"Gail, ông biết là tôi luôn muốn ông được hạnh phúc," Alvah Scarret nói. Ông ngồi trong chiếc ghế bành dễ chịu tại phòng làm việc trong căn hộ Wynand buổi tối hôm đó. "Ông biết là tôi không nghĩ tới điều gì khác cả."
Wynand nằm dài trên tràng kỷ. Một chân của ông gập lại, bàn chân vắt lên đầu gối chân kia. Ông hút thuốc và yên lặng lắng nghe.
"Tôi biết Dominique nhiều năm rồi", Scarret nói "Từ lâu trước khi ông nghe nói tới cô ấy. Tôi yêu quý cô ấy. Tôi yêu quý cô ấy, như một người cha. Nhưng ông phải thừa nhận là cô ấy không phải dạng phụ nữ mà công chúng muốn nhìn thấy với tư cách bà Gail Wynand."
Wynand không nói gì.
"Vợ ông là người của công chúng, Gail. Hiển nhiên sẽ là như thế. Một tài sản công cộng. Các độc giả của ông có quyền đòi hỏi và trông đợi một số thứ từ cô ấy. Một thứ biểu tượng. Kiểu như Nữ hoàng nước Anh. Làm sao mà Dominique có thể tương xứng như thế chứ? Lẽ nào ông nghĩ cô ấy có thể giữ thể diện được? Cô ấy là người sống hoang dã nhất mà tôi biết. Cô ấy tai tiếng kinh khủng. Nhưng tồi nhất là - Gail, ông thử nghĩ coi - cô ấy lại li dị chồng! Và trong khi đó, chúng ta đã tiêu tốn hàng tấn giấy để bảo vệ cho sự thiêng liêng của gia đình và sự thuần khiết của người phụ nữ! Làm sao các độc giả của ông có thể nuốt được quả đắng này? Tôi làm sao có thể bán vợ ông được cho họ chứ?"
"Anh có nghĩ là cuộc chuyện trò này nên chấm dứt không, Alvah?"
"Vâng, Gail", Scarret nói rụt rè...
Scarret chờ đợi, với cảm giác nặng nề, như thể ông vừa trải qua một cuộc tranh cãi kịch liệt và nóng lòng muốn làm lành.
"Tôi biết rồi, Gail!", ông ta reo lên hoan hỉ. "Tôi biết chúng ta có thể làm gì. Chúng ta sẽ đưa Dominique quay lại tờ báo và chúng ta sẽ để cô ấy viết một chuyên mục - một chuyên mục mới - chuyên về gia đình. Ông biết đấy, mẹo vặt về nhà cửa, bếp núc, trẻ con, đại loại thế. Nó sẽ làm thay đổi ấn tượng xấu. Hãy cho thấy cô ấy là người nội trợ tốt thế nào, bất chấp những lỗi lầm của tuổi trẻ của cô ấy. Phụ nữ sẽ tha thứ cho cô ấy. Chúng ta sẽ có một mục đặc biệt. 'Công thức nấu ăn của bà Gail Wynand'. Một vài bức ảnh của cô ấy sẽ có ích - ông biết đấy, váy vải kẻ, tạp dề và tóc được làm theo kiểu truyền thống."
"Im đi, Alvah, trước khi tôi tát vỡ mặt anh", Wynand nói mà không hề cao giọng.
"Được rồi, Gail."
Scarret làm bộ đứng lên.
"Ngồi yên. Tôi chưa nói xong."
Scarret chờ đợi một cách ngoan ngoãn.
"Sáng ngày mai", Wynand nói "anh sẽ gửi một thông báo tới tất cả các tờ báo của chúng ta. Anh sẽ bảo họ lục tìm trong hồ sơ bất cứ bức ảnh nào của Dominique mà liên quan tới chuyên mục cũ của cô ấy. Anh bảo họ hủy các bức ảnh đó. Anh bảo với họ từ nay trở đi nếu có ai đề cập tới tên cô ấy hay đăng hình cô ấy trên bất kỳ tờ báo nào của chúng ta thì toàn bộ ban biên tập liên quan sẽ mất việc. Khi tới thời điểm phù hợp, anh sẽ thông báo về cuộc hôn nhân của tôi trên tất cả các tờ báo của chúng ta. Việc này là không tránh được. Hãy đưa ra thông báo ngắn nhất có thể. Không bình luận. Không kể chuyện. Không ảnh. Hãy nói với tất cả mọi người và nhớ làm cho họ hiểu. Nếu việc này không được tuân thủ, thì tất cả mọi người, kể cả anh, cũng sẽ mất việc."
"Không kể chuyện gì cả - khi mà ông cưới cô ấy ư?"
"Không kể chuyện gì cả, Alvah."
"Nhưng Chúa ơi! Đó là tin tức! Các tờ báo khác..."
"Tôi không quan tâm các tờ báo khác nói gì về việc này."
"Nhưng tại sao hả Gail?"
"Anh không hiểu được đâu."
*
* *
Dominique ngồi ở cửa sổ, lắng nghe tiếng bánh tàu chạy ở dưới sàn. Cô nhìn vùng quê Ohio đang lướt qua trong ánh nắng nhạt dần. Đầu cô tựa vào ghế và đôi tay buông lỏng ở hai bên mình, trên nệm ghế. Cô hòa làm một với toa tàu, cô cũng đang tiến về phía trước, giống như khung cửa sổ, sàn, và thành tàu đang tiến về phía trước. Các góc cạnh xung quanh toa tàu mơ dần, thu bóng tối vào trong; chỉ có khung cửa sổ vẫn còn sáng, nhờ thứ ánh sáng của buổi tối hắt lên từ mặt đất. Cô để mình nghỉ ngơi trong ánh sáng mờ mờ đó; thứ ánh sáng từ ngoài chui vào trong khoang và ngự trị nó, cho tới chừng nào cô còn chưa bật đèn sáng để đuổi nó ra ngoài.
Cô không có ý thức về mục đích. Cô không có mục đích gì trong chuyến đi này, ngoài bản thân chuyến đi, ngoài những chuyển động và âm thanh kim khí đang vang lên xung quanh cô. Cô cảm thấy uể oải và trống rỗng, cô thả rơi cái tôi của mình trong cảm giác suy sụp mà không đau đớn; cô sẵn sàng biến mất và không còn gì còn lại, ngoài mặt đất đang hiện ra bên ngoài cửa sổ.
Khi cô nhìn thấy, trong chuyển động chậm chạp ở ngoài cửa kính, cái tên "Clayton" hiện ra trên một tấm bảng mờ mờ ở phía dưới mái sân ga, cô biết mình đã chờ đợi điều gì. Cô biết tại sao cô lại chọn đi trên chuyến tàu này, không phải một chuyến tàu nhanh, cô biết tại sao cô lại nhìn kỹ thời gian biểu về các điểm dừng của nó - cho dù nó chỉ là một cột những cái tên không có nghĩa gì với cô. Cô cầm lấy va-li, áo khoác và mũ của mình.
Cô chạy. Cô không muốn mất thời gian thay quần áo, cô sợ sàn tàu dưới chân sẽ đưa cô đi tới một nơi nào khác. Cô chạy xúong hành lang hẹp của toa tàu, xuống bực lên xuống của con tàu. Cô nhảy xuống sân ga, cảm thấy hơi lạnh đột ngột của mùa đông trên cổ trần của mình. Cô đứng nhìn nhà ga. Cô nghe thấy tiếng tàu chạy sau lưng cô, xa dần. Rồi cô mặc áo khoác và đội mũ. Cô bước xuyên qua sân ga, tới phòng đợi, xuyên qua sàn nhà bằng gỗ dính đầy kẹo cao su đã khô cứng, xuyên qua hơi nóng hừng hực từ một lò sấy, đi tới quảng trường trước mặt nhà ga.
Cô nhìn thấy một dải trời màu vàng cuối cùng phía trên các mái nhà thấp. Cô thấy một đoạn đường lát gạch lỗ chỗ, những ngôi nhà bé nhỏ dựa vào nhau; một cái cây trơ trụi với những cành xoắn xuýt, đám cỏ dại chết khô phía trước một ga-ra bỏ hoang và mất cả cửa ra vào, dãy cửa hiệu tối tăm, một hiệu thuốc vẫn đang mở cửa nằm tại một góc phố - cửa sổ của nó thắp sáng mờ mờ, thấp lè tè sát mặt đất.
Cô chưa bao giờ đến đây, nhưng cô cảm thấy nơi này đang tuyên bố quyền sở hữu của nó với cô, bao bọc lấy cô bằng một sự thân mật đáng ngại. Cứ như thể mỗi một khoảng tối đều đang thể hiện sức hút của nó, giống như lực hút của lỗ đen với các hành tinh trong vũ trụ, và chúng chi phối quỹ đạo chuyển động của cô. Cô đặt tay mình lên một bình cứu hỏa và cảm thấy hơi lạnh lan qua lớp găng tay, thấm vào da cô. Đây là cách mà thị trấn này nói chuyện với cô - bằng một sự xâm nhập trực tiếp mà cả quần áo lẫn đầu óc của cô đều không thể cản được. Chỉ có sự yên bình của cái-không-thể-tránh-khỏi là ở lại. Có điều, bây giờ, cô phải hành động, những hành động đơn giản và đã được sắp đặt trước rồi. Cô hỏi một người qua đường: "Công trường của Bách hóa Janer được xây dựng ở chỗ nào vậy?"
Cô bước đi nhẫn nại qua các con phố tối tăm. Cô đi qua những bãi cỏ trơ trụi trong mùa đông, qua những hàng hiên xập xệ, qua những bãi đất trống chỉ có cỏ dại xào xạc cọ vào các vỏ hộp thiếc, qua các cửa hiệu thực phẩm đã đóng cửa và một hiệu giặt bằng hơi, qua một cửa sổ không có rèm trong đó có một người đàn ông mặc sơ mi dài tay đang đọc báo bên cạnh lò sưởi. Cô rẽ qua các góc phố và băng qua các con đường, cảm giác tiếng sỏi xào xạc dưới đế mỏng của đôi giày. Những người đi bộ hiếm hoi nhìn cô, và ngạc nhiên trước vẻ tao nhã xa lạ của cô.
Cô nhận thấy thế, cô cảm thấy từ họ một sự tò mò muốn được giải đáp. Cô muốn nói: Chả nhẽ ông không hiểu ư? Tôi thuộc về nơi này hơn cả ông. Thỉnh thoảng, cô dừng lại, nhắm chặt mắt; cô cảm thấy nghẹn thở.
Cô đến phố Main và bước chậm hơn. Trên phố có rất ít đèn đường, các xe ô-tô đậu trên đường chéo ở lề đường, một rạp chiếu phim, một cửa hàng trưng bày đồ lót màu hồng xen với dụng cụ làm bếp. Cô bước một cách cứng nhắc, mắt nhìn thẳng phía trước.
Cô thấy ánh sáng hắt lên mặt một tòa nhà cũ, trên một bức tường bằng gạch màu vàng tối tăm, chiếu lên sàn nhà đen sạm của một tòa nhà bên cạnh đã bị kéo sập. Ánh sáng ấy xuất hiện từ một hố móng công trình. Cô biết đây chính là nó. Cô hy vọng không phải thế. Nếu họ làm việc muộn thì anh sẽ ở đây. Cô không muốn gặp anh tối nay. Cô chỉ muốn nhìn thấy địa điểm và tòa nhà, cô chưa sẵn sàng cho những gì hơn thế; cô đã định gặp anh vào ngày mai. Nhưng cô không thể dừng lại lúc này được. Cô bước tới hố móng. Nó nằm ở góc đường, trông ra phố và và không cso hàng rào. Cô nghe thấy tiếng đập thép chan chát, cô nhìn thấy cánh tay của một cây cần cẩu, thấy những bóng người xả dài trên nền đất mới đào và vàng vọt dưới ánh đèn. Cô không nhìn thấy các tấm ván dẫn tới vỉa hè nhưng cô nghe thấy tiếng bước chân và tiếp đó cô nhìn thấy Roark đang đi ra đường. Anh để đầu trần, chiếc áo khoác rộng khoác hờ không cài cúc.
Anh dừng lại. Anh nhìn cô. Cô nghĩ là cô đang đứng thẳng; rằng điều này thật đơn giản và bình thường làm sao, cô đang nhìn đôi mắt xám và mái tóc màu da cam như cô vẫn thường xuyên nhìn thấy. Cô ngạc nhiên khi anh tiến tới cô một cách rất vội vã, tay anh nắm chặt khuỷu tay cô và anh nói: "Em ngồi xuống đi."
Và cô thấy cô đã không thể đứng được nếu không có bàn tay đó nắm vào khuỷu tay cô. Anh cầm lấy vali của cô. Anh dẫn cô đi ngang qua con phố tối tăm và bảo cô ngồi xuống bậc thềm của một căn nhà trống. Cô dựa lưng vào cánh cửa đóng. C ngồi bên cạnh cô. Anh để tay mình giữ chặt khuỷu tay cô, không phải một cách âu yếm, mà như để cả hai có thể cùng lấy lại thăng bằng.
Sau một lúc, anh bỏ tay mình ra. Cô biết là bây giờ cô đã được an toàn. Cô có thể nói.
"Đây là tòa nhà mới của anh?"
"Ừ. Em đi bộ đến đây từ nhà ga?"
"Vâng."
"Đường xa."
"Vâng."
Cô nghĩ là hai người vẫn chưa chào nhau nhưng như thế là phù hợp. Đây không phải là một cuộc tái ngộ mà chỉ là một khoảnh khắc trong một cái gì đó chưa bao giờ bị ngắt quãng. Cô nghĩ sẽ thật kỳ cục nếu như cô nói "Chào anh!" với anh. Nào có ai chào bản thân mình mỗi buổi sáng.
"Sáng nay anh dậy lúc mấy giờ?" cô hỏi.
"Bảy giờ."
"Lúc đó em đang ở New York. Trong một chiếc taxi tới nhà ga Trung tâm. Anh ăn sáng ở đâu?"
"Ở toa xe lưu động."
"Loại mở suốt đêm à?"
"Ừ. Chủ yếu cho cánh lái xe tải."
"Anh có hay đến đó không?"
"Lúc nào anh muốn uống cà phê."
"Anh ngồi ở quầy à? Với mọi người xung quanh và nhìn anh?"
"Anh ngồi ở quầy khi anh có thời gian. Có mọi người xung quanh. Anh không nghĩ là họ nhìn anh nhiều lắm."
"Thế sau đó? Anh đi bộ tới công trường à?"
"Ừ."
"Anh đi bộ hàng ngày? Qua những con phố này? Đi qua các cửa sổ? Và nếu có ai đó mở cửa sổ..."
"Ở đây, người ta không tò mò nhìn ra ngoài cửa sổ."
Nhờ bậc thềm cao, họ có thể nhìn thấy các hố móng ở bên kia phố, thấy đất đá, đám công nhân, các cây cột bằng thép vươn cao lên trong ánh sáng gắt. Cô cảm thấy lạ lùng khi nhìn thấy mặt đát trần ở giữa vỉa hè và đá lát đường, giống như người ta xé một miếng quần áo của thị trấn ra, để lộ da thịt trần trụi. Cô nói:
"Anh đã xây hai căn nhà nông thôn trong hai năm qua."
"Ừ. Một ở Pensylvania và một ở gần Boston."
"Mấy căn nhà đó đều không quan trọng."
"Rẻ tiền, nếu ý em là thế. Nhưng công việc rất thú vị."
"Anh sẽ ở lại đây bao lâu nữa?"
"Một tháng nữa."
"Tại sao anh làm việc cả ban đêm?"
"Công trình này cần xong gấp."
Bên kia đường, chiếc cần cẩu đang di chuyển, nó đang nâng một thanh rầm dài trong không trung.
Cô nhìn thấy anh quan sát nó và cô biết anh không nghĩ tới nó, đó là phản xạ bản năng trong mắt anh, một mối liên hệ hữu hình với anh, một cảm giác gần gũi đối với bất kỳ hành động nào xảy ra với tòa nhà của anh.
"Roark..."
Họ không gọi tên nhau từ lúc gặp mặt tới giờ. Giờ đây, tiếng gọi đó đem lại khoái cảm cho cô như một sự đầu hàng lẽ ra phải tuyên bố từ lâu - khi mà cô được gọi tên anh và để anh nghe thấy tiếng gọi đó.
"Roark, lại là mỏ đá nữa."
Anh mỉm cười:
"Nếu như em muốn coi như thế. Có điều không phải."
"Sau nhà Enright ư? Sau tòa nhà Cord ư?"
"Anh không nghĩ theo cách đấy."
"Thế anh nghĩ thế nào?"
"Anh thích xây nó. Mỗi tòa nhà giống như một con người. Riêng biệt và không thể lặp lại."
Anh đang nhìn sang bên kia đường. Anh đã không hề thay đổi. Vẫn là cái cảm giác nhẹ nhàng như cũ của anh, vẫn là sự dễ dàng trong cử động, trong hành động, trong suy nghĩ. Cô nói, câu nói của cô không có khởi đầu hay kết túc:
"... xây những tòa nhà năm tầng cho tới hết đời anh..."
"Nếu cần thiết. Nhưng anh không nghĩ mọi việc sẽ như thế."
"Anh đang chờ đợi điều gì?"
"Anh không chờ đợi."
Cô nhắm mắt, nhưng cô không thể giấu được miệng mình; miệng cô đắng ngắt, giận dữ và đau đớn.
"Roark, nếu anh ở New York thì em sẽ không đến gặp anh đâu."
"Anh biết."
"Nhưng vì là anh - ở một nơi khác - ở một cái hố không tên, ở một nơi như thế này. Em phải nhìn thấy nó. Em phải nhìn thấy nơi này."
"Khi nào em đi?"
"Anh biết là không phải em đến ở lại đây ư?"
"Ừ."
"Tại sao?"
"Em vẫn sợ các toa ăn lưu động và các cửa sổ."
"Em sẽ không trở lại New York. Không phải ngay bây giờ."
"Không à?"
"Anh chẳng hỏi em gì cả, Roark. Chỉ một câu có phải em đi bộ từ nhà ga."
"Em muốn anh hỏi em điều gì?"
"Em xuống tàu khi em nhìn thấy tênnhà ga", cô nói, giọng thẫn thờ. "Em không định đến đây. Em đang trên đường đi Reno."
"Và sau đó?"
"Em sẽ lấy chồng một lần nữa."
"Anh có biết chồng chưa cưới của em không?"
"Anh đã nghe thấy ông ấy. Tên ông ấy là Gail Wynand."
Cô nhìn mắt anh. Cô nghĩ có lẽ cô muốn cười; cuối cùng cô cũng khiến anh bị sốc - điều cô chưa bao giờ nghĩ là có thể làm được. Nhưng cô không cười. Anh nghĩ tới Henry Cameron, tới câu nói của Cameron: "Tôi không có câu trả lời nào cho chúng, Howard. Tôi để cậu đối mặt chúng. Cậu sẽ trả lời cho cúhng. Tất cả bọn chúng, các tờ báo Wynand, tất cả những gì làm cho các tờ báo này tồn tại và những thứ đằng sau những cái đó."
"Roark."
Anh không trả lời.
"Tệ hơn Peter Keating, phải không?" cô hỏi.
"Tệ hơn nhiều."
"Anh có muốn ngăn em lại không?"
"Không."
Anh không chạm vào cô từ lúc anh rời khỏi khuỷu tay cô và ngay cả lúc đó cũng chỉ là một cái chạm thích hợp trong xe cứu thương. Cô nhấc tay lên và đặt nó trên tay anh. Anh không rút các ngón tay và cũng không giả bộ thờ ơ. Cô cúi xuống, giữ tay anh, để nó nằm nguyên trên đầu gối anh, và cô áp môi mình lên bàn tay anh. Chiếc mũ của cô rơi xuống đất, anh nhìn thấy mái tóc vàng trên đầu gối mình, anh cảm thấy miệng cô hôn bàn tay anh nhiều lần. Các ngón tay của anh níu lấy các ngón tay cô, đáp lại cô, nhưng đó là sự đáp lại duy nhất.
Cô ngẩng đầu lên và nhìn con đường. Một ô cửa sổ sáng đền treo lơ lửng ở phía xa xa, đằng sau những cành cây trơ trụi đan chéo vào nhau. Những ngôi nhà nhỏ ăn dài vào bóng tối, và các hàng cây đứng tựa nhau bên cạnh vỉa hè đẹp.
Cô nhận ra mũ của cô dưới bậc thềm và cô cúi mình để nhặt. Cô gập người, cô hống bàn tay trần xuống bậc thềm. Viên đá cô chạm vào già cỗi, nhẵn nhụi và lạnh ngắt. Cô cảm thấy dễ chịu khi chạm vào nó. Cô ngồi một lúc, người vẫn cúi, lòng bàn tay áp xuống viên đá, để có thể cảm giác được những bậc thềm này - dù cho nhiều đôi chân đã đi qua nơi này - để có thể cảm thấy chúng như cô đã cảm thấy chiếc bình cứu hỏa.
"Roark, anh sống ở đâu?"
"Ở một phòng trọ."
"Loại phòng trọ nào?"
"Chỉ một phòng thôi."
"Có gì trong đó. Tường như thế nào?"
"Một ít giấy dán tường. Đã phai màu."
"Đồ đạc như thế nào?"
"Một chiếc bàn, vài cái ghế, một chiếc giường."
"Không, kể cho em chi tiết đi."
"Có một cái tủ tường để đựng quần áo, một tủ nhiều ngăn kéo, giường đặt ở góc nhà cạnh cửa sổ, một chiếc bàn lớn ở phía bên kia..."
"Cạnh cửa sổ?"
"Không, anh đặt nó ở góc bên kia, đối diện cửa sổ - anh làm việc ở đó. Có một chiếc ghế tựa, một chíêc ghế bành, đèn sàn và một giá đựng tạp chí mà anh chưa bao giờ dùng tới. Anh nghĩ thế là hết rồi."
"Không có chăn? Không có rèm cửa sổ?"
"Anh nghĩ có cái gì đó ở cửa sổ và có chăn. Sàn nhà được đánh bóng và sạch sẽ và làm bằng gỗ cũ rất đẹp."
"Em muốn nghĩ tới căn phòng của anh vào đêm nay - khi ở trên tàu."
Anh nhìn sang bên kia đường. Cô nói: "Roark, cho em ở với anh đêm nay."
"Không."
Cô nhìn theo anh xuống chiếc máy nghiền ở dưới kia. Sau một lát, cô hỏi:
"Làm thế nào mà anh lại có hợp đồng thiết kế tòa nhà này?"
"Chủ của nó nhìn thấy các tòa nhà của anh ở New York và thích chúng."
Một người đàn ông mặc đồng phục công nhân bước ra khỏi hố đào móng, nhìn săm soi về phía họ trong bóng tối và gọi:
"Có phải sếp không đấy?"
"Phải", Roark gọi lại.
"Sếp xuống đây một phút được không?"
Roark đi qua đường tới chỗ anh ta. Cô không nghe được họ nói chuyện gì với nhau, nhưng cô nghe thấy Roark nói một cách vui vẻ: "Dễ ấy mà", và họ cùng đi dọc theo các tấm ván tới đáy hố. Người đàn ông đứng nói, chỉ trỏ, giải thích. Roark quay đầu trở lại, liếc nhìn lên giàn thép dựng đứng, khuôn mặt anh được ánh sáng chiếu rõ và cô nhìn thấy cái nhìn chăm chú của anh. Không có một nụ cười nhưng cái nhìn đó khiến cô có một cảm giác vui sướng về một năng lực, một lý trí có kỷ luật đang hành động. Anh cúi xuống, nhặt một tấm bảng, lấy ra cây bút chì trong túi.
Anh đứng, một chân đặt trên đống ván ghép, tấm bảng dựa vào đầu gối. Anh vẽ rất nhanh, vừa vẽ vừa giải thích gì đó cho người đàn ông kia. Người này gật đầu tỏ vẻ vui mừng. Cô không nghe được lời anh nhưng cô cảm thấy được vai trò của Roark trong mối quan hệ với người đàn ông kia, với tất cả những người khác ở trong bãi. Đó là một cảm giác lạ lùng của sự trung thành và tình bằng hữu, nhưng không phải theo nghĩa mà cô vẫn thấy người ta dùng với những từ này. Anh nói xong, trao tấm bảng cho người đàn ông và họ cùng cười phá lên về điều gì đó. Sau đó anh trở lại và ngồi xuống bậc thềm bên cạnh cô.
"Roark", cô nói "Em muốn ở lại đây với anh cho tới tận cuối đời."
Anh nhìn cô, chăm chú, chờ đợi.
"Em muốn sống ở đây." Giọng cô có âm thanh của một dòng nước đang xô vào con đập. "Em muốn sống như anh sống. Không cần tới tiền của em - Em sẽ cho hết, cho bất kỳ ai, cho Steve Mallory nếu anh muốn, hay ột tổ chức nào đó của Toohey, cũng chẳng sao. Chúng ta sẽ có một căn nhà ở đây - giống như những cái nhà kia - và em sẽ chăm sóc nó cho anh - đừng có cười, em có thể làm thế - em sẽ nấu ăn, em sẽ giặt quần áo của anh, em sẽ cọ sàn nhà. Và anh sẽ từ bỏ nghề kiến trúc."
Anh không cười. Cô không nhìn thấy gì ngoài vẻ chăm chú, chờ nghe cô nói tiếp.
"Roark, anh hãy cố hiểu, xin anh hãy cố hiểu. Em không thể chịu được khi thấy những thứ họ đang làm gì với anh, những thứ họ sẽ làm với anh. Nó quá lớn - anh và tòa nhà và tình yêu của anh với nó. Anh không thể tiếp tục như thế mãi. Nó sẽ không kéo dài. Họ sẽ không để cho anh. Anh đang đi tới một thảm họa kinh khủng. Sẽ chẳng có kết cục nào khác. Hãy từ bỏ đi anh. Chấp nhận một công việc vô nghĩa nào đó - như khai mỏ đá. Chúng ta sẽ sống ở đây. Chúng ta sẽ không có gì nhiều và chúng ta sẽ không cho gì cả. Chúng ta sẽ sống chỉ vì chúng ta và chỉ vì những gì chúng ta biết."
Anh cười. Cô nghe thấy, trong tiếng cười của anh, sự ân cần của anh với cô - anh đã cố gắng không cười nhưng không thể ngăn nó được.
"Dominique." Cách anh gọi tên cô lắng vào trong cô và khiến việc nghe những lời tiếp đó trở nên dễ dàng hơn: "Anh ước là anh có thể nói với em rằng đó là một cám dỗ, chí ít cũng là trong khoảnh khắc. Nhưng không phải thế." Anh nói thêm: "Nếu anh là kẻ rất độc ác, anh sẽ chấp nhận nó. Chỉ để xem mất bao lâu thì em sẽ cầu xin anh quay trở lại với việc xây dựng."
"Vâng... Có lẽ..."
"Hãy cưới Wynand và sống với ông ta. Việc đó tốt hơn là việc em đang làm với mình vào lúc này."
"Anh có phiền... nếu chúng ta ngồi đây thêm chút nữa... và không nói về việc đó... mà chỉ nói chuyện thôi, như thể tất cả đều tốt đẹp... chỉ là một sự đình chiến nửa giờ đồng hồ cho nhiều năm sắp tới... Nói cho em biết anh làm gì mỗi ngày trong khi anh ở đây, tất cả những gì mà anh có thể nhớ được..."
Và họ nói với nhau, như thể bậc thềm trên cùng của căn nhà trống ấy là một chiếc máy bay đang lơ lửng trên không trung, không thấy đất cũng không thấy trời. Anh không hề nhìn sang phía bên kia đường.
Sau đó, anh liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay và nói: "Một tiếng nữa có tàu chạy về hướng Tây. Anh sẽ đi với em ra ga nhé?"
"Chúng ta đi bộ có được không?"
"Được chứ."
Cô đứng lên. Cô hỏi: "Cho tới - khi nào, Roark?"
Anh khoát tay qua những đường phố.
"Cho tới khi em không còn căm ghét tất cả những thứ này, không còn sợ hãi chúng, và học cách không còn để ý tới chúng."
Họ bước cùng nhau tới nhà ga. Cô lắng nghe tiếng bước chân anh hòa vào bước chân cô trên những đường phố không người. Cô để ánh mắt của mình lướt dài theo những bức tường họ đi qua, như một cái vuốt ve níu giữ. Cô yêu nơi này, thị trấn này và tất cả những gì thuộc về nó.
Họ đi qua một bãi đất trống. Gió thổi một trang báo cũ bay vào chân cô. Nó dính vào chân cô một cách kiên trì tới mức như là nó có ý thức, giống như sự nằng nặc âu yếm của một con mèo đối với chủ nhân. Cô nghĩ, mọi thứ ở thị trấn này đều có quyền đối xử thân thiết với cô. Cô cúi người, nhặt tờ báo, gấp nó, để giữ lấy nó.
"Em làm gì thế?" anh hỏi.
"Để có gì đó đọc trên tàu", cô nói một cách ngớ ngẩn.
Anh giật tờ báo khỏi tay cô, vò nát và quẳng nó vào trong đám cỏ dại.
Cô không nói gì và họ lại tiếp tục bước đi.
Một bóng đèn duy nhất treo trên sân ga vắng người. Họ chờ đợi. Anh đứng nhìn đường ray, phía con tàu sắp xuất hiện. Khi đường ray reo lên, run rẩy, khi bóng đèn pha tròn màu trắng phả ánh sáng từ đằng xa và tạo một quầng sáng cố định trên bầu trời, không tiến lại, mà chỉ lan rộng ra với tốc độ kinh người, anh không cử động cũng không quay sang cô. Chùm sáng đang lao tới, xô bóng anh dọc sân ga, làm nó quét ngang trên các tấm ván gỗ và biến mất. Trong một khoảnh khắc, cô thấy dáng người cao và thẳng của anh trong ánh sáng chói lòa. Đầu máy chạy qua họ, toa xe kêu rầm rầm, rồi chậm lại. Anh nhìn vào các khung cửa sổ đang chạy qua. Cô không nhìn thấy mặt anh mà chỉ thấy đường nét nơi gò má anh.
Khi tàu dừng, anh quay sang cô. Họ không bắt tay nhau, họ không nói gì. Họ đứng thẳng, mặt đối mặt nhau trong phút chốc, như thể đang duyệt binh; họ đứng gần như trong tư thế chào của nhà binh. Rồi cô nhấc va-li của mình và lên tàu. Tàu bắt đầu chuyển động một phút sau đó.