Tam Luân


Tháng năm tới, cái nắng gay gắt đổ xuống cánh rừng nơi Đằng Nguyên và ba huynh đệ ẩn nấp.

Cuộc truy quét của Bạch Đà quân đã dịu xuống, tiến sâu vào trong rừng.

Đằng Nguyên ẩn thân chạy tới các thôn trang xung quanh do thám hết lượt, chẳng thu được tin tức gì hữu ích vì thôn dân ở đâu cũng chỉ là những thành phần nắm tin tức sau cùng.

Trong khi Bạch Đà quân truy quét nô lệ, thôn dân bị cấm bén mảng vào rừng nên những điều bọn họ biết là nghe ngóng được rồi suy luận linh tinh…
Đằng Nguyên không cần những lời phỏng đoán, hắn thậm chí còn biết rõ về cuộc truy quét hơn.

Cái hắn cần là tin tức về các cánh quân Bạch Đà quân thì vùng này lại không phải điểm đóng quân của bất cứ cánh quân nào, dân địa phương không biết gì cả.
Du Hạo, Cẩm Bàng và Lộc Tử cũng loanh quanh đến thuộc cả sơn lâm, có thể dễ dàng tránh thoát sự truy lùng của Bạch Đà quân, không cần Đằng Nguyên quản.

Tuy nhiên nếu chỉ luẩn quẩn trong rừng, họ sẽ chẳng kiếm được tin tức gì có ích.

Cả bốn người Đằng Nguyên họp lại, thống nhất di chuyển.
Đằng Nguyên quyết định dẫn các huynh đệ đi về phía bắc, tìm những trấn lớn một chút để dò la.

Hắn trộm y phục của người Vạn Tư quốc cho các huynh đệ mặc, nhân lúc đêm tối dẫn người ra khỏi rừng, hướng phía bắc chạy cật lực.
Địa phận Huỳnh Tương mênh mông trống trải, sơn lâm ít, đất đai cằn cỗi, có những chỗ thôn làng rất thưa thớt, đi mấy ngày trời chỉ thấy toàn núi đá lởm chởm.

Có những nơi đất đai đỡ cằn cỗi, mấy làng nằm san sát nhau, cách không xa có một trấn nhỏ tập trung đông đúc, giao thương rầm rộ.
Khi tới những cụm làng gần trấn, Đằng Nguyên thường tìm hang động kín đáo nào đó cho đám Du Hạo trú tạm rồi ẩn thân lẻn vào trấn do thám.

Du Hạo, Cẩm Bàng và Lộc Tử là người trần mắt thịt, không thể qua mắt được binh lính gác cổng trấn.
Sau cả tháng do thám bốn trấn dọc đường đi, Đằng Nguyên nắm được một số điểm cốt lõi.
Trưởng trấn ở Vạn Tư quốc gọi là Tư quan; phủ đề nơi làm việc của Tư quan và các ti chức nhỏ trong trấn gọi là Tư Dụ; binh lính của chúng gọi là Bình binh.
Tất cả các trấn của thành Huỳnh Tương đều có Bình binh riêng, lũ này khi cần thiết sẽ bị xung vào Bạch Đà quân.
Mỗi khi thành Huỳnh Tương trưng binh, Tư Dụ sẽ phụ trách điểm tráng đinh trong các thôn, bắt tráng đinh theo độ tuổi mà Thành chủ Tôn Đức Khương ban bố riêng cho từng đợt.

Đặc biệt quân đội Vạn Tư quốc khác hoàn toàn so với quân đội Sa Lục Châu ở chỗ tòng quân là bắt buộc, không có chiến tranh vẫn đều đặn hàng năm trưng binh, chẳng qua số lượng không nhiều mà thôi.
Đằng Nguyên nấp hàng canh giờ bên ngoài các tửu lâu nghe ngóng về luật trưng binh, thất vọng tột cùng khi biết luật của Vạn Tư quốc vô cùng nghiêm ngặt.


Bọn chúng sẽ không xung quân những nô lệ đào tẩu bắt được trên đường.

Nô lệ kỵ binh mà Đằng Nguyên trông thấy là nô lệ người Vạn Tư quốc có hộ tịch rõ ràng, bị bán vào các thế gia võ tướng, đi theo chủ nhân chinh chiến lập công mới bò lên được lưng ngựa.

Nô lệ bắt ở nơi khác về không bao giờ mò được tới gần quân doanh của Bạch Đà quân.

Nếu bị chúng bắt, cùng lắm là giao cho Bình binh của trấn tống vào địa lao chờ ngày trả lại chủ cũ hoặc bán ra chợ nô lệ cho các chủ mới.
Đằng Nguyên mang thông tin về trao đổi lại với đám Du Hạo.

Bốn huynh ngồi quây bên đống lửa trước cửa sơn động vừa nướng đùi ngựa vừa nghị luận.

Du Hạo thở dài:
- Đây là trấn thứ tư rồi, chỗ nào cũng canh phòng nghiêm ngặt không thể trà trộn.

Quân doanh của chúng xây tường đá giới hạn từ mấy trăm dặm, chẳng nhìn thấy bóng kỵ binh chứ đừng nói xông tới gần.

Chẳng lẽ chúng ta cứ đi miết thế này sao?
- Đệ nghe ngóng thôn dân bàn tán về đợt trưng binh tháng tám, có kẻ muốn đưa nô lệ nhà mình đi thay nam đinh nhưng không được.

Chỉ những nhà võ tướng, quý tộc, quan lại mới cho phép nô lệ theo chủ tòng quân; thường dân không được mang theo.

– Cẩm Bàng vừa quay đùi ngựa vừa nói, sắc mặt bình thản hơn, kiên nhẫn hơn so với hồi tháng trước mới theo Đằng Nguyên.
Lộc Tử nhìn chằm chằm cái đùi ngựa vàng ươm đã sắp chín, nuốt nước miếng khiến Đằng Nguyên buồn cười.

— QUẢNG CÁO —
Hắn gật gù công nhận lời Cẩm Bàng:
- Đúng vậy.

Chúng ta có ấn ký nô lệ trên trán, không có hộ tịch, không qua được cửa trấn.

Muốn vào Bạch Đà quân chỉ có con đường bị bán vào nhà võ tướng, quý tộc, quan lại… hoặc xông ra chặn đường một thế gia công tử nào đó, cầu xin được nhặt về.

Nói xong, hắn lắc đầu thở dài.
Cách này rất khó thực hiện.
Thế gia công tử nhà quý tộc, nhà võ tướng, nhà quan… đâu có phải chó mèo chạy rông ngoài đường cho đám Đằng Nguyên muốn gặp là gặp.
Du Hạo cũng lắc đầu:
- Người Vạn Tư quốc rất độc ác, không có lòng trắc ẩn, đừng nói nhặt nô lệ bỏ trốn mang về nhà, có khi chúng chém đứt đầu tại chỗ hoặc lôi cổ tới địa lao luôn ấy chứ.
- Phải.

– Đằng Nguyên lục túi da lớn trộm được của thôn dân Vạn Tư quốc mà hắn vẫn mang theo đựng đồ, lấy ra một hà bao đựng bạc, đổ xuống đất.
Lộc Tử đã tò mò lắm rồi, không thể chịu được nữa, mắt sáng rực hỏi chuyện:
- Đằng huynh, đùi ngựa ở đâu? Còn có bạc nữa…
- Cướp đấy.

– Đằng Nguyên nhếch mép cười.

– Hồi nãy quay về ta gặp một tên kỵ binh Bạch Đà quân phi ngựa ra khỏi trấn, mang thư truyền tin nên chặn cướp, cắt một đùi ngựa, lấy hết tư trang.

Cũng chẳng có gì… chỉ có bạc, một cuộn thư viết bằng chữ Vạn Tư quốc chả đọc nổi, dao găm.

Mấy thứ khác ta vứt hết rồi.
Ba huynh đệ sửng sốt tròn mắt:
- Cướp của kỵ binh Bạch Đà quân?
— QUẢNG CÁO —
- Huynh giết cả người lẫn ngựa à?
Đằng Nguyên gật đầu, nhìn một lượt ba tên ngáo ngơ:
- Chứ gì.

Kỵ binh đi một mình trên đường vắng, không giết thật phí.

Đúng lúc chúng ta cần thịt để bồi bổ… Ta làm giống như một vụ giết người cướp bạc, còn phi tang xác, chắc chắn không lộ.


Sợ cái gì?
- Không sợ.

Chỉ bất ngờ.

– Du Hạo toét miệng cười.
Đằng Nguyên chia bạc làm bốn phần:
- Mỗi người một phần đi.

Giữ lấy, biết đâu có lúc dùng đến.
Hiện tại họ mặc y phục vải dệt, đội mũ vải của thường dân Vạn Tư quốc nhưng ấn ký nô lệ vẫn không thể che đi được, tóc cũng chưa dài ra.

Hơn nữa Đằng Nguyên và Du Hạo bắt chước khẩu âm của người Vạn Tư quốc rất giống nhưng Cẩm Bàng và Lộc Tử thì không tài nào bắt chước nổi.

Hai tên này chỉ cần mở miệng ra lập tức bị phát giác là nô lệ Sa Lục Châu, đi đâu mà dùng đến bạc?
Thôn làng họ không dám vào vì người làng chẳng mấy hộ có nô lệ, vừa thò mặt lập tức bị để ý ngay.

Các trấn càng không thể vào vì không có hộ tịch của nô lệ, đám Bình binh chặn xét ở cổng, chịu chết.

Có giữ bạc cũng chẳng biết dùng vào việc gì.

Tuy nhiên Đằng Nguyên đưa thì họ vẫn cứ cầm bỏ túi.
Cẩm Bàng cẩn thận cất bạc xong, ngẩng đầu hỏi Đằng Nguyên:
- Huynh luôn chuẩn bị tinh thần để tách khỏi bọn ta hả?
Câu hỏi khiến Lộc Tử và Du Hạo căng thẳng ngồi nghiêm chỉnh nhìn chằm chằm Đằng Nguyên.
Hắn đưa con dao găm cho Du Hạo, nhìn Cẩm Bàng với ánh mắt lấp lánh thích thú:
- Đệ rất thông minh… Ta không chuẩn bị tách khỏi ba đệ mà chuẩn bị cho các đệ tách khỏi ta.

Hiện tại ai cũng có thể tự ra ngoài do thám, an toàn trở về, còn trộm được nhiều thứ có ích, không cần ta phải bao bọc như hồi mới bỏ chạy.

Nam tử hán đầu đội trời chân đạp đất, thả ra ngoài phải dựa vào bản lĩnh chính mình, đâu thể trông chờ vào kẻ khác.

Cẩm Bàng, đệ thông minh hơn người, ta không tin đệ không có cách báo thù.

Du Hạo, đệ còn nhỏ tuổi đã một thân bản lĩnh, biết địch biết ta, tiền đồ vô lượng.
Hắn ngừng một chút, nhìn sang Lộc Tử: — QUẢNG CÁO —
- Chỉ có đệ là vẫn nên theo sát ta một chút… Bốn nô lệ dồn vào một chỗ rất dễ gây chú ý nhưng một nô lệ bỏ trốn từ đâu đó tới chẳng thể khiến đám Bình binh xuống tay sát hại.


Cùng lắm chúng bắt được cũng chỉ tống ra chợ nô lệ, bán đi mà thôi… Có hiểu không?
Cẩm Bàng và Du Hạo dù lo lắng, buồn bực nhưng vẫn gật đầu.
Dồn vào một chỗ thì dễ chết, tách ra đi lẻ mới sống lâu mà mưu đại sự được.
Lộc Tử bị đánh giá thấp, gân cổ cãi:
- Huynh coi thường ta? Ta cũng có chút bản lĩnh, không đến nỗi cần huynh che chở chứ…
- Ha ha… - Đằng Nguyên chồm tới vò đầu Lộc Tử.

– Không mở miệng nói chuyện thì đỡ lo.

Đệ vừa a lên một tiếng người ta đã biết đệ từ Sa Lục Châu tới…
- Vậy khỏi mở miệng là xong.

– Lộc Tử hừ lạnh, có vẻ thực sự bực tức vì bị đánh giá thấp hơn hai tên còn lại.
Đằng Nguyên không để ý nhiều, nhìn chằm chằm đống lửa.
Đi cả đám không thể tìm được đường vào Bạch Đà quân thì phải tách ra đi riêng.

Mà khi đã tách là mạo hiểm tính mạng, lao ra ngoài cho Bình binh hoặc kẻ nào đó bắt được.

Tóm lại chính Đằng Nguyên cũng không biết làm thế nào để bị bán vào nhà quan lại, quý tộc.

Nếu mình hắn độc bộ độc hành, bế tắc quá hắn cứ chặn giết cả đám kỵ binh Bạch Đà quân giữa đường cho đỡ buồn, từ từ tìm biện pháp.
Hoặc hắn có thể ẩn thân lẻn vào thành Huỳnh Tương tìm cách ám sát Tôn Đức Khương và Hàm Tang, không cần nhảy vào Bạch Đà quân làm gì mất công.
Những chuyện đó nếu muốn thực hiện Đằng Nguyên phải đi một mình.

Hắn không muốn làm liên luỵ đến Du Hạo, Cẩm Bàng và Lộc Tử.
Hắn đã ngồi hàng canh giờ trong các trấn, nhìn đám nô lệ Vạn Tư quốc làm việc.

Bất kể nô lệ đó đến từ đâu, làm việc cho chủ nhân ác độc như thế nào thì công việc và đòn roi cũng chẳng ăn thua gì so với lao động khổ sai ở mỏ Dạ Cổ.

Chủ nô trong các trấn không đánh nô lệ tróc một tầng da thịt, chỉ vụt mấy cái thị uy; không bắt khiêng đá trên vách núi cheo leo vừa nặng nề vừa nguy hiểm, việc đồng áng, khuân vác chẳng nặng nhọc bằng.

Chúng sẽ cho nô lệ ăn lấy sức, không phải kiểu ăn cầm hơi rồi chết dần chết mòn vì kiệt quệ như đám cai nô đã làm.

Cho nên dù đám Du Hạo có bị bắt, bị bán vào trấn nào đi nữa cũng chẳng thể chết nổi, còn có cơ hội tiếp cận nhà quý tộc cao hơn việc cứ chui rúc trong hang đá, lẩn trốn từ ngày này sang tháng nọ như hiện tại..


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận