Ta Không Làm Thiếp

Lại qua mấy ngày, trời ngả hoàng hôn, Thẩm Lan ngồi xuống dùng bữa tối. Nàng ăn xong tắm rửa sạch sẽ, mãi đến giờ Tuất canh ba, Bùi Thận mới trở về.

Thấy y về, Thẩm Lan cầm khăn lau tóc, nhàn nhạt nói: “Ngài mấy ngày nay sao về ngày càng muộn hơn vậy?”

Bùi Thận ôm chầm lấy nàng, cười nói: “Nàng độ này đã biết nhớ ta rồi sao?”

Thẩm Lan liếc nhìn y, nghĩ thầm nàng làm gì mà quan tâm đến y, chẳng qua bận tâm giặc Oa đang quấy rối những đâu mà thôi, nàng mỉm cười: “Hàng Châu cũng đã có giặc Oa sinh sự rồi sao?”

Bùi Thận nhẹ nhàng bâng quơ: “Làm gì có ngày nào là chúng không sinh sự?” Nói rồi, sợ nàng lại sinh ra ý nghĩ bậy bạ, y lại nói: “Tộc Thát Đát ở khu vực chín trấn biên thành, tộc Nữ Chân ở Liêu Đông, giặc Oa ở Đông Nam, thổ ty ở Vân Quý nổi loạn. Khu vực Chiết Giang hiện nay không kể giặc Oa, thợ mỏ ở mỏ bạc Nghĩa Ô cũng đang bạo động. Nơi nào cũng hết sức loạn lạc, nàng chớ có chạy lung tung.”

Thẩm Lan thở dài một tiếng: “Dưới gầm trời này còn có chỗ nào yên ổn không chứ?”

Bùi Thận cười nhạo: “Làm gì còn chốn nào là yên ổn đâu?”

Vừa dứt lời, chợt nghe bên ngoài vang lên tiếng gõ cửa: “Bẩm Gia, có tin cấp báo.”

Là giọng của Trần Tùng Mặc.

Bùi Thận lập tức đứng lên bước ra cửa. Trần Tùng Mặc cầm đèn sừng dê đi đằng trước dẫn đường, thì thầm: “Gia, Đàm Anh tới.”

Bùi Thận ngừng bước, rồi lại nhanh chân vội vã chạy vào thư phòng.

Thấy Bùi Thận tiến vào, Đàm Anh chắp tay hành lễ. Bùi Thận ôn hòa hỏi: “Vết thương ra sao rồi?”

Đàm Anh nhếch miệng cười: “Đã khá lên nhiều.” Nói rồi, cũng không chờ Bùi Thận hỏi sâu hơn, hắn vội nói: “Đại nhân, Bệ hạ ba ngày trước uống vào mấy viên Kim Đan loại mạnh cùng rượu bách hoa, lại uống thêm thuốc hỗ trợ sinh con có tính nóng, tối đó ngất đi không tỉnh lại. Thái y châm cứu xong, nói rằng chỉ có thể kéo dài thêm năm sáu ngày.”

Bùi Thận phút chốc kinh ngạc sửng sốt, nhưng rồi lại thấy không có gì đáng phải bất ngờ. Bệ hạ ngự trên ngai hai mươi năm, nào là cầu đạo uống đan dược, nào là để có con trai bất chấp uống những phương thuốc lung tung bậy bạ, có thể sống tới nay cũng đã xem như sống thọ rồi.

Bùi Thận hỏi tiếp: “Đã chọn được người làm Thái Tử chưa?”

Đàm Anh cười khổ: “Chỉ huy sứ chỉ bảo ta tới báo cho đại nhân. Lâm thiếu bảo cùng Uyển Quý phi không biết tìm đâu ra một đứa bé trai sáu tháng trong cung, bảo đấy là mấy tháng trước Bệ hạ lâm hạnh một cung nữ để lại. Một hai đòi lập đứa bé này làm Thái Tử.”

Bùi Thận cười lạnh: “Bệ hạ lâu nay không con, đường sinh dục chắc chắn có vấn đề. Huyết thống đứa trẻ này vẫn còn cần nghi vấn.” Y lại hỏi: “Hai vị các lão Trần, Thôi nói thế nào? Có phải định lập con trai của Ích Vương hoặc Kinh Vương?”

Đàm Anh cười khổ nói: “Quả đúng vậy. Trần các lão muốn lập con trai trưởng của Ích Vương đã qua hai mươi tuổi, lý do là quốc gia cần người đủ tuổi cai trị. Thôi các lão lại cho rằng Ích Vương là em trai thứ ba bên nội của Bệ hạ, lớn nhỏ có thứ tự, cho nên theo lý phải lập con trai của Kinh Vương là em trai thứ hai bên nội của Bệ hạ mới đúng. Nhưng ngặt nỗi, con trai trưởng của Kinh Vương sớm đã qua đời, chỉ còn lại đứa con trai thứ hai mới vừa ba tuổi.”

Bùi Thận cười lạnh một tiếng. Ba phái này ý đồ đã rõ rành rành.

Nếu lập bất kì con trai của phiên vương nào thì chúng cũng có cha mẹ để nương tựa. Phe Uyển Quý phi, Lâm thiếu bảo cứ muốn lập một đứa bé không nơi nương tựa, dễ bề lên làm Thái Hậu, buông rèm nhiếp chính hai mươi năm.

Trần các lão là người Giang Tây. Đất phiên của Ích Vương cũng vừa lúc ở Giang Tây. E rằng hai người này sớm đã liên hệ lẫn nhau, cho nên mới lấy cớ quốc gia cần người đủ tuổi cai trị đòi lập Ích Vương Thế tử đã thành niên.

Thôi các lão bình thường hết sức hòa hợp với Trần các lão, nhưng nếu Trần các lão quả thật muốn lập con trưởng của Ích Vương, sau này có thể dựa vào công phò tá này mà vinh hoa phú quý lẫy lừng. Thôi các lão sao có thể cam lòng làm lính cả đời? Nên mới lấy cớ lớn nhỏ có thứ tự để đẩy con trai thứ hai của Kinh Vương lên, nhằm mưu lợi về mình.

“Đại nhân, trong triều đã có dấu hiệu sinh loạn, sợ rằng chưa tới năm sáu ngày nữa, tin Bệ hạ băng hà sẽ truyền đi khắp hai kinh mười ba tỉnh.” Đàm Anh cười khổ: “Ba phái lúc này đều đang muốn mượn sức Chỉ huy sứ.”

Bùi Thận suy nghĩ một lát, “Nhìn như đã loạn, nhưng thực ra cần chờ xem ý Bệ hạ ra sao.”

Ai cũng tranh giành nhau, nhưng Hoàng đế còn chưa chết đâu.

“Đây chính là điểm mấu chốt.” Đàm Anh buồn bực, “Bệ hạ tỉnh lại một lần, cho lui hết mọi người, chỉ chịu gặp Uyển Quý phi, cũng không biết đã nói những gì.”

Sắc mặt Bùi Thận bỗng chốc trở nên khó coi. Đàm Anh không khỏi thở dài: “Vị Bệ hạ này của chúng ta, trước giờ làm việc rất là tùy hứng. Việc nước điêu tàn không bận lòng, chuyện dân không hỏi, chỉ lo quỷ thần.” (1)

Bùi Thận sầm mặt: “Ngươi bảo Chỉ huy sứ chuẩn bị sẵn sàng đi. E rằng người lên ngôi sau rốt sẽ là đứa bé mà Uyển Quý phi chọn.”

Đàm Anh chua chát: “Thật sự không còn cách nào khác sao?”

Bùi Thận lắc đầu: “Ai cũng vì cái lợi của mình. Đối với Bệ hạ, dù là lập con của Ích vương hay con của Kinh Vương, cũng đều là con của anh em thôi, sẽ không xem ngài là cha ruột. Sợ chuyện xưa sẽ lặp lại lần nữa.”


Năm đó Hiếu Tông Đế không con, mới chọn con trai của em ruột mình là Hoài Dương Vương lên kế vị. Ngờ đâu người này đăng cơ xong vẫn một mực xem phụ thân mình là Hoài Dương Vương chứ không phải Hiếu Tông Đế.

“Bệ hạ sợ hãi chuyện xưa tái diễn, so với đưa ngôi vị hoàng đế cho một đứa cháu họ hàng xa, chi bằng đưa cho con trai mình, dù là con trai giả cũng được.” Bùi Thận lại nói: “Huống hồ Bệ hạ sinh bệnh hoa mắt ù tai, nhưng cực kì tín nhiệm Uyển Quý phi, chưa biết chừng thật sự cho rằng đó là con ruột của mình.”

Đàm Anh hết cách: “Đứa bé mới sáu tháng lên ngôi vua, lại thêm huyết thống có vấn đề, quốc triều lần này chắc chắn phải chịu rung chuyển.” Hễ ai đã sẵn có những tư tưởng phản nghịch, mượn cớ này đều sẽ phản cả mất thôi.

Bùi Thận nhẹ gật đầu, thầm nghĩ việc đến nước này còn có thể làm được gì.

“Vua nào tôi nấy, Chỉ huy sứ hãy chuẩn bị thoát thân sớm, nhân đó tiến cử em trai của Uyển Quý phi là Lâm Thông, ít ra còn có thể tặng phe này một ơn huệ cuối cùng.” Bùi Thận dặn dò.

Đàm Anh chán nản cười khổ. Đây chính là nỗi buồn của Cẩm Y Vệ và Đông Xưởng. Họ dựa vào sự tin tưởng của đế vương mà có được quyền thế lẫy lừng. Oái ăm thay, vua nào tôi nấy!

Tân hoàng đăng cơ, nhất định sẽ đổi Chỉ huy sứ của Cẩm Y Vệ thành tay chân thân tín của mình. Chỉ Huy sứ mới lên cũng sẽ đổi Trấn phủ sứ thành người của mình. Tầng tầng đổi xuống dưới, đến cả Đàm Anh cũng phải bị thay máu.

“Đại nhân, chẳng lẽ thật sự không còn cách nào nữa ư?” Vì tương lai của chính mình mai này, Đàm Anh hỏi lại lần cuối.

Bóng đêm thăm thẳm, Bùi Thận không đáp, thật lâu sau mới nói một câu: “Đợi ngày sau lại nói.”

…… Ngày sau.

Đàm Anh sốt ruột vô cùng, sao chờ được tới sau này. Hắn hạ giọng thấp hết sức có thể, khàn khàn như tiếng cú đêm vọng lại.

“Đại nhân, ngài chỉnh đốn quân lính biên cảnh phía Bắc còn để lại ba vạn lính tinh nhuệ, đều là những người thân tín lâu năm. Sau đó ngài đi Đông Nam luyện binh, danh ngạch có hai vạn người. Quốc Công gia ở Vân Quý trấn áp thổ ty làm phản đã sáu, bảy năm nay chưa về kinh, trong tay cũng có ba vạn lính tinh nhuệ. Cha con ngài hợp lại nắm giữ mười vạn binh, tính thêm bộ hạ cũ các đời phủ Quốc Công tích góp cũng bảy tám vạn người ở khu vực Kinh đô và các vùng lân cận, thêm mạng lưới tình báo của Cẩm Y vệ vào nữa. Cần gì phải——”

“Câm miệng.” Ánh mắt Bùi Thận bén như đao, “Những lời mê sảng này chớ có nhắc lại nữa.”

Đàm Anh bị quát, trống ngực đổ dồn, mặt mũi đỏ lên, hít thở sâu mấy lần mới ép xuống những suy nghĩ cuồng loạn trong bụng, thấp giọng nói: “Thuộc hạ lỡ lời.”

Thần bất mật tắc thất thân, sự bất mật tắc hại thành. Bùi Thận dù cho thực sự có suy nghĩ đó cũng tuyệt đối không lộ ra với ai cả, y lạnh lùng nói: “Đàm Anh, vết thương của ngươi chưa lành, đầu váng mắt hoa thế này, tốt hơn là nên về nghỉ đi.”

Đàm Anh thở dài, hạ giọng nói: “Câu này ta nói cũng không phải để dò xét đại nhân, mà quả thật là lời từ đáy lòng của Chỉ huy sứ và cả chúng ta nữa.

Nói rồi, hắn nghiêm giọng nói: “Cẩm Y Vệ là dây leo sống dựa vào Bệ hạ. Hiện nay cây đại thụ Bệ hạ sắp ngã, cây non mới mọc lại không để bọn ta tiếp tục leo lên. Cùng đường bí lối, bọn ta cũng chỉ đành cố gắng tìm lối khác mà thôi.”

Đêm dần sâu hơn, Đàm Anh khom người chắp tay thi lễ: “Mong Bùi đại nhân thận trọng suy xét.”

Bùi Thận trầm mặc thật lâu, ôn hòa đáp: “Đàm Anh đừng lo lắng quá. Thời gian còn dài, thế cuộc chưa chắc đến nông nỗi như thế, hãy bình tĩnh đợi ngày sau lại nói.”

Đây là lần thứ hai Bùi Thận nhắn tới ngày sau. Đàm Anh được nhắc nhở hai lần, dường như hơi ngộ ra điều gì. Đây là định tiếp tục quan sát xem thời thế sẽ phát triển theo hướng nào.

Hắn thở phào một hơi, tốt xấu coi như cũng có chút hy vọng. Hắn chắp tay cáo lui, ra khỏi cửa thư phòng, ẩn mình vào bóng đêm sâu thẳm.

Bùi Thận không nói một lời, ngồi yên lặng ở thư phòng hồi lâu, đoạn mới gọi Trần Tùng Mặc rọi đèn quay về phòng.

Vài ngày sau, đúng cuối tháng ba, tin Hoàng đế băng hà truyền tới. Thẩm Lan sững sờ, bảo nha hoàn trong phủ tháo những đồ trang trí màu sáng xuống, chuyển tất cả thành màu nhạt.

“Sao đột ngột vậy chứ?” Thẩm Lan ngạc nhiên nói: “Bệ hạ không con, vậy ai lên kế vị?”

Bùi Thận ăn tối, thong thả ung dung đáp: “Bệ hạ đâu phải không con. Vẫn còn một đứa bé sót lại trong hậu cung đấy thôi.”

Kinh đô giành giật không thôi. Uyển Quý phi có Bệ hạ chống lưng, cuối cùng vẫn hơn một nước cờ, mạnh mẽ nâng đứa bé sáu tháng lên ngôi, đổi niên hiệu thành Duyên Hưng.

Thẩm Lan kinh ngạc, trước khi chết mới lòi ra đứa bé này, chẳng lẽ vấn đề huyết thống không ai nghi ngờ sao?

Nàng vừa suy tư, vừa hỏi: “Quốc tang trăm ngày, vậy ta còn có thể đi xem đua thuyền rồng tết Đoan Ngọ không?”

Bùi Thận ngẩn ra, cười nói: “Đất nước có quốc tang, theo lý thì thành hôn, tang ma, gả cưới đều không được phép. Làm gì mà còn có hội thuyền rồng?”

Thẩm Lan cười cợt: “Ngài chớ gạt gẫm ta. Đừng nói trời cao hoàng đế xa, quan lại Kinh thành ai ăn no rửng mỡ chạy đi quản lý dân chúng ở Đông Nam năm nay có ăn mừng tết Đoan Ngọ hay không. Lại nói nếu bá tánh tổ chức tự phát, chẳng lẽ quan phủ định bắt hết từ người giàu đến bình dân? Mà có khi sai dịch chịu trách nhiệm bắt người cũng bận đi xem đua thuyền rồng ấy chứ.”


Bùi Thận nhủ thầm nàng quả là gan to bằng trời, kiêu ngạo khó uốn nắn, y tiếc rẻ cười cười: “Bình dân áo vải tất nhiên có thể đi xem, chỉ có ta thì không tiện đi thôi.” Bùi Thận làm người cẩn thận, nhất định không chịu để lộ điểm yếu mình đi chơi bời giữa lúc quốc tang vào tay đối thủ.

Nghe y nói không đi, Thẩm Lan cố nén niềm hân hoan, tỏ ra bình tĩnh nói: “Ngài không đi thì thôi, ta tự đi.”

Nàng còn chẳng buồn ra vẻ, mở miệng nói ngay có thể đi một mình, đúng là cái đồ vô tâm. Nghĩ vậy, Bùi Thận oán giận cầm cuốn sách gõ lên trán nàng, mắng nàng một câu vô tâm.

Tâm trạng Thẩm Lan vô cùng thư thái, đếm tới đếm lui, cuối cùng cũng chờ được tới tết Đoan Ngọ.

Mùng năm tháng năm, xương bồ thiết ngọc, giác thử đôi kim. (2)

Vốn phải là cảnh tượng vô cùng náo nhiệt, nhưng nay đang giữa quốc tang, mọi người không dám cắm hoa lựu đỏ, cũng không thể dán giấy đuổi ngũ độc lên cửa, chỉ có thể treo ít ngải cứu ngoài hiên.

Sáng sớm, Thẩm Lan ăn bánh ú tro chấm đường, bánh trôi ngũ sắc mỗi màu một cái, lại uống một chén rượu hùng hoàng nhỏ.

Thẩm Lan ăn sáng xong, thay bộ váy áo màu nhạt bằng vải mịn. Tử Ngọc và Lục Nhụy gắn một chùm bánh ú tro trang trí lên vạt áo nàng, lại treo một con hổ làm từ ngải cứu lên cây trâm gỗ trên tóc nàng, lúc này mới theo nàng ra ngoài.

Bên ngoài có chiếc xe ngựa hai bánh phủ vải bố xanh chờ sẵn ở cửa nách, Bình Sơn cùng hai, ba thân vệ nữa đứng vây quanh.

Quốc tang đến nay đã qua một tháng. Tân hoàng gian nan đăng cơ. Nhưng đứa bé sáu tháng có thể nào xử lý việc nước? Kinh đô lúc này vẫn ầm ĩ không thôi. Thời điểm mấu chốt như thế này, tay chân đắc lực của Bùi Thận như Trần Tùng Mặc, Lâm Bỉnh Trung đâu có thời gian ngơi nghỉ, cho nên lần này mới phái Bình Sơn làm hộ vệ.

“Làm phiền Bình đại ca.” Thẩm Lan cười nói.

Bình Sơn làm người thật thà, nghe vậy chắp tay nói: “Ty chức không dám.” Nói rồi, hắn hô người đánh xe một tiếng, xe ngựa chậm rãi lắc lư lăn bánh qua con đường lát đá xanh.

Tử Ngọc, Lục Nhuỵ cũng theo hầu phía ngoài xe. Trong xe chỉ có mình Thẩm Lan ngồi.

Chốc lát sau, xe ngựa dừng lại. Thẩm Lan vén rèm lên nhìn, thấy quanh Tây Hồ thậm chí là cả vùng bốn đê ba đảo (3) đều là biển người tấp nập, ngựa xe dập dìu. Nơi nơi đều dựng mái che nắng, những người bán rong quang gánh khắp nơi. Còn có những rạp cao vây lại bằng vải vóc do giới quan lại nhà giàu dựng lên để ngắm cảnh. Phía trên mặt hồ phải đến trăm ngàn thuyền nhỏ, trên thuyền chen vai chật kín những người là người.

Thấy Thẩm Lan xuống xe, Bình Sơn chắp tay nói: “Bẩm phu nhân, thuộc hạ đã phái người hẹn chỗ rồi. Mời phu nhân đến lầu hai của Thanh Nhuận Trà Lâu để xem thuyền rồng.”

Thẩm Lan gật đầu: “Đi thôi.” Nói rồi, nàng dẫn đầu bước về phía trước.

Bình Sơn trước đó đã được Trần Tùng Mặc dặn riêng về thành tích vĩ đại trong quá khứ của vị phu nhân này. Hắn sợ nàng lại nảy ra ý gì, một mực chăm chú bám sát lấy nàng.

Đua thuyền rồng ở Tây Hồ mỗi năm, già trẻ nam nữ kéo tới vây xem nhiều không kể xiết. Thẩm Lan hào hứng đi tới, lôi hai nha hoàn chen vào đám đông.

Bình Sơn sốt ruột trong lòng, dẫn ba tên thân vệ nhanh chóng đuổi theo. Ai ngờ Thẩm Lan túm tay áo của Tử Ngọc, Lục Nhuỵ đi tuốt đằng xa, chui thẳng vào đám người.

Đám thân vệ lòng như lửa đốt, lớn tiếng hô “Phu nhân”, “Phu nhân —— đừng đi tới trước nữa.”

Ngặt nỗi dòng người cắt ngang, chen lấn xô đẩy, Bình Sơn không đuổi kịp Thẩm Lan, chỉ đành trợn to mắt dõi theo bóng nàng.

Mà Thẩm Lan vì đang quốc tang, ăn mặc chỉ là áo váy vải mịn tầm thường, rất khó bề phân biệt. Ngay cả chủ cũng ăn mặc nhạt nhòa, hai nha hoàn càng không cần phải nói.

Mới đi thêm một đoạn ngắn, chỉ một cái chớp mắt, Thẩm Lan cùng hai nha hoàn đã hoàn toàn lẩn vào dòng người không thấy tăm hơi nữa.

Bình Sơn như đứng trên đống lửa, vội phái ba thân vệ chia nhau ra tìm.

Còn Thẩm Lan lúc này đã sớm thả tay áo của hai nha hoàn ra, dạo bước lên đê Tô. Đứng trên đê Tô một lát, chợt có người kéo lấy cánh tay nàng. Thẩm Lan quay đầu nhìn, thấy người tới chính là Ngọc Dung.

Ngọc Dung dẫn Thẩm Lan bước lên thuyền của Bành tam.

Bành tam đánh cá kiếm tiền. Mỗi khi Tây Hồ tổ chức đua thuyền rồng, chỉ cần đón khách ra xem đua thuyền đã được không ít, thêm chi nếu vớt được người ngã xuống nước cũng sẽ được hậu tạ rất nhiều bạc.

Một năm mới có dịp kiếm kha khá, Bành tam nhất định không dễ gì bỏ qua. Cho nên hôm ấy Thẩm Lan không kịp ôn chuyện cũ, chỉ hẹn gặp Ngọc Dung ở đê Tô Tây Hồ.


Lên thuyền, Thẩm Lan nhìn về phía Bành tam đen gầy mà rắn chắc, bảo hắn chèo thuyền về hướng Thanh Nhuận Trà Lâu.

Thấy thuyền bắt đầu lướt đi, Thẩm Lan lập tức mở miệng: “Ngọc Dung, cô có thiếu tiền không?”

Ngọc Dung ngẩn ra một lúc lâu mới nhẹ vỗ về bụng, thở dài: “Gầm trời này có ai là không thiếu tiền đâu. Đánh cá, cài trâm thì được mấy đồng chứ? Nếu không thiếu tiền, Bành tam ca cũng không cần bươn chải tới tận Gia Hưng để tìm nơi tiêu thụ cá, cũng không cần hàng năm đi lướt thủy triều trên sông Tiền Đường với hy vọng lãnh thưởng.”

Thẩm Lan biết rõ Ngọc Dung cũng không phải kẻ khờ, nếu đã chịu tới gặp nàng, nhất định là có việc muốn nhờ. Có thể là xin một ơn huệ để tìm việc làm cho Bành tam, hoặc cũng có thể là muốn cậy nhờ quan hệ.

Thẩm Lan thấp giọng nói: “Thời gian gấp rút, ta nói ngắn gọn thế này.” Nàng ngừng một chút mới nói tiếp: “Ta muốn nhờ hai vị đưa ta rời khỏi Hàng Châu.”

Ngọc Dung kinh ngạc không thôi: “Tỷ, tỷ không phải, vì sao muốn bỏ đi……”

Thẩm Lan cười chua chát: “Cô đừng nghĩ ta sống thế này là tốt, cũng chỉ có tô vàng nạm ngọc bề ngoài mà thôi.” Nói rồi, nàng vén tay áo lên, trên cánh tay trắng muốt hiển hiện một mảng bầm xanh tím.

Ngọc Dung vừa ngạc nhiên vừa tức giận: “Tuần phủ đại nhân hắn ta đánh tỷ?”

Thẩm Lan sáng nay né khỏi nha hoàn, tự mình đập tay thật mạnh vào bàn gỗ ở nhà. Da dẻ nàng mềm mại, chỉ cần như vậy đã nổi lên vết sưng đỏ bầm.

Thẩm Lan chua xót nở nụ cười: “Ta cũng không ngại kể với cô. Nếu còn không mau trốn đi, e rằng ta chẳng sống được bao lâu nữa.” Nói rồi, nàng thả tay áo xuống, sợ Ngọc Dung muốn nhìn tiếp lên phần da thịt nguyên vẹn phía trên thì sẽ lộ ra sơ hở.

Ngọc Dung cắn môi, yên lặng không đáp.

Thẩm Lan biết Ngọc Dung tuy có phần biết ơn nàng, nhưng cũng không phải hạng quả cảm nghĩa khí gì. Ngược lại, nàng này có phần khôn lanh lõi đời, có lẽ sẽ e sợ quyền thế của Tuần phủ mà không dám đưa Thẩm Lan trốn đi.

Thấy Ngọc Dung chần chừ, dường như muốn mở miệng từ chối, Thẩm Lan thì thầm nói: “Ta thấy cô vỗ về bụng, là có thai rồi sao?”

Ngọc Dung sững ra, nhẹ gật đầu.

Thẩm Lan hỏi một câu, lại không tiếp tục nhắc đến đứa bé nữa, chỉ bình tĩnh nói: “Nếu xong việc, ta giao cô ba trăm lượng ngân phiếu.”

Hơi thở của Ngọc Dung trở nên dồn dập hơn. Ngay cả Bành tam nãy giờ lẳng lặng chèo thuyền, bây giờ cũng hơi ngừng lại.

Ba trăm lượng bạc lấy ra mua đất, cũng đủ mua được bốn năm chục mẫu đất canh tác loại tốt nhất. Nàng không cần tiếp tục bôn ba làm nghề cài trâm, tam ca cũng không cần liều mạng đánh cá nữa. Con cái của hai người có thể đi học, sau này thi đậu cử nhân, ra làm quan lớn.

Mặt Ngọc Dung đỏ rần, Bành tam cũng đứng yên bất động.

Thẩm Lan hạ giọng: “Bây giờ cô chưa trả lời ngay cũng không sao cả. Chỗ ta có năm lượng bạc, cô cầm lấy đi. Nếu cô bằng lòng, hãy cầm chỗ bạc này tới hối lộ chưởng quầy của cửa hàng bạc nhà Lý Bảo Châu. Nói rằng cô muốn lui tới cửa hàng thường xuyên để dễ dàng làm quen với khách khứa quý nhân, tiện hành nghề thợ cài trâm. Khi nào cô dàn xếp xong chuyện ở bên đó, ít lâu sau ta sẽ tới cửa hàng bạc tìm cô.”

Đây là hợp tác hai bên cùng có lợi. Ngọc Dung trang điểm cho khách bằng trang sức của cửa hàng bạc. Nếu làm đẹp, khách hài lòng, cửa hàng bán được trang sức, Ngọc Dung cũng được tiền thưởng cho việc cài trâm.

Nghe vậy, Ngọc Dung quả thực hơi rục rịch.

Thẩm Lan lại cố ý nắm chặt năm lượng bạc, thấp giọng thì thầm: “Nếu cô không muốn cứu mạng ta, đây coi như phí bịt miệng. Từ nay về sau, ba trăm lượng kia coi như không có duyên với cô cùng đứa bé này.”

Đáy lòng Ngọc Dung khẽ run lên, nhận lấy năm lượng bạc, vẻ mặt trù trừ.

Thẩm Lan không nhìn nàng thêm nữa, mở miệng nói: “Ngừng thuyền đi.”

Bành tam chọn một nơi hơi xa Thanh Nhuận Trà Lâu rồi thả Thẩm Lan xuống.

Thẩm Lan vừa lên bờ, nhanh chóng định bước vào quán trà. Ngờ đâu chưa đi được mấy bước, chợt nghe phía sau có người gọi nàng.

“Vương Lãm.”

Thẩm Lan ngạc nhiên quay đầu lại, trông thấy Dương Duy Học mặc áo trực chuyết, buồn bã nhìn nàng.

Thật lâu sau, Thẩm Lan mới mở miệng, tiếng nói hơi chát: “Sao huynh lại ở đây?”

Dương Duy Học cười khổ một tiếng, dắt Thẩm Lan tới một chỗ yên tĩnh, rồi mới từ từ kể ra: “Ngày ấy ta đi tìm cô. Phu quân cô câu nào cũng hô nội tử, lúc ấy ta cũng bị y làm cho rối rắm quay mòng. Nhưng hồi sau về nhà mới thấy không đúng lắm.” Vợ chồng ai cãi nhau mà đến nỗi thê tử chạy xa cả ngàn dặm?

“Ta sợ cô bị người ta lừa bắt đi nên hôm sau khiến gã hầu tới hỏi thăm xem sao. Dè đâu gã hầu nhà ta bị một đám đàn ông lực lưỡng cảnh cáo. Mấy hôm sau, gian nhà cô ở cũng thành vườn không nhà trống.”

Thấy Thẩm Lan cười buồn, Dương Duy Học cũng thở dài: “Nhà ta ở Tô Châu là gia tộc lớn. Quản sự trong nhà quen với bách hộ Cẩm Y Vệ Tô Châu là La Bình Chí, bèn hối lộ tiểu kỳ dưới trướng hắn, khi đó ta mới hay tin trong kinh thành có nhân vật tai to mặt lớn tới. Nhưng vẫn chưa hay danh tính là ai.”

“Ta mới lòng vòng tìm tới tình nhân của La Bình Chí, hối lộ ít tiền để nàng kia tìm hiểu tin tức. La Bình Chí miệng kín như bưng, mãi đến hai tháng sau, nhân lúc say rượu mới lộ ra ba chữ Bùi đại nhân.”

“Cả triều văn võ, người họ Bùi, tuổi tác ước chừng hai mươi mấy, khí độ cao quý cũng chỉ có Thế tử của phủ Ngụy Quốc Công mà thôi. Dù đã gặp mặt y, nhưng hôm ấy trời tối đen, ta nhìn không quá rõ, cho nên lờ mờ vẽ lại bức họa người ấy cầm đi hỏi người lớn trong nhà xem có giống Ngụy Quốc Công Thế tử không. Khi ấy có người thúc phụ trước làm quan trong kinh thành đã về hưu từng gặp y một lần. Đến đây ta mới chính thức xác nhận người nọ là Bùi Thủ Tuân.”


Nghe hắn hối hả bôn ba đến vậy chỉ để tìm hiểu an nguy của nàng, Thẩm Lan tràn trề cảm động không thể nói thành lời, nàng cúi người hành lễ: “Có thể làm bạn cùng Dương huynh, quả thực là phước phận ba đời ta tu được.”

Dương Duy Học lại thở dài: “Biết y là Bùi Thận, hay tin y tới Hàng Châu nhậm chức, ta mượn cớ du ngoạn Tây Hồ, ngắm thuyền rồng ngày Đoan Ngọ để tới gặp cô một lần. Thanh Nhuận Trà Lâu là nơi xem đua thuyền nổi tiếng của giới quan lại quý tộc, ta liền tới đây rảo quanh thử vận may.” Nói rồi, hắn bật cười: “Xem ra, vận may của ta đúng là không tệ lắm.”

Khóe mắt Thẩm Lan ửng đỏ, chân thành nói: “Bèo nước gặp nhau mà thôi, Dương huynh lại lo lắng an nguy của ta đến vậy, quả thực không hổ là người quân tử.”

Nghe nàng khen mình, Dương Duy Học vậy mà thấy hơi ngại ngùng. Tuổi trẻ nhiệt tình, nếu nói trong này không lẫn mấy phần tình riêng, đó là nói dối. Mà hiện giờ thấy nàng chải búi tóc của thiếu phụ đã có chồng, lòng hắn không ngăn được niềm chua xót.

Dương Duy Học gác xuống muôn ngàn suy tư, quan tâm nói: “Cô bây giờ sống có tốt không?”

Trước nay chỉ có Thẩm Lan hỏi người khác sống thế nào, giờ đây chợt có người đến hỏi mình sống ra sao, chóp mũi Thẩm Lan cay xè, hạ giọng nói: “Dương huynh, hôm nay thời gian ta có ít ỏi, cần nhanh chóng tới Thanh Nhuận Trà Lâu, không kịp ôn chuyện. Mong Dương huynh bỏ quá cho.”

Dương Duy Học vốn là người hào sảng, nghe vậy cũng không ngại, chỉ thấp giọng nói: “Nếu cô cần tìm ta, hãy tới cửa hàng tơ lụa Sử gia ở phố Mã Tiền ngoài Bắc Quan, đó là do một lão bộc lâu năm nhà ta sau khi chuộc thân thì ra mở tiệm.”

Thẩm Lan gật gật đầu, thu lại nỗi lòng, chắp tay thi lễ rồi xoay người rời đi.

Dương Duy Học ngẩn ngơ dõi theo bóng nàng, lặng lẽ buông một tiếng thở dài.

Thẩm Lan vào quán trà, người hầu trà liền chạy ra đón. Thẩm Lan nhanh chóng lấy túi tiền đưa cho người hầu trà: “Ta mới để lạc mất hộ vệ đi cùng, đành phải tới đây trước, dắt ta lên lầu hai đi.”

Người hầu trà được tiền thưởng, lần mò thấy bên trong có bạc vụn, cười khanh khách nói: “Mời phu nhân ngồi.”

Thẩm Lan thấy hắn nhận tiền thưởng, khẽ thở phào, nếu vậy có thể đổ là tiền bạc trên người nàng đều đã đem thưởng hết cho gã hầu trà. Dù sao cũng chẳng ai bận tâm người hầu trà được thưởng bao nhiêu bạc.

Thẩm Lan bình tĩnh lên lầu, trông thấy tên hộ vệ đứng gác ngoài cửa một phòng chữ “Lan” rõ là thân vệ của Bùi Thận mà nàng từng gặp – Bình Nghiệp.

“Phu nhân.” Bình Nghiệp ngạc nhiên, vò đầu bứt tai nói: “Ca ca của ty chức đâu? Sao không tới cùng phu nhân?”

Thẩm Lan chán chường đáp: “Người đi đường quá nhiều, ta lạc cả đám hộ vệ và bọn nha hoàn rồi.”

Bình Nghiệp không biết nói gì hơn, đành đón Thẩm Lan vào phòng, rồi ra cửa đứng gác.

Thẩm Lan vào được tới phòng mới dám nhẹ nhàng thở phào, may mà tới nơi trước bọn hộ vệ.

Nàng cầm chén sứ rót miếng trà Vạn Xuân Bạc Diệp, rồi cầm chén trà thong thả mở cửa sổ ngắm cảnh đua thuyền rồng.

Trên mấy chiếc thuyền rồng, đầu rồng bằng gỗ sơn màu ngẩng lên, đuôi rồng thẳng tắp, hai bên trái phải ba mươi người đàn ông vạm vỡ cầm mái chèo. Trước sau mỗi thuyền có hai cái trống lớn bằng da bò, liên tục bị gõ vang ầm ầm.

Hai bờ sông ùng ục như nước sôi, tiếng người ồn ào náo động rung trời, cổ vũ gào thét không ngớt. Chỉ có những chiếc thuyền rồng lao vút lên như mũi tên rời cung, băng băng xông thẳng về phía trước.

Thẩm Lan hết sức chăm chú xem trận đua, lát sau chợt nghe bên ngoài loáng thoáng tiếng ồn, nàng biết là Bình Sơn đã dẫn theo đám hộ vệ chạy tới.

Quả nhiên ngay sau đó cửa phòng bị mở ra, Thẩm Lan nghe tiếng nhìn lại, Bình Sơn thấy nàng yên ổn ngồi trong phòng mới thở phào một hơi, lau đi mồ hôi chảy dài trên trán: “Phu nhân sao đi nhanh đến vậy?”

Thẩm Lan nhún vai đáp: “Ta dẫn Tử Ngọc và Lục Nhuỵ đi được một đoạn, tự dưng quay lại chẳng thấy ai nữa. Ta không biết làm sao, nhớ lại ban nãy ngươi nhắc tới Thanh Nhuận Trà Lâu nên vội vã chạy tới đây tìm các ngươi.” Nói xong, nàng vội hỏi: “Đã tìm thấy Tử Ngọc và Lục Nhuỵ chưa?”

Bình Sơn gật đầu: “Bẩm tìm được rồi, gặp nhau trên đường tới quán trà.” Nói rồi, hắn lui ra, hai nha hoàn lảo đảo chạy vào phòng, tóc tai rũ rượi, mồ hôi đầm đìa, hai mắt cũng đỏ hồng trông như sắp khóc đến nơi.

Thẩm Lan áy náy: “Xin lỗi hai em, ta cứ đi tới đi tới nên bị dòng người xô đi mất.”

Hai nha hoàn quệt nước mắt, không dám trách nàng, đành phải thấp giọng nói: “Phu nhân, lần sau đừng vứt lại chúng nô tỳ nữa.”

Thẩm Lan nhẹ giọng an ủi một hồi, mới kêu các nàng tiếp tục cùng xem hội đua thuyền rồng.

Ủng hộ admin bằng 1 click vào đây: link mã giảm giá sàn S

Chú thích:

Phong tục ăn tết Đoan Ngọ của Việt Nam các bạn có thể đọc thêm trong cuốn Đất lề quê thói (sách viết về phong tục nếp sống, nếp sinh hoạt của người Việt từ thời cổ đại cho đến những năm 19xx)

Một số kiêng kỵ ngày tết Đoan Ngọ ở Việt Nam tham khảo tại đây

1 Câu cuối trong bài Giả Sinh của Lý Thương Ẩn. Bản dịch của Tạ Trung Hậu trang Thivien

2 xương bồ là lá bồ diệp dùng để xông nhà trừ tà ngày tết Đoan Ngọ. Giác thử là bánh chưng nhọn, tức là bánh ú tro ở Việt Nam. Hai cụm này kiểu như là một câu chúc may mắn ngày tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc nên mình giữ nguyên nhé.

3 bốn đê ba đảo: cảnh Tây Hồ Hàng Châu nổi tiếng với bố cục “Nhất sơn, nhị tháp, tam đảo, (tam) tứ đê, ngũ hồ”. Trong đó ba đảo gồm Tiểu Doanh Châu, Hồ Tâm Đình, Nguyễn Công Đôn, bốn đê gồm Cô Sơn, đê Bạch, đê Tô, đê Dương Công. Chi tiết tham khảo tại đây (tiếng trung). Mười thắng cảnh Tây Hồ xem tại đây (tiếng Việt)


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận