“Quỷ tha ma bắt ông đi, ông không có quyền – không có quyền không biết chắc! Ở tuổi ông, với tên tuổi của ông, với danh tiếng của ông, với…”
“Ta muốn cảm thấy chắc chắn, Peter. Ta đã làm việc rất vất vả.”
“Nhưng ông vẫn không chắc chắn!” Anh giận dữ và hoảng sợ và vì thế anh muốn làm tổn thương một ai đó. Anh buột miệng nói ra cái điều có thể gây tổn thương nhiều nhất mà quên mất rừng nó làm anh tổn thương chứ không phải Francon và rằng Francon sẽ không hiểu, chưa bao giờ hiểu và thậm chí không thể đoán ra:
“Chà, tôi biết một người sẽ biết chắc chắn vào lúc cuối đời anh ta, anh ta biết chắc chắn đến mức tôi muốn cắt cổ anh ta vì chuyện đó.”
“Ai?” Francon hỏi khẽ một cách thờ ơ.
“Guy! Guy, chúng ta làm sao thế này? Chúng ta đang nói chuyện gì thế này?”
“Ta không biết.” Francon trả lời. Trông ông mệt mỏi.
Tối hôm đó, Francon đến nhà Keating ăn tối. Ông ăn mặc thoải mái và con người ông lại toả ra vẻ hào hoa quen thuộc khi ông hôn tay bà Keating. Nhưng trông ông lạnh lẽo khi ông chúc mừng Dominique và ông chẳng nói gì mấy với cô. Ánh mắt ông có một vẻ ăn năn khi ông nhìn vào mặt cô. Thay vì vẻ giễu cợt sắc sảo và linh lợi mà ông chờ đợi, ông thấy một sự thấu hiểu bất thần. Cô không nói gì nhưng cô cúi xuống hôn vào trán ông và cảm thấy tràn ngập một cảm giác biết ơn ấm áp - và rồi ông hoảng sợ. “Dominique” – ông thì thầm mà không để những người khác nghe thấy – “con mới bất hạnh làm sao…” Cô phá ra cười vui vẻ và cầm lấy tay ông, “Ồ không đâu cha, sao cha lại nói thế!” “Tha thứ cho cha!” – ông lẩm bẩn – “Ta thật ngớ ngẩn… Chuyện này thực sự là tuyệt vời…”
Tối nào họ cũng có khách – toàn khách không mời và đến mà không báo trước. Tất cả những ai nghe tin đám cưới của họ đều cảm thấy có đặc quyền được ghé vào chúc mừng. Keating không chắc chắn anh có vui mừng khi gặp họ hay không. Mọi việc có vẻ ổn, chừng nào sự lùng nhùng vui vẻ này còn tồn tại. Dominique cư xử một cách tuyệt vời. Anh không hề thấy một chút bóng dáng của sự mỉa mai trong điệu bộ của cô.
Đêm đã khuya khi vị khách cuối cùng rời nhà họ. Họ còn lại một mình với những gạt tàn đầy và những chiếc cốc rỗng không. Họ ngồi ở hai góc đối diện nhau của phòng khách và Keating cố gắng trì hoãn cái khoảnh khắc phải nghĩ đến những gì anh buộc phải nghĩ vào lúc này.
“Được rồi, Peter.” Dominique nói và đứng dậy. “Hãy giải quyết chuyện này cho xong.”
Khi anh nằm cạnh cô trong bóng tối, cơ thể anh được thoả mãn những thèm muốn nhưng nó lại trở nên thèm khát hơn bao giờ hết bởi vì cái cơ thể bất động ở cạnh anh đã không hề đáp lại, thậm chí không cả chống cự. Khi anh cảm thấy mình bị đánh bại ở ngay cái hành động điêu luyện mà anh đã hy vọng có thể dùng để chế ngự cô, những lời thì thầm đầu tiên của anh với cô là” “Quỷ tha ma bắt cô đi!”
Anh không hề thấy bất cứ cử động nào từ phía cô.
Rồi anh nhớ lại cái phát hiện mà những giây phút kích động đã quét khỏi đầu óc anh.
“Hắn là ai?” Anh hỏi.
“Howard Roark,” cô trả lời.
“Được rồi” – anh ngắt lời – “cô không phải nói nếu cô không muốn nói.”
Anh bật đèn lên. Anh thấy cô nằm bất động, trần truồng, đầu ngửa ra sau. Khuôn mặt cô trông bình thản, trong sáng, thánh thiện. Cô nói với cái trần nhà, giọng cô dịu dàng:
“Peter, nếu tôi có thể làm điều này… từ giờ tôi có thể làm bất cứ điều gì…”
“Nếu cô nghĩ là tôi sẽ phiền cô thường xuyên, nếu đấy là ý nghĩ của cô về…”
“Thường xuyên hay không tuỳ anh, Peter.”
*
* *
Sáng hôm sau, khi cô bước vào phòng ăn để dùng bữa sáng, Dominique thấy một hộp hoa dài và trắng nằm đối diện với đĩa của cô.
“Cái gì đây?” Cô hỏi người hầu gái.
“Nó được mang đến sáng nay thưa bà; người ta bảo để nó lên bàn ăn sáng của bà.”
Cái hộp đề gửi bà Peter Keating, Dominique mở ra. Bên trong là một vài cành hoa ly trắng sang trọng hơn những thứ hoa đang có vào mùa này. Một tấm các nhỏ đính kèm, trên đó có một cái tên được viết bằng những nét chữ lớn. Nét chữ bay bướm, quả quyết, như thế chúng đang phá ra cười trên tấm thiệp: “Ellsworth M. Toohey.”
“Thật tử tế làm sao” Keating nói. “Thế mà anh đã boăn khoăn là tại sao hôm qua chúng ta không nghe tin gì từ ông ấy.”
“Mang cắm chúng vào nước đi Mary. “Dominique đưa cái hộp cho người hầu.
Buổi chiều, Dominique gọi điện cho Toohey và mời ông tới ăn tối.
Bữa tối diễn ra sau đó vài ngày. Mẹ Keating đã xin phép đi có việc bận và chạy trốn khỏi buổi tối; bà tự trấn an mình rằng bà chỉ cần thời gian để làm quen với mọi việc. Vì thế, chỉ có ba bộ đĩa ăn được bày trên bàn ăn; nến được thắp trên những chân nến thuỷ tinh, chính giữa bàn là một lọ hoa thuỷ tinh cắm hoa xanh.
Khi Toohey bước vào, ông cúi đầu chào chủ nhà theo nghi lễ ở một cung điện. Dominique trông như một nữ chủ nhà thượng lưu đã quen vai trò tiếp tân từ lâu. Cô khiến người ta khó tưởng tượng nổi cô ở vai trò nào khác.
“Chà, Ellsworth? Thế nào?” Keating hỏi và khoát tay ám chỉ cả phòng khách, cả không khí trong phòng và Dominique.
“Peter thân mến của tôi,” Toohey trả lời, “hãy bỏ qua những thứ hiển nhiên.”
Dominique dẫn họ vào trong phòng khách. Cô trang phục theo kiểu dạ tiệc – một chiếc áo khoác ngoài dài bằng sa-tanh trắng được may như áo khoác nam, một chiếc váy dài màu đen, suôn và giản dị; tóc cô cũng buông giản dị. Vòng đai hẹp của chiếc váy quanh eo cô như muốn tuyên bố rằng chỉ cần hai bàn tay là có thể vòng quanh được eo cô và ngắt thành hai nửa mọt cách dễ dàng. Tay áo ngắn để lộ cánh tay cô. Cô đeo một chiếc vòng tay bằng vàng ròng – cái vòng quá to và nặng đối với cổ tay thanh mảnh của cô. Sự tao nhã của cô gần như trở nên choáng ngợp – đấy là một vẻ chín chắn khôn ngoan và đáng sợ được ngụy trang dưới vẻ ngoài của một cô gái trẻ trung.
“Ellsworth, thật tuyệt phải không?” Keating vừa nói vừa quan sát Dominique như người ta quan sát một tài khoản ngân hàng bộn tiền.
“Không dưới những gì tôi kỳ vọng.” Toohey trả lời. “Và cũng không vượt quá.”
Bên bàn ăn, Keating nói là chủ yếu. Anh như thể anh bị mắc bệnh nói nhiều. Anh nói như thể người say.
“Thực ra, Ellsworth, chính Dominique mời ông. Tôi không hề yêu cầu cô ấy. Ông là vị khách chính thức đầu tiên của chúng tôi. Tôi nghĩ như thế thật là tuyệt vời. Vợ tô và người bạn thân nhất của tôi. Tôi đã luôn có cái ý nghĩ ngớ ngẩn rằng hai người không thích nhau. Có Chúa biết vì sao tôi có ý nghĩ ấy. Nhưng tôi mới vui làm sao khi thấy ba chúng ta cùng nhau.”
“Vậy là anh không tin vào toán học, đúng không Peter?” – Toohey nói – “Sao anh lại ngạc nhiên nhỉ? Khi người ta cộng một vài thứ với nhau thì kết quả sẽ là tất yếu. Có ba phân tử như Dominique, anh và tôi – thì kết quả này là hiển nhiên.”
“Người ta bảo có ba người là thành một đám đông ầm ỹ” – Keating cười phá ra – “Họ nói láo. Hai người bao giờ cũng tốt hơn một, và đôi khi ba người lại tốt hơn hai người, tuỳ lúc.”