01.
Tô Mạch Diệp Tô nhị hoàng tử cả đời phong lưu, mặc dù bị tổn thương về tình cảm với A Lan Nhược nhưng cũng vẫn tổn thương một cách có tình thái và phong độ riêng khiến người ta thương cảm, cũng khiến không ít người trọng tình cảm khen chàng là một vị công tử hiếm có.
Tô Mạch Diệp luôn tự cho rằng trong chuyện tình cảm với A Lan Nhược, một người qua đường như mình có thể coi là một người khổ vì tình, nhưng sau khi nhìn qua gương Diệu Hoa, mới biết rằng nếu nói đến mấy chữ khổ vì tình, nhân vật chính Trầm Diệp kia còn đau khổ hơn chàng rất nhiều, hơn nữa, một vài vết thương tình cảm trên người Trầm Diệp lại là do một người qua đường như chàng gây nên, chuyện này, dù thế nào chàng cũng chưa từng ngờ tới.
Nhưng dù sao đây là một kết quả.
Chàng đã tìm hiểu về chuyện này trong suốt hơn hai trăm năm, chẳng qua là muốn tìm một kết quả, mà chân tướng của việc này hóa ra lại là như vậy, tình yêu và sự căm hận của chàng nhất thời dường như đều không có nơi để gửi gắm, nhưng chung quy lại, đây vẫn là một kết quả.
Mạch thiếu gia tự khiêm tốn nhận mình mắt mù tai điếc, những chuyện chàng chưa từng ngờ tới: một là mối quan hệ giữa Trầm Diệp và A Lan Nhược, hai là chân tướng của việc Trầm Diệp tạo ra giấc mộng của A Lan Nhược, hai chuyện này đã đủ khiến chàng kinh ngạc, mà khi chuyện thứ ba mà chàng chưa từng ngờ tới được phơi bày ra trước mắt, hai chữ kinh ngạc sao có thể đủ để diễn tả tâm trạng của chàng.
Chuyện thứ ba không có liên quan gì tới Mạch thiếu gia, nhưng lại có mối quan hệ vô cùng lớn tới Đế Quân lão nhân gia.
Lúc đó trong gương Diệu Hoa đang tái hiện đến cảnh Trầm Diệp vung kiếm chém ba mùa trong Phạn Âm Cốc, dồn hết tu vi để tạo ra giấc mộng của A Lan Nhược dưới sự hướng dẫn của Tức Trạch.
Tô nhị hoàng tử vì nhất thời ngứa tay, một bàn tay vẫn chạm vào khung gương, buộc phải chìm chìm nổi nổi trong tâm tư tình cảm của Trầm Diệp.
Trong lúc mơ màng, nghe thấy Đế Quân lão nhân gia chậm rãi nói ngay bên cạnh: “Ngươi quay trở lại để ta xem xem.”
Tô nhị hoàng tử mặc dù bị cuộc đời của Trầm Diệp ở trong gương dẫn dắt, nhưng quả thực cũng không biết làm cách nào để đảo ngược chúng lại, Đế Quân dường như cũng nhớ ra điều này, chỉ là ngài đã quen sai khiến người khác rồi, nhìn bộ dạng vô dụng của chàng, trầm ngâm suy tư trong giây lát, cầm cây bút lên vẽ vài nét gì đó, ném vào trong gương, mặt gương giống như làn nước mùa xuân khẽ gợn sóng, từng gợn sóng nhỏ từ từ lan tỏa.
Hình ảnh trong gương dần dần tan biến trong gợn sóng, bàn tay phải bị hút chặt vào khung gương của Tô Mạch Diệp bỗng được giải thoát, khi lại ngẩng đầu lên nhìn vào trong gương, gợn sóng đã trở lại bình lặng, hình ảnh hiện lên trên mặt gương lại là mây lành, tiếng tiên hạc du dương trên Cửu Trùng Thiên.
Tô Mạch Diệp nghi hoặc nói: “Đây là…”.
Đế Quân chống cằm chăm chú nhìn mặt gương, lạnh nhạt nói: “Ba trăm năm trước”.
Tô Mạch Diệp đưa mắt liếc nhìn đình đài lầu gác quen thuộc trong gương, càng thêm nghi hoặc, nói: “Nếu đã quay trở lại thời điểm ba trăm năm trước trong cuộc đời của Trầm Diệp, trên mặt gương sao lại hiện lên cảnh ở Cửu Trùng Thiên?”.
Đế Quân trầm ngâm xoay chiếc chén bằng sứ trên tay: “Nếu ta đoán không nhầm…”, mới nói được một nửa, lại yên lặng.
Đế Quân không hay trầm ngâm, càng không hay muốn nói rồi lại thôi.
Bởi vì trầm ngâm và điệu bộ muốn nói rồi lại thôi đều thể hiện sự không chắc chắn.
Đế Quân hiếm khi không chắc chắn điều gì.
Tô Mạch Diệp thầm cảm thấy kinh ngạc, lại nhìn tiếp vào trong gương, thấy đám mây lành từ từ tách ra, một căn phòng hiện lên trong gương Diệu Hoa, bốn chiếc cột chống, xà ngang được dựng rất cao, điều đó chứng tỏ căn phòng rất rộng lớn.
Nhưng bên trong căn phòng rất rộng lớn ấy không hề có thứ gì khác ngoài một chiếc giường mây lớn vô cùng bắt mắt, hình ảnh trên giường mây mờ mờ ảo ảo, dường như có một bóng người đang nằm.
Khi hình ảnh trong gương được kéo gần lại một chút, Tô Mạch Diệp toát mồ hôi lạnh, vị thần quân áo tím tóc trắng đang nằm trên giường mây kia không phải là Đông Hoa Đế Quân thì còn là ai nữa? Liếc mắt nhìn về phía vị Đế Quân bằng xương bằng thịt đang ngồi bên cạnh mình, thấy ngài vẫn đang lơ đãng xoay chiếc chén sứ trên tay, thần sắc khi nhìn mặt gương có một vẻ trầm tĩnh dường như đã dự liệu được mọi việc.
Một lát sau, phía trước giường đã có động tĩnh.
Một tiên quan trẻ tuổi xiêm áo chỉnh tề lại gần giường mây, nghiêm trang thay bình hoa trang trí ở đầu giường, nghiêm trang đốt một lò hương phía trước tấm bình phong, lại nghiêm trang dém chăn cho Đế Quân say ngủ.
Vừa kéo góc chăn cho ngay ngắn xong, một vị lão tiên bá đã có tuổi bước vào phòng.
Vì tiên quan trẻ tuổi và lão tiên bá kia đều mặc thường phục, không thể nhận ra phẩm cấp của hai người, nhưng vị lão tiên bá râu tóc bạc phơ kia nhìn thấy tiên quan trẻ tuổi lại hành lễ rất tôn kính, nói: “Trọng Lâm tiên quân triệu già này gấp gáp như vậy, không biết là vì chuyện gì”.
Trọng Lâm, cái tên này Tô Mạch Diệp đã từng nghe nói tới, nghe đồn sau khi Đế Quân thoái ẩn về ở cung Thái Thần, đã chọn vị tiên giả này làm tiên sứ quản lý trong cung.
Trọng Lâm tiên quan chính là nô bộc trung thành bậc nhất dưới trướng của Đế Quân, nổi danh khắp bát hoang có tính thận trọng lo xa, mấy vạn năm qua luôn là một tấm gương để chư vị tiên sứ trên Cửu Trùng Thiên noi theo.
Khuôn mặt nghiêm nghị của Trọng Lâm tiên quan đầy vẻ lo lắng, đắn đo nói: “Lần này mời Vân Trang tiên bá đến chính là vì một chuyện vô cùng quan trọng.
Đế Quân vì điều phục Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh nên ngủ say, ta và ông đều biết lão nhân gia đã ra lệnh cấm, việc này không được làm kinh động tới người ở ngoài cung, tránh để lục giới xảy ra hỗn loạn.
Mấy ngày trước may mà có tiên bá giúp đỡ, sửa lại sổ mệnh cách người phàm trần của Ti Mệnh Tinh Quân nên mới che giấu được chúng tiên, vờ như Đế Quân có hứng thú với sinh, lão, bệnh, tử, oán hận mà phải gặp gỡ, yêu mà phải biệt ly, cầu mà không được, ngũ ấm xí thạnh[1] tám nỗi thống khổ trong cuộc đời người phàm trần, đã chuyển kiếp để chiêm nghiệm rồi.
Đế Quân ngài chìm vào giấc ngủ quá vội vàng, mặc dù không để lại lời dặn dò gì khác, nhưng gần đây có một ý nghĩ lại khiến ta vô cùng bất an”.
[1] Ngũ ấm xí thạnh khổ: Là sự khổ về năm ấm hưng thịnh.
Ngũ ấm này hợp lại tạo nên thân con người, nếu không điều hòa với nhau, ấm nào thịnh quá thì phát sinh khổ não.
Lại nữa, Ngũ ấm tạo nên thân con người mà thân con người phải trải qua quá trình sinh, lão, bệnh, tử đương nhiên luôn phải chịu nhiều khổ não.
Ngũ ấm thạnh khổ này bao quát bảy loại khổ trước: THN thì sinh, lão, bệnh, tử, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; TM thì buồn, giận, lo, thương, trăm điều phiền lụy.
Vân Trang tiên bá bước gần thêm một bước: “Xin hỏi có điều gì khiến tiên quân bất an?”.
Không hổ danh là thần tử trong cung Thái Thần, không hề bị nhiễm tính ăn nói làm việc vòng vo trên Cửu Trùng Thiên, luôn nói thẳng vào vấn đề chính.
Trọng Lâm thở dài, nói: “Đế Quân mặc dù đã điều phục được Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh, khóa chặt được Diểu Lạc, nhưng nếu biết Đế Quân vì thế mà đã say ngủ, cho dù Diểu Lạc đã bị nhốt, ta vẫn lo rằng liệu ả có gây ra sóng gió gì đó không.
Để đảm bảo rằng Diểu Lạc sẽ không gây ra tai họa gì trong một trăm năm Đế Quân say ngủ, ta đã suy nghĩ rất nhiều, mấy ngày gần đây đã nghĩ ra một cách.
Tiên bá rất giỏi tạo hồn phách, nếu tiên bá có thể dùng một nửa cái bóng của Đế Quân để tạo ra một hồn phách đầu thai vào trong Phạn Âm Cốc… Đương nhiên, nếu hồn phách này được sinh ra, chàng ta chắc chắn sẽ không biết bản thân mình là cái bóng của Đế Quân, cũng không biết bản thân mình gánh trọng trách bảo vệ Tuệ Minh Cảnh, nhưng hồn phách đó dù sao cũng sẽ mang khí tức (mùi, hơi thở) của Đế Quân, chỉ cần chàng ta đầu thai vào trong Phạn Âm Cốc sẽ là một sự uy hiếp đối với Diểu Lạc.
Hơn nữa bộ tộc Tỷ Dực Điểu trong Phạn Âm Cốc tuổi thọ có hạn, một khi cơ thể hóa thành cát bụi, hồn phách được đầu thai kia đương nhiên sẽ lại hóa thành một nửa cái bóng của Đế Quân, đối với Đế Quân, việc này cũng không gây ra phiền toái về sau”.
Vân Trang tiên bá yên lặng hồi lâu, trầm ngâm nói: “Tiên quân suy nghĩ chuyện này thật chu đáo, lão ban nãy cũng đã nghĩ một lát, đây lại là cách duy nhất có thể thực hiện được.
Nhưng theo lão thấy, đợi sau khi lão tạo xong hồn phách đó, đưa vào trong Phạn Âm Cốc, tiên quân và lão lại đều cần phải uống nước vong trần để quên đi việc này.
Từ trước tới giờ tiên quân hành sự luôn rất cẩn trọng, chắc cũng tán đồng cách làm của lão, mặc dù nói hồn phách được đầu thai đó chỉ là vài phần hình bóng mỏng manh của Đế Quân, nhưng cũng là một phần của Đế Quân, nếu ngài và ta vô tình tiết lộ chuyện này, bị kẻ có dã tâm biết được, luyện hóa nuốt gọn linh hồn này, Đế Quân say ngủ cũng chính là lúc yếu ớt nhất, chắc chắn sẽ động tới tiên căn của người”.
Trọng Lâm gật đầu: “Điều này, tiên bá nói rất phải”.
Hình ảnh trong gương lặng lẽ mờ đi sau khi Trọng Lâm đưa vị tiên bá kia ra khỏi cung thất, những đám mây lành dập dềnh, từng mái đình, lầu gác liên miên dường như đã tan biến trong nước, gương Diệu Hoa đặt trước mặt bọn họ như một tấm gương bình thường.
Trong số các thần tiên thuộc thế hệ mới, Mạch thiếu gia luôn cảm thấy bản thân mình cũng được coi là một người gặp biến không loạn, điềm đạm bình tĩnh, nhưng hôm nay không biết là vận may thế nào, những chuyện không ngờ cứ dồn dập kéo đến khiến chàng có cảm giác không thể tiếp nhận được hết.
Cho đến khi câu chuyện trước mắt được hé lộ, chàng cảm thấy bản thân mình hoàn toàn không thể điềm tĩnh nổi nữa rồi.
Diệu Nghĩa Tuệ Minh Cảnh là cái quái quỷ gì, chàng không biết, nhưng bỏ qua phần này, điều mà nhị vị tiên giả Trọng Lâm và Vân Trang trong gương đã nói lại rất rõ ràng, Trầm Diệp chính là cái bóng của Đế Quân.
Trầm Diệp lại là cái bóng của Đế Quân? Cụm từ sét đánh giữa trời quang cũng không thể miêu tả được một phần vạn tâm trạng của Mạch thiếu gia lúc này, nhưng nếu nói bị sét đánh, ở trước gương lúc này, đương nhiên có một người bị sét đánh mạnh hơn, chàng bất giác nhìn sang phía Đế Quân.
Đế Quân – người đáng lý ra phải bị sét đánh mạnh hơn lại vẫn rất ung dung, vẫn rất trầm tĩnh, phong thái khi rót trà cũng không có gì thay đổi.
Thực ra việc Trầm Diệp là cái bóng của mình, ban đầu khi mới vào mộng cảnh này, Đông Hoa quả thực chưa từng nghĩ tới, cho dù thi thoảng cũng cảm thấy khí tức của vị thần quan này có chút quen thuộc, cũng vì lười không muốn nhọc công suy nghĩ, tùy tiện mượn cớ hai người có khả năng đã tu luyện cùng một tông pháp để che lấp đi.
Khi chàng không muốn động não, đầu óc sẽ không chuyển động.
Nghi hoặc Trầm Diệp liệu có quan hệ gì với mình không lại xuất hiện từ khi nhìn thấy trong gương Diệu Hoa chàng ta có sức mạnh hủy diệt đất trời.
Luồng huyền quang diệt thế đó vốn dĩ là một pháp thuật mà chàng sử dụng điêu luyện nhất.
Quay ngược thời gian lại để xem, chàng đoán không nhầm, Trầm Diệp và bản thân mình quả nhiên là có vài phần liên quan đến nhau.
Nhưng sự liên quan này cũng không phải là không thể chấp nhận.
Một cái bóng thôi mà.
Biết Trầm Diệp là cái bóng của mình không hề khiến chàng kinh ngạc bằng hôm chàng nhận thấy một địa tiên lại có thể sử dụng thuật tạo thế.
Mà giờ đây, câu hỏi tại sao một địa tiên có thể sử dụng thuật tạo thế lại dễ giải thích rồi, dù gì cũng là cái bóng của mình mà…
Chàng trước đây chưa từng nghĩ tới việc còn có một cái bóng nên đã suy nghĩ chưa được chu toàn, nếu Trầm Diệp đã là cái bóng của mình, vậy Tiểu Bạch và A Lan Nhược… Chàng cầm bút lên, định vẽ hình của A Lan Nhược rồi ném vào trong tấm gương Diệu Hoa đang rất yên bình kia, ngoài cửa sổ bỗng có tiếng gió và tiếng sấm, ngước mắt lên nhìn, mây đen không lành lại xuất hiện từ phía Vương đô… chàng đặt ly trà “cạch” một tiếng xuống mặt bàn, cất gương Diệu Hoa vào trong tay áo, đứng lên vội đi về phía Vương đô.
Khi tiếng gió tiếng sấm vang lên, Tô Mạch Diệp cũng nhìn ra ngoài cửa sổ, miệng vừa thốt lên “Tiếng sấm này nghe ra có phần yêu dị”, một cơn gió thoảng qua, đã thấy Đế Quân vội vã lao ra khỏi phòng.
Trong những ngày chàng đi theo Đế Quân, chưa từng thấy Đế Quân vội vã như vậy, tính hiếu kỳ trỗi dậy, không kịp đắn đo suy nghĩ gì, chàng cũng chạy theo sau.
Yêu phong nổi lên, quỷ vân bay cao, Đông Hoa cưỡi gió bay đi, hạ xuống bên ngoài Ba Tâm đình trong phủ công chúa của A Lan Nhược ở Vương đô.
Lúc đó vừa hay nhìn thấy Trầm Diệp đang bế Phượng Cửu lên từ một chiếc giường trong đình, bàn tay của thần quan vừa chạm vào cánh tay ngọc ngà của giai nhân liền bị một thanh kiếm dài ngăn lại, trở tay một cái, Phượng Cửu điện hạ dường như đang say ngủ đã nằm gọn trong vòng tay của Đông Hoa.
Tô Mạch Diệp chậm lề dề bước xuống từ trên đám mây, thầm tán thưởng Đế Quân thân pháp thật tuyệt vời.
Kiếm Thương Hà cắm sâu vào cột đình, chặn ngang trước mặt Trầm Diệp.
Nói ra thì ngày hôm đó Đế Quân sau khi lựa chọn kỹ lưỡng mới chọn thân phận của Tức Trạch, đã đóng băng Tức Trạch thần quân thật sự của mộng cảnh này trong động Thanh Y ở Kỳ Nam hậu sơn, khi bắt đầu chuyên tâm đóng vai Tức Trạch, tất nhiên, dung mạo và tính cách vốn có của Tức Trạch thần quân, chàng đều coi như phù du, nhưng ít nhất có một chuyện chàng làm rất tốt – mỗi khi rút kiếm ra, tốt xấu gì cũng đều che giấu dáng vẻ của kiếm Thương Hà – thanh kiếm nổi danh cả bát hoang, không để người khác vì nhận ra thanh kiếm này mà nhận ra thân phận của chàng.
Tuy nhiên trong lúc này, thần kiếm Thương Hà – tổ tiên của những thanh kiếm nổi danh lại ngang nhiên bày ngay trước mắt Trầm Diệp, hàng vạn mặt cắt do đá hạo anh tạo thành ở chuôi kiếm phản chiếu ánh hoàng hôn chiếu vào trong đình, sáng chói cả mắt của người nhìn vào nó.
Tô Mạch Diệp đoán rằng, nếu không có kiếm Thương Hà ngăn cản, nhìn tư thế của Trầm Diệp chắc rằng đã lập tức giành lại Phượng Cửu, nhưng kiếm Thương Hà không hổ danh là một cây kiếm nổi tiếng, vừa xuất hiện đã khiến vị thần quan trước mặt bị trấn áp.
Sau giây lát yên lặng, Trầm Diệp chầm chậm nói: “Thương Hà?”.
Đã nhận ra Thương Hà, sao có thể không nhận ra thân phận của vị tôn thần trước mặt? Vị thần quan trẻ tuổi im lặng trong giây lát, quả nhiên là một người thông minh hiếm có, khi lại ngước mắt nhìn về phía Đế Quân, thần sắc ẩn chứa vài phần khó lường: “Tôn thần giá đáo mộng cảnh này, khiến Trầm Diệp vô cùng vinh hạnh, nhưng Trầm Diệp có tài đức gì mà lại có thể làm phiền tôn thần phải đích thân đến nơi đây, để ý đến một việc riêng tư của thần?”.
Đối diện với cái bóng của chính mình, thần sắc trên khuôn mặt của Đế Quân lúc này… không thể nhìn ra thần sắc gì trên khuôn mặt của Đế Quân, Đế Quân đưa mắt liếc nhìn về phía chiếc bình lưu ly trống rỗng đặt trên bàn đá, nói với Trầm Diệp: “Xem ra ngươi đã tập hợp đầy đủ khí trạch để tạo hồn phách cho A Lan Nhược, đã đặt hết chúng vào trong cơ thể của Tiểu Bạch?”.
Tô Mạch Diệp ngước mắt nhìn Phượng Cửu trong vòng tay của Đế Quân, lời này Đế Quân nói một cách rất bình thản, xem ra cơ thể điện hạ không có vấn đề gì lớn.
Trầm Diệp yên lặng hồi lâu, nói: “Quả nhiên trên thế giới này không có việc gì qua được pháp nhãn của tôn thần, tuy thần không biết vì sao tôn thần xuất hiện trong mộng cảnh này, tuy nhiên nữ tử trong lòng tôn thần lại là sự cố chấp của thần, mong tôn thần đại lượng mở cho thần một con đường, trả lại nàng ấy cho thần?”.
Đông Hoa ngồi xuống chiếc giường bên cạnh bàn đá, đỡ Phượng Cửu đang say ngủ tựa vào ngực mình, một tay ôm nàng, khẽ ngước mắt lên: “Người của ta, tại sao phải nhường cho ngươi?”.
Trầm Diệp chợt ngẩng phắt lên.
Cánh tay còn trống của Đông Hoa khẽ phất lên, loại bỏ thuật sửa đổi trên người Phượng Cửu, lạnh lùng nói: “Tiểu Bạch rơi vào mộng cảnh này, thân xác A Lan Nhược mà ngươi tạo ra đã bị nàng thay thế rồi”.
Nhìn khuôn mặt đầy vẻ kinh ngạc của Trầm Diệp, lạnh lùng nói tiếp: “Thần quan tiền nhiệm Tức Trạch quả thực là một cao nhân, nếu A Lan Nhược chỉ là một Tỷ Dực Điểu, cách làm nàng sống lại mà hắn dạy cho ngươi mặc dù nghịch thiên nhưng cũng vẫn có thể thực hiện được.
Nhưng A Lan Nhược chẳng qua chỉ là một hồn phách được tạo ra từ một cái bóng mà thôi, vốn dĩ chỉ có một kiếp, hết kiếp sống đó sẽ quay trở về với cát bụi, cho dù ngươi có thu nhập khí trạch của nàng như thế nào, cũng không thể tạo được một hồn phách.
Cho dù thế nào ngươi cũng không thể khiến nàng sống lại, nàng sẽ không trở lại được nữa”.
Cây tiêu ngọc bích trong tay của Tô Mạch Diệp rơi “cạch” xuống nền đất, Trầm Diệp thất thần nói: “Ngài nói… cái gì?”.
Gương Diệu Hoa trong tay áo của Đế Quân lại một lần nữa xuất hiện, dựng ở trên bàn đá.
Đông Hoa vẫn ôm Phượng Cửu trong lòng, ung dung đưa tay lên không trung lấy giấy bút, chàng vẽ một bức hình A Lan Nhược, lại viết thêm vài chữ bên cạnh bức hình nhỏ đó, ném vào trong gương, nói: “Vì sao nàng ấy được sinh ra từ một cái bóng, ta cũng có chút hiếu kỳ, cùng xem xem cũng tốt”.
02.
Không giống với việc xem cuộc đời của Trầm Diệp trước đây, ban đầu là sự ra đời của chàng ta, cảnh tượng xuất hiện trong gương Diệu Hoa lúc này lại là một lớp học.
Bên ngoài lớp học là một sườn núi xanh biếc, trên sườn núi có một vài con linh cầm linh thú đang chơi đùa, tiếng đọc đồng thanh vọng tại từ phía lớp học, bọn họ đang học một đoạn “Bàn Nhược Kinh”.
Mặt trời dịch chuyển về đằng Tây, tiếng đọc sách tắt dần, dường như sắp tới giờ tan học.
Một lát sau, một lão tiên giả với chòm râu dê cầm sách bước ra khỏi lớp học, tiếp theo đó lại có rất nhiều học trò bước ra theo, mỗi người dắt theo một con linh cầm linh thú trên sườn núi, cưỡi lên con thú rồi lần lượt rời khỏi đỉnh núi.
Người chậm lề dề bước ra sau cùng, được một vài thiếu niên tuấn tú vây xung quanh chính là một thiếu nữ áo đỏ.
Thiếu nữ đó có mái tóc dài đen nhánh, hàng lông mày thanh tú cong cong như mảnh trăng non, giữa trán là một đóa hoa phượng vũ đỏ thắm, ánh mắt sáng như sao, đôi môi hồng như cánh đào, thần sắc có phần mất kiên nhẫn, đó chính là Phượng Cửu điện hạ của Thanh Khâu.
Tô Mạch Diệp lên tiếng: “Đây cũng là ba trăm năm trước?”
Đế Quân chăm chú nhìn Phượng Cửu ở trong gương: “Hai trăm chín mươi lăm năm trước, sớm hơn thời điểm A Lan Nhược ra đời một chút”.
Nói rằng A Lan Nhược có thể là cái bóng của Phượng Cửu chẳng qua chỉ là một phỏng đoán của Đế Quân, nhưng khi ném bức hình của A Lan Nhược vào trong gương Diệu Hoa, trong gương lại hiện lên hình ảnh của Phượng Cửu, điều này nghĩa là gì không cần nói cũng đã quá rõ ràng.
Việc này quả nhiên đúng như chàng dự liệu, hồn phách của A Lan Nhược quả là được tạo thành từ bóng của Tiểu Bạch.
Nhưng tại sao Tiểu Bạch lại cho bóng của mình đầu thai vào trong Phạn Âm Cốc? Hơn nữa, xem điệu bộ của nàng, dường như cũng không hề biết A Lan Nhược chính là cái bóng của mình.
Chuyện này khiến Đế Quân có phần nghi hoặc.
Phượng Cửu và mấy chàng thiếu niên trong gương dần dần tiến lại gần, ba chàng thiếu niên đi gần nàng nhất lần lượt mặc ba bộ xiêm áo màu lam, trắng và lục.
Nhìn kiểu dáng của trang phục, không giống các vị thần tiên của Thanh Khâu, lại giống với các thiếu niên của Thiên tộc.
Khi từ gương Diệu Hoa có thể vọng lại ra tiếng người nói chuyện, đang đến lượt chàng thiếu niên áo lam, chàng thiếu niên đó vẻ mặt phong lưu, ánh mắt đầy tình tứ liếc nhìn Phượng Cửu: “Sớm đã được nghe nói Thanh Khâu là một nơi đất lành, luôn mong muốn mấy ngày tới đây học được đi ngao du các nơi, vừa hay mấy ngày trước khi bái kiến Bạch Chỉ Đế Quân, Đế Quân có nói rằng điện hạ rất thông thuộc cảnh vật ở nơi đây, ngày kìa sẽ được nghỉ học, không biết điện hạ có thời gian cùng ta ngao du Thanh Khâu một chuyến không?”.
Phượng Cửu chịu đựng ánh mắt đầy tình tứ của chàng thiếu niên, nói: “Ta…”.
Chàng thiếu niên áo lục đẩy chàng thiếu niên áo lam ra, đôi mắt phượng sáng long lanh nhìn Phượng Cửu: “Ngao du sơn thủy chỉ trong một ngày thì sao đủ được, nghe nói tài nghệ nấu nướng của điện hạ rất cừ, ngày nghỉ đó chi bằng cùng ta xuống phàm giới ăn uống, ta biết mấy tiệm ăn rất vừa ý dưới phàm giới, có một vài món ăn mà ngay cả trên thiên giới cũng không có, chắc chắc điện hạ cũng sẽ cảm thấy rất hứng thú”.
Phượng Cửu chịu đựng ánh nhìn từ đôi mắt phượng của chàng thiếu niên, nói: “Ta…”.
Chàng thiếu niên áo trắng đứng chắn trước hai chàng thiếu niên áo lam và áo lục, trong đôi mắt như nước mùa thu có chút ưu sầu, nói với Phượng Cửu: “Ăn uống chơi bời chung quy lại không phải là việc chính đáng, nghe nói điện hạ rất giỏi hai môn chế tạo thần binh và lịch sử thời thượng cổ, vừa hay ta lại khá yếu hai môn đó, không biết vào ngày nghỉ điện hạ có thời gian giúp ta củng cố hai môn học đó không?”.
Phượng Cửu chịu đựng ánh nhìn từ đôi mắt như nước mùa thu của chàng thiếu niên, nói: “Ta…”
Ánh mắt của ba chàng thiếu niên đều lộ rõ vẻ chờ đợi.
Phượng Cửu chịu đựng ba ánh mắt đầy vẻ chờ đợi đó, quay người, lôi ra một thiếu niên đang ngủ gật từ phía sau lưng, nói với chàng thiếu niên đó: “Ta...!ngày kìa là ngày nghỉ, ta đã có kế hoạch gì chưa?”.
Chàng thiếu niên đang ngủ gật dụi dụi mắt, lôi một quyển sổ nhỏ trong tay áo ra, lật giở vài trang, ngáp một cái, nói: “A, điện hạ có rất nhiều kế hoạch đấy.
Bạch Chỉ Đế Quân có lệnh, trước giờ Ngọ điện hạ cần phải đi thăm hỏi ba vị thần quân đang bị thương, ồ, chính là ba vị thần quân mà ngày nghỉ lần trước, lần trước đó và lần trước nữa đã mời điện hạ đi chơi rồi bị điện hạ đánh cho gãy chân, gãy tay và bị thương ở cổ, sau giờ Ngọ, để ta xem xem, sau giờ Ngọ điện hạ phải đi gấp tới núi Chung Hồ quyết đấu với Chức Việt tiên cơ, đây là một trận tử chiến đấy, ồ, như vậy xem ra điện hạ chỉ còn rảnh rỗi vào buổi tối thôi”.
Ba chàng thiếu niên áo lam, áo lục và áo trắng đều cùng yên lặng.
Phượng Cửu mặt không biểu cảm giúp chàng thiếu niên ngủ gật gấp quyển sổ lại, quay sang nhìn ba người trước mặt, hòa nhã mà từ bi nói: “Trận đấu với Chức Việt tiên cơ cũng không đến nỗi nghiêm trọng như một trận tử chiến đâu, chỉ là chuyện phế bỏ một cánh tay của nàng ta thôi, có thể chỉ đánh tới giờ Dậu là ta có thể quay về rồi, chư vị, có ai muốn đợi ta không?”.
Ba chàng thiếu niên kinh hãi quay sang nhìn nhau, nhất thời quên cả việc dắt theo linh cầm tiên thú, cứ thế chạy xuống núi, còn chạy trốn nhanh hơn cả loài thỏ.
Ánh mắt Đế Quân chăm chú theo dõi mặt gương, khóe môi khẽ cong lên.
Sắc trời trong gương đã tối dần, chàng thiếu niên ngủ gật kia mở mắt ra liếc nhìn Phượng Cửu, đưa tay lên không trung biến hóa ra một cây bút, lại lật giở quyển sổ nhỏ trong tay, liếm liếm đầu bút gạch bỏ mấy cái tên trong đó, than thở: “Lại bị điện hạ dọa cho bỏ chạy mất ba người, mặc dù nhà điện hạ quả thực đã làm mối cho người hơi sớm một chút, nhưng cũng không cần thiết phải dọa bọn họ như vậy, điện hạ lúc này không có tâm tư đó, nhưng ngộ nhỡ sau này khi muốn mai mối, biết đâu còn cần dùng tới họ thì sao?”.
Phượng Cửu đặt tay lên đầu lông mày, nói sang chuyện khác: “Ta không có vật cưỡi, sói xám đệ đệ ngươi cũng không có vật cưỡi, con vật cưỡi Tất Phương của tiểu thúc hôm nay dường như cũng có việc gì đó không kịp tới đón chúng ta, ngươi xem chúng ta có nên gọi một đám mây tới để xuống núi hay đi bộ xuống núi?”.
Chàng thiếu niên ngủ gật kia gấp quyển sổ nhỏ lại chỉ về phía chân trời: “Ồ, đám mây lành kia là gì vậy?”.
Phượng Cửu nhìn theo hướng chỉ tay của chàng ta, không nhìn thấy đám mây lành, tuy nhiên, trên đường chân trời được ánh chiều tà nhuộm thành một dải màu vàng lại thấy đám mây đen cuồn cuộn bay tới.
Tô Mạch Diệp đoán rằng, gương Diệu Hoa mà Đế Quân cải tạo mặc dù có thể xem lại được kiếp này kiếp sau của địa tiên, nhưng không thể nhìn thấy quá khứ của một nữ thần ở Thanh Khâu, nếu có thể nhìn thấy, quá khứ này chắc chắn phải có vài mối liên hệ với sự ra đời của A Lan Nhược.
Cảnh tượng vừa rồi chàng quả thực không nhìn ra có mối quan hệ gì với A Lan Nhược, nhưng lúc này, khi đám mây đen dày đặc trong gương hạ xuống đất, từ từ tan ra, chàng mới hiểu rõ vì sao gương Diệu Hoa lại hiện ra cảnh lớp học này.
Vị tiên giả hạ xuống trước mặt Phượng Cửu và sói xám đệ đệ là Tạ Cô Châu – minh chủ của U Minh ty.
Sinh tử của người phàm trần và những linh vật tuổi thọ có hạn có liên quan đến ba vị thần tiên, một là Bắc Đẩu Chân Quân, hai là Nam Đẩu Tinh Quân, người thứ ba là Tạ Cô Châu – minh chủ của U Minh ty.
Nam Đẩu trông coi việc sinh, Bắc Đẩu trong coi việc tử, còn U Minh ty lại quản lý việc phán quyết hình phạt đối với người sau khi chết, còn quản lý cả đài luân hồi.
Cô Châu quân giống hệt như tên gọi của chàng ta, cách hành xử cũng luôn kèm theo một chữ cô, quanh năm ở trong âm giới, không thích qua lại với các thần tiên khác, chỉ vào dịp đại triều hội diện kiến Thiên Quân hàng năm mới nhìn thấy vị thần quân này một lần.
Trong ấn tượng của Tô Mạch Diệp, mỗi lần gặp mặt, vị thần quân này luôn trong bộ dạng gày gò ốm yếu.
Lần này Cô Châu quân đứng trước mặt Phượng Cửu, vẫn khuôn mặt có vẻ bệnh tật, đợi nàng bảo sói xám đệ đệ đi chỗ khác rồi mới chỉ về con đường núi khúc khuỷu trước mặt, nói: “Cảnh chiều tà ở Thanh Khâu không tồi, chúng ta hãy đi men theo con đường này”.
Phượng Cửu đi theo sau Tạ Cô Châu, các học trò đều đã về nhà, sườn núi vắng lặng, khi chim chóc bay về tổ, thi thoảng lại có vài tiếng chim bay ngang qua đầu bọn họ.
Hai người tìm đến gốc cây như ý rồi ngồi xuống, Tạ Cô Châu lôi bình rượu từ trong thắt lưng ra, uống một ngụm, nói: “Gần đây có một chuyện, ta đoán vẫn nên đến báo cho ngươi một tiếng”.
Phượng Cửu cười nói: “Là chuyện ta chậm trễ tặng rượu cho người sao? Chuyện này thì ngươi cứ yên tâm, ta và ngươi có tình bằng hữu, đã nhận lời sẽ tặng người một vò rượu ủ hoa đào của Chiết Nhan, ta quyết không nuốt lời, chỉ có điều, haizz, mấy ngày gần đây Chiết Nhan và tiểu thúc của ta giận dỗi nhau, đang trong cơn giận dữ, là thời khắc khó tiếp cận, dù là ta cũng không dễ…”.
Tạ Cô Châu bỗng cắt ngang: “Là chuyện của Đông Hoa Đế Quân”.
Nụ cười trên khuôn mặt của Phượng Cửu sững lại.
Tạ Cô Châu nói: “Chuyện này trên trời dưới đất có lẽ không ai biết, Bắc Đẩu, Nam Đẩu chắc cũng không hề hay biết, có lẽ vì ta quản lý đài luân hồi nên mới biết được”.
Thấy Phượng Cửu rửa tai cung kính lắng nghe, nói tiếp: “Mấy ngày gần đây ta kiểm tra sổ sinh hồn, phát hiện ra có một hồn phách được đầu hai vào một dị giới, bèn tới đó tìm hiểu mới biết đó là một hồn phách không có kiếp trước, cũng không có kiếp sau, không đến từ đài luân hồi, sau khi chết đi cũng không qua đài luân hồi.
Loại hồn phách không qua đài luân hồi bèn đầu thai hóa thế chỉ có thể là do các bậc tiên giả tạo ra, mà trên thế gian này, người có thể tạo ra kiểu hồn phách đó chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay, trong Thần tộc, ngoài ta ra, cũng chỉ có Vân Trang tiên bá trong cung Thái thần mà thôi.
Mấy năm trước nghe nói Đế Quân vì muốn hoàn toàn lĩnh ngộ tám nỗi thống khổ chốn hồng trần nên đã xin được đầu thai xuống phàm giới, trong sổ mệnh cách của Ti Mệnh mặc dù ghi rằng Đế Quân đầu thai xuống phàm trần chính là ba mươi năm sau, nghe nói trong ba mươi năm này, ngài ấy ở trong cung Thái Thần để tĩnh tu, nhưng khi tĩnh tu, đã lệnh cho Vân Trang tiên bá dùng bóng của mình để tạo nên một hồn phách đầu thai vào dị giới tôi luyện một phen, điều này cũng không có gì là không thể được, cũng không có gì bất lợi”.
Nói nhiều khô họng, Tạ Cô Châu lại nâng bình rượu lên, uống một ngụm: “Đế Quân đã giấu chư vị tiên giả, chuyện này xem ra vô cùng cơ mật, ta suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói chuyện này với ngươi, ngươi có biết vì sao không?”.
Ráng chiều như đuôi cá đã dần tan đi, trên đỉnh núi xuất hiện nửa bóng trăng mờ nhạt, Phượng Cửu nằm xuống, ngước nhìn sắc trời nhá nhem, cười nói: “Vì muốn lấy của ta một vò rượu nữa ư?”.
Tạ Cô Châu liếc nhìn nàng một cái, lắc lắc bình rượu: “Trước mặt ta người giả bộ gì chứ, ngươi có chuyện gì mà ta không biết đâu? Bảy năm trước khi uống rượu cùng ngươi, trong lúc say chẳng phải ngươi đã nói là Đế Quân đã từng cứu mạng ngươi ở núi Cầm Nghiêu, ngươi muốn báo ân nên mới tới Thập Ác Liên Hoa Cảnh cứu ngài ấy, kết quả là lại được ngài ấy cứu lại, cuối cùng người vẫn nợ ngài ấy một đại ân cứu mạng, sớm muộn gì cũng phải tìm một thời cơ để báo đáp ngài ấy.
Theo ta thấy, đây là một thời cơ, đối diện với cái bóng của Đế Quân còn tốt hơn đối diện với chính bản thân ngài ấy, bảo người quay lại cung Thái Thần gặp ngài ấy, e rằng có chút làm khó cho ngươi, đúng không?”.
Phượng Cửu nhắm mắt lại, nói: “Ngươi hôm nay không giống ngươi, nhiều lời quá”.
Một lúc sau lại chậm rãi nói: “Trước đây ngươi từng nói những chuyện đau lòng, thời gian trôi qua, tự nhiên sẽ nhạt đi, câu này không đúng”.
Tạ Cô Châu cúi đầu nhìn nàng: “Ồ? Tại sao?”.
Gió đêm thổi tới, Phượng Cửu lấy tay che mắt lại: “Mười năm rồi, ta vẫn nhớ những chuyện đau lòng đó, mỗi khi nhớ lại, lúc ấy đau lòng thế nào, giờ đây vẫn đau lòng thế đó”.
Tạ Cô Châu cũng nằm xuống, cùng nhìn lên bầu trời đêm mờ tối: “Đó là bởi vì thời gian mà ngươi trải qua chưa đủ dài”.
Phượng Cửu nghiêng đầu nhìn chàng ta: “Thực ra ta cũng nhớ tới những khoảng thời gian tươi đẹp.
Ta đã nói với ngươi chưa nhỉ, Đế Quân từng làm cho ta một mái đình lục giác để tránh nắng, từng nướng khoai lang cho ta ăn, làm món cá sốt chua ngọt cho ta, còn từng băng bó vết thương cho ta nữa”.
Tạ Cô Châu nói: “Còn gì nữa? Ngài ấy còn từng làm cho ngươi việc gì nữa?”.
Phượng Cửu khẽ mở miệng: “Ngài còn, ngài còn…” nhất thời không biết phải nói gì, quay đầu về vị trí cũ, một lúc sau nói: “Ngài ấy đã từng cứu mạng ta”.
Tạ Cô Châu lạnh lùng nói: “Cứu ngươi chẳng qua chỉ là một chuyện đơn giản với ngài, trong tình huống đó, cho dù là ai, Đế Quân cũng đều ra tay cứu giúp”.
Thở dài một tiếng, nói: “Hồi ức mà ngài ấy đối xử tốt với ngươi, lại chỉ có như vậy thôi sao, Phượng Cửu, những hồi ức không đẹp lại có bao nhiêu chứ?”.
Phượng Cửu ngước lên nhìn ánh trăng lên bầu trời: “Những hồi ức không đẹp… Ngươi có muốn nghe những chuyện buồn cười mà ta đã làm không?”.
Yên lặng một lát, nói: “Ờ, có một lần, ta đã sửa lại bức vẽ đoản đao của Liên Tống quân, Cơ Hoành lại mạo nhận là do nàng ta sửa, ta đã cắn Cơ Hoành, Đế Quân đã trách mắng ta và bảo vệ nàng ta, lúc ấy ta uất ức chạy ra khỏi thư phòng, đêm xuống không hiểu sao luôn cảm thấy Đế Quân sẽ vì đã trách oan ta mà đi tìm ta để xin lỗi, còn thật lòng lo lắng ngài ấy không tìm thấy ta thì phải làm thế nào, nên đã cố ý nằm cuộn tròn trước cửa tẩm điện của ngài ấy, rất buồn cười phải không?”.
Tạ Cô Châu nói: “Vậy ngài ấy có tới tìm ngươi không?”.
Phượng Cửu yên lặng, hồi lâu, rồi đáp: “Không, ngài ấy ở trong phòng cùng Cơ Hoành vẽ tranh”.
Ánh trăng dần lên quá đỉnh núi, mấy con đom đóm tụ tập dưới tán cây như ý, Tạ Cô Châu hỏi: “Sau đó thì sao?”.
Phượng Cửu nói một cách vô thức: “À, sau đó”, trầm mặc một lát, nói: “Sau đó Cơ Hoành luôn ở bên cạnh ngài ấy, mặc dù ta rất ấm ức, nhưng thực ra cũng rất muốn ở bên ngài ấy, ngươi biết lúc ấy ta luôn muốn ở bên cạnh ngài ấy, nhưng ta không tìm được một cơ hội thích hợp.
Sau đó nữa… ta lại khiến Cơ Hoành bị thương, ngài ấy liền nhốt ta lại, Trọng Lâm thấy ta đáng thương, đã thả ta ra ngoài phơi nắng, nhưng lại gặp phải Tác Vinh, con vật cưỡi yêu quý của Cơ Hoành, nó… nó làm ta bị thương, ta bất cẩn rơi xuống sông, được Ti Mệnh cứu sống, sau đó nữa, ngài ấy thành thân với Cơ Hoành, ta liền rời khỏi Cửu Trùng Thiên”.
Nàng thì thầm: “Đều là những chuyện vô vị, chắc ngươi nghe xong cũng cảm thấy rất vô vị, đúng không?”.
Tạ Cô Châu nhíu mày: “Từ trước đến nay, ngài ấy chưa từng nói chuyện với ngươi sao? Còn ngươi thì cứ như vậy rời khỏi Cửu Trùng Thiên sao?”.
Phượng Cửu có chút thất thần, khẽ nói: “Ờ, đúng vậy”.
Đưa tay lên, nhìn bầu trời qua kẽ ngón tay: “Ti Mệnh nói tình cảm của ta, đã có thể coi là tình cảm sâu sắc như biển cả đối với Đế Quân rồi, nhưng thực ra tình yêu là gì, tình cảm sâu sắc là như thế nào, ta cũng không rõ lắm.
Cho dù ngài ấy như thế nào, ta đều rất thích, nhưng so với việc ngài ấy được tôn kính, tôn quý cao vời như thế, nếu được hy vọng, ta lại mong ngài ấy không tốt như vậy.
Ta mong rằng ngài ấy không sống ở cung Thái Thần, không phải là Đế Quân, như vậy chỉ có một mình ta nhận thấy những điểm tốt của ngài ấy, chỉ riêng một mình ta thích ngài ấy, ta sẽ đối xử với ngài ấy rất rất tốt.
Tri Hạc từng nói rằng nàng ta từ nhỏ đã ở bên cạnh Đế Quân, tình cảm giữa nàng ta và Đế Quân ta không thể sánh được.
Ta cũng biết có rất nhiều người thích ngài ấy, nhưng nếu chỉ xét về tình cảm, ta nghĩ trong số tất cả mọi người, ta nhất định là người thích ngài ấy nhất”.
Tạ Cô Châu thở dài nói: “Tấm lòng của người, trước đây ngài ấy chưa từng biết đến, có thể cả đời này cũng không thể biết được”.
Lại nói: “Lúc đó ngài ấy lạnh nhạt với ngươi như vậy, ngươi không đau lòng sao?”.
Phượng Cửu thì thầm nói: “Sao có thể không đau lòng chứ? Nhưng, chung quy là do ta muốn được ở bên ngài ấy, vì ngài ấy mà biến thành một con thú cưng, vì vậy bị ngài ấy coi như một con thú cưng là chuyện đương nhiên rồi.
Thú cưng là như vậy, có lúc được cưng chiều, có lúc không được cưng chiều.
Ngài ấy chỉ đối xử với ta hơi lạnh lùng một chút, ta đã đau lòng chết đi được, có thể bởi vì trong lòng ta không hề coi mình là một thú cưng”.
Tạ Cô Châu lắc lắc đầu, nói: “Ngươi đã đủ hèn mọn trước mặt ngài ấy rồi, ngươi đã từ bỏ cả bộ lông quý giá, thân phận cao quý, người thân và bạn bè vì ngài ấy, nếu là báo ân, như vậy cũng đã đủ rồi”.
Phượng Cửu nhắm mắt lại nói: “Từ bỏ những thứ đó, chỉ là vì dục vọng riêng của ta thôi, việc này không thể đánh đồng với việc báo ân được”.
Hồi lâu sau, nàng lại nói: “Ngươi nói rất đúng, nếu Đế Quân hạ giới là một cái bóng đây quả là một cơ hội tốt, nếu Đế Quân đã giấu chư vị thần tiên, ngài ấy ở thế giới nào ta tốt nhất cũng không cần biết.
Người có thể cũng đem bóng của ta đi, tạo thành một hồn phách, đầu thai vào nơi mà ngài ấy đang ở.
Ta hy vọng lần này, cái bóng của ta có thể thay ta báo ơn cho ngài ấy, khi ngài ấy gặp nguy hiểm sẽ tới cứu ngài ấy, ngài ấy muốn gì, đều giúp ngài ấy đạt được điều đó”.
Tạ Cô Châu đưa tay cầm lấy bình rượu, nói: “Ngài ấy muốn gì đều giúp ngài ấy đạt được… Nếu ngài ấy chưa có được thứ mình muốn, lần báo ân này vẫn không thành sao?”.
Phượng Cửu ngắm nhìn dãy núi tĩnh lặng phía xa dưới ánh trăng, nói: “Chẳng phải ngươi nói rằng ba mươi năm sau Đế Quân sẽ đầu thai xuống phàm giới sao? Nếu lần này không thành, đến lúc đó ta sẽ tới cầu xin Ti Mệnh, hỏi rõ xem Đế Quân đầu thai vào nhà nào ở đâu”, khẽ nói: “Ba mươi năm, ta nghĩ đến lúc đó ta gặp ngài ấy, nhất định sẽ không vô dụng như bây giờ đâu”.
Tạ Cô Châu uống một ngụm rượu, dịu giọng nói: “Được, hãy đưa một nửa cái bóng của ngươi cho ta, cho dù ân nghĩa này có đền đáp được hay không, đến lúc đó ta cũng sẽ nói với ngươi một tiếng”.
03.
Ánh trăng mông lung, cánh chim mông lung, cảnh sắc mông lung trong gương hóa thành một ngày trời xanh mây trắng, A Lan Nhược ra đời trong Phạn Âm Cốc, từng sự việc xảy ra sau đó lần lượt hiện lên trong giương.
Hồn phách của A Lan Nhược tan biến bên bờ sông Tư Hành, cái bóng tạo nên hồn phách trở lại trong tay của Tạ Cô Châu ở U Minh ty, Trầm Diệp loạng choạng bước ra khỏi đình, Tô Mạch Diệp không ngăn cản, chàng ta muốn đi đâu, chàng cũng không dò hỏi.
Trầm Diệp là một người thông minh, chắc chắn đã đoán được bản thân mình là cái bóng của Đế Quân, cũng đã nhận ra A Lan Nhược chính là cái bóng của Phượng Cửu, hai cái bóng, cuộc đời của họ chẳng qua chỉ là chút tiêu khiển không mấy quan trọng trong đường đời của người khác, bất cứ ai khi biết được việc này cũng khó tránh khỏi bị đả kích.
Hơn nữa, đúng như lời Đế Quân đã nói, A Lan Nhược không thể quay lại được nữa.
Mà tại sao nàng lại yêu Trầm Diệp, muốn cứu Trầm Diệp, bất luận Trầm Diệp muốn gì nàng đều cố hết sức giúp hắn ta đạt được, Tô Mạch Diệp cuối cùng đã hiểu, bởi vì nàng sinh ra là vì hắn ta, nàng đã được định sẵn rằng cả cuộc đời đều vì Trầm Diệp.
Chàng không biết Trầm Diệp đang nghĩ gì, khi hắn ta thất thần rời đi, vẻ mặt vô cùng đau khổ, chàng cũng không nỡ hỏi.
Trầm Diệp rời khỏi đó, Đế Quân cũng không hề ngăn cản, đừng nói là ngăn cản, thực ra lúc đó ánh mắt của Đế Quân chỉ tập trung nhìn vào trong gương, dường như không hề chú ý tới hắn ta.
Đế Quân nhíu mày, chàng không rõ liệu trong thần sắc của Đế Quân có ẩn chứa sự đau buồn không, chàng chưa từng nhìn thấy Đế Quân trong bộ dạng như vậy.
Tô Mạch Diệp nghĩ, một tấm gương chẳng qua chỉ là một vật vô tri vô giác, lại có thể soi rõ nỗi sầu bi của mỗi người.
Chỉ giây lát sau, trong gương hiện lên cảnh Tạ Cô Châu lại một lần nữa tới Thanh Khâu, ngồi đối ẩm cùng Phượng Cửu bên bờ biển Vãng Sinh.
Gió se se lạnh, Phượng Cửu nâng bình lên rót rượu, nói: “Cái bóng của ta có hoàn thành tốt chức trách của nó không? Thứ mà cái bóng của Đế Quân muốn có, bóng của ta có giúp ngài ấy đạt được không?”.
Tạ Cô Châu đón lấy ly rượu, thở dài: “Không được.
Thứ mà ngài ấy muốn có nhất, cho tới khi chết nàng ta cũng chưa từng hiểu được.
Lần báo ân này không kết thúc như chúng ta dự liệu”.
Phượng Cửu hơi sững lại: “Nàng ta… chết rồi? Nói như vậy thì lần báo ân này lại thất bại? Xem ra không thể không chọn một ngày Hoàng đạo để đến cầu xin Ti Mệnh rồi”.
Tạ Cô Châu uống hết một chén, cầm lấy bình rượu tự rót cho mình: “Lần này gặp lại Đế Quân, ngươi đã không còn cảm thấy khó xử nữa?”.
Một đóa hoa vũ thời bay tới đậu lên kẽ ngón tay của Phượng Cửu, nàng cúi đầu cười thanh thản: “Thời gian qua lâu rồi, đương nhiên nỗi đau lòng sẽ nhạt dần đi.
Trước đây ta không tin lời của ngươi, giờ đây lại cảm thấy ngươi đã nói đúng.
Đến lúc đó gặp nhau dưới phàm giới, chẳng qua chỉ là để báo ân.
Có thể cuối cùng cũng có một ngày, ta và ngài ấy có thể gặp nhau trên thiên đình, có thể là trong một buổi tiệc nào đó, ngài ấy là một tôn thần hiếm khi đi dự tiệc, ta là Phượng Cửu của Thanh Khâu, trong mắt ngài ấy, ta chẳng qua cũng chỉ là một tiểu Đế Cơ lần đầu gặp mặt mà thôi, tiền duyên giữa ta và ngài ấy, chẳng qua chỉ là ta từng thích ngài, còn ngài lại không hề hay biết mà thôi”.
Đông Hoa sững sờ, lần đầu tiên nàng gặp chàng là ở trên núi Cầm Nghiêu, còn lần đầu tiên chàng gặp nàng lại là ở bên bờ biển Vãng Sinh, hơn hai nghìn năm sau đó.
Nàng nói cuối cùng có một ngày, có thể bọn họ sẽ gặp nhau trong một bữa tiệc nào đó, nàng nói đúng, sau đó bọn họ gặp nhau trong hôn yến của cô cô nàng, nàng suýt nữa thì đá một chậu hoa trúng vào đầu chàng.
Chàng đã khiến nàng phải đau khổ bao nhiêu năm như vậy, nhưng lúc đó, trên khuôn mặt nàng lại chẳng có chút biểu hiện gì, lại làm ra vẻ như một tiểu Đế cơ thông minh, hoạt bát, xinh đẹp lần đầu tiên bái kiến chàng vậy.
Mặt gương Diệu Hoa đã trở nên tĩnh lặng hồi lâu, nhưng Đế Quân mãi không lên tiếng.
Tô Mạch Diệp nói: “Đế Tọa”.
Ánh mắt của Đế Quân không biết đang nhìn về phương nào, vẫn không lên tiếng.
Tô Mạch Diệp bước lên phía trước một bước, lại gọi: “Đế Tọa”.
Đế Quân dường như cuối cùng đã bừng tỉnh, nhìn chàng trong giây lát, mới nói: “Lần đầu tiên ngươi gặp Tiểu Bạch là khi nào?”.
Tô Mạch Diệp có chút kinh ngạc, chắc những gì diễn ra trong gương ban nãy, những lời mà Phượng Cửu nói đã khiến Đế Quân đau lòng, nhớ tới điều gì nên mới hỏi chàng câu này.
Nhưng câu hỏi này lại không dễ trả lời, chàng gặp Phượng Cửu tại rừng đào mười dặm của thượng thần Chiết Nhan, hơn nữa hai người đã có cơ duyên gặp mặt riêng tư, nhưng không phải là kiểu kết giao chính thống giữa các thế gia.
Nếu trả lời đúng sự thật, chưa biết chừng Đế Quân lại nghĩ rằng chàng có ý gì đó với Phượng Cửu, như vậy không thỏa đáng, nhưng lúc này nếu che giấu, sau này Đế Quân biết được, chưa biết chừng lại nghĩ rằng sở dĩ chàng che giấu là bởi vì chàng quả thực có tình ý gì đó với Phượng Cửu, như vậy cũng không thỏa đáng.
Đắn đo giây lát, lại cảm thấy Đế Quân không hề chú ý tới hình thức mà họ gặp mặt, ngài chỉ hỏi về thời gian, bèn thận trọng nói: “Khoảng một nghìn năm trước, chỉ là vô tình gặp mặt điện hạ một chút thôi, Đế Quân hỏi chuyện này, không biết…”.
Đông Hoa chăm chú nhìn vào khuôn mặt đang say ngủ của Phượng Cửu trong lòng mình, tay kia vuốt ve bên má ửng hồng vì say ngủ của nàng, cau mày nói: “Nếu nàng muốn gặp các người, đều có thể rất nhanh chóng gặp được, nàng thích ta, muốn gặp ta, đã tới cung Thái Thần làm tỳ nữ suốt bốn trăm năm, chúng ta lại không có một cơ duyên gặp gỡ, xét về lý mà nói, sự gặp gỡ của chúng ta đáng ra không quá khó khăn như vậy, theo ngươi, tại sao lại như vậy?”.
Tô Mạch Diệp còn nhớ, khi Phượng Cửu kể lại mối tình này cho chàng nghe, đã dùng hai chữ “vô duyên”.
Lúc đó chàng không cho rằng hai chữ này là đúng, chàng luôn cảm thấy, thứ được gọi là vô duyên, cần phải giống như chuyện quân hữu tình thiếp vô ý giống như chàng và A Lan Nhược mới được gọi là vô duyên, mà Phượng Cửu và Đế Quân lại chưa từng cưới gả, hơn nữa đều có tình cảm với nhau, chỉ là do thế sự khó định liệu, có chút trúc trắc mà thôi, sao có thể gọi là vô duyên được.
Nhưng hôm nay, khi Đế Quân hỏi câu này, chàng lại có chút suy nghĩ, đắn đo nói: “Điện hạ từng nói, có lẽ là không có duyên với Đế Tọa, nhưng hạ thần cho rằng, chẳng qua chỉ là vì điện hạ đau khổ, tìm một cái cớ để từ bỏ mà thôi, không thể coi là thật được”.
Đông Hoa giơ tay trái lên tạo thành một kết ấn, nói: “Tiểu Bạch nói rất đúng, có thể quả thực là do duyên phận”.
Đang nói bỗng có một cơn gió nổi lên từ lòng đất, lớp ngói trên mái đình không ngừng kêu lách cách, Phượng Cửu được Đế Quân ôm trong lòng, vẫn không có dấu hiệu sẽ thức dậy, mặt trăng trên trời bỗng nhiên được kéo gần lại, phía trước mặt trăng hiện lên một tảng đá lớn, một lão tiên giả râu tóc bạc phơ đang đứng bên tảng đá lớn đó.
Đây chính là thuật Điệp Trụ.
Người rơi vào mộng cảnh này nếu sử dụng pháp thuật quá mạnh sẽ dễ khiến mộng cảnh tan vỡ, mà thuật Điệp Trụ chính là pháp thuật mạnh nhất.
Nếu người tạo thế có ở đây, mộng cảnh này dù bị tan vỡ vẫn có thể dễ dàng khôi phục lại, nhưng nếu mấy người bọn họ rơi vào nguy hiểm, mất mạng luôn ở đây cũng chưa biết chừng.
Tô Mạch Diệp vội tiến lên phía trước: “Tuyệt đối không thể thực hiện pháp thuật này được, vùng đất này đã có chút rung chuyển, Đế Tọa xin hãy bình tĩnh, bình tĩnh!”.
Lão tiên giả bên cạnh tảng đá lớn cất tiếng nói với một khuôn mặt hiền từ: “Theo lão thấy, Đế Quân còn bình tĩnh hơn vị tiên liêu này nhiều, có thể do tiên liêu đang ở trong đó nên không phát hiện ra rằng thế giới này vốn dĩ đã có hiện tượng sụp đổ rồi? Đế Quân có sử dụng thuật Điệp Trụ gọi lão tới để hỏi về thiên mệnh hay không, mộng cảnh này cũng không thể cầm cự được bao lâu nữa”.
Tô Mạch Diệp sững người lại.
Lão tiên giả chắp hai tay lại, nói với Đông Hoa: “Lão trông giữ đá Thiên Mệnh đã mấy vạn năm, không ngờ người đầu tiên gọi lão tới để thăm dò về thiên mệnh lại chính là Đế Quân.
Tạo hóa, số kiếp của vạn vật trên thế gian đều nằm trong tay của Đế Quân, Đế Quân không phải là người bị rối trí vì thiên mệnh, lần này lại dùng cả thuật Điệp Trụ để gọi lão tới gặp, lão ngu muội không biết Đế Quân muốn tìm hiểu điều gì từ đá Thiên Mệnh?”.
Đá Thiên Mệnh chắn ngang trước mặt trăng tròn đã phình to hơn một chút theo lời nói của lão tiên giả, có thể nhìn thấy những dòng chữ đậm nhạt trên mặt đá, Đông Hoa chậm rãi nói: “Duyên phận giữa bản quân và Phượng Cửu ở Thanh Khâu, đá Thiên Mệnh đã chú giải như thế nào?”.
Tô Mạch Diệp sững lại, lão tiên giả cũng sững lại, sau đó mới nói: “Đá Thiên Mệnh khắc thiên mệnh của thần tiên, Đế Quân cũng biết, mặc dù có cách nói số kiếp định sẵn, nhưng thiên mệnh mà người khác không biết mới được định sẵn, nếu người khác đã biết về thiên mệnh, nó sẽ thay đổi theo, cho dù hôm nay lão nói cho Đế Quân biết trên đá Thiên Mệnh khắc những gì về mối quan hệ giữa Đế Quân và vị điện hạ kia, nhiều nhất là ngày hôm sau, những thứ khắc trên đó sẽ không giống như ngày hôm nay nữa, có thể sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt, cũng có thể thay đổi theo chiều hướng xấu, nếu Đế Quân hỏi xong, mối nhân duyên với vị điện hạ kia trở nên xấu đi thì làm thế nào, lão cho rằng Đế Quân… vẫn không nên hỏi thì hơn”.
Trận gió lớn do thuật Điệp Trụ gây nên vẫn không ngừng thổi, Đông Hoa lạnh lùng nói trong cơn gió dữ dội: “Còn có điều gì tệ hại hơn việc bản quân không có duyên phận với Đế cơ của Thanh Khâu?”.
Lão tiên giả tỏ vẻ kinh ngạc, nhưng chỉ thoáng hiện qua trên khuôn mặt, lại thở dài nói: “Đế Quân tiên liệu rất đúng, Đế Quân và vị tiểu điện hạ của Thanh Khâu này, vốn dĩ là không hề có dù chỉ nửa phần duyên phận.
Tiểu điện hạ một lòng yêu Đế Quân, mặc dù khiến người cảm động, nhưng chuyện duyên phận, lại không thể dựa vào sức người.
Theo những gì vốn được khắc trên đá Thiên Mệnh, vị tiểu điện hạ này… tình cảm si mê cũng đành phải chôn vùi, những nỗi đau khổ đã gánh chịu đều trở thành vô ích.
Tuy nhiên”, đắn đo giây lát, nói: “Ba trăm năm trước Đế Quân đã đưa bóng mình xuống hạ giới, trên đá Thiên Mệnh sinh ra một biến số”.
Đế Quân trầm giọng nói: “Nói tiếp đi”.
Lão tiên giả vuốt râu nói: “Bóng của Đế Quân hạ giới, tiểu điện hạ cũng đưa bóng của mình hạ giới để theo đuổi Đế Quân, sự cố chấp này thật hiếm có, không biết liệu có phải đã khiến trời xanh cảm động hay không, sau khi bóng của tiểu điện hạ hạ giới, trên đá Thiên Mệnh lại tạo một mối nhân duyên cho hai cái bóng này.
Thiên mệnh đã định, mối nhân duyên của hai cái bóng này bắt đầu từ trong một hang rắn, người được cứu sẽ lấy thân mình để báo đáp, người tới cứu sẽ được như ý nguyện, cuộc đời tuy cũng gặp chút trắc trở, nhưng không phải là những trắc trở quá lớn, sẽ được hạnh phúc viên mãn tới già”, lão tiên giả đưa mắt liếc nhìn Tô Mạch Diệp một cái: “Nhưng vị tiên liêu này lại vô tình xen vào, không may đã làm loạn số mệnh, sinh ra những trở ngại khác, chuyện thiên số, chỉ thay đổi một chút đã thay đổi toàn bộ, dẫn đến việc hai người vốn có duyên phận với nhau lại trở nên vô duyên vô phận.
Phải làm thế nào đây, thật đáng tiếc, đáng tiếc”.
Sắc mặt của Tô Mạch Diệp trở nên trắng bệch, nói: “Ta lại vô tình trở thành kẻ có tội ư?”.
Lão tiên giả nói: “Mọi sự việc đều có hai mặt, không thể chỉ nhìn nhận theo một phía, mặt này là có tội, chưa biết chừng mặt khác lại là một công đức, tiên liêu không cần quá bận tâm như vậy, nếu chỉ xét về chuyện này, Đế Quân thực ra còn cần phải cảm ơn ngài”.
Ông thở dài: “Hai vị đó duyên phận còn chưa hết, nhưng cái bóng lại không có kiếp sau, đá Thiên Mệnh bèn đem mối duyên còn chưa hết của họ gắn vào Đế Quân và tiểu điện hạ, do đó mới có cuộc gặp gỡ chính thức giữa tiểu điện hạ và Đế Quân sau này, nếu không như vậy, số mệnh của Đế Quân và tiểu điện hạ phải là mãi mãi không thể gặp được nhau”.
Nói đến đây, lại có chút đắn đo, nói: “Đế Quân và tiểu điện hạ giờ đây thực ra cũng có thể coi là có duyên, chỉ có điều Đế Quân đã hỏi rồi, ngày mai đá Thiên Mệnh tất nhiên sẽ có thay đổi, Đế Quân và tiểu điện hạ sau này có duyên hay vô duyên, lão không thể phân biệt được, chỉ là lão cảm thấy rằng, nếu chút nhân duyên mỏng manh khó khăn lắm mới có được lại tan biến vì sự dò hỏi của Đế Quân, thì có phần đáng tiếc”.
Đông Hoa lạnh nhạt nói: “Thiên mệnh nói có duyên thì sao, vô duyên thì sao, bản quân chưa từng sợ thiên mệnh, cũng không cần thiên mệnh bố thí”.
Lão tiên giả chấn động, chắp tay vái, nói: “Lão nghe nói Đế Quân đã thoái ẩn, càng ngày càng không bận tâm đến thế sự, hôm nay gặp mặt, chủ nhân vẫn là chủ nhân, những lời nói vừa rồi của lão chắc có phần vượt quá giới hạn, nhưng thấy chủ nhân như vậy, lão cảm thấy vô cùng vui mừng”.
Trong khi lão tiên giả tiếp tục vái lạy, mái đình bỗng rung chuyển mạnh, gạch ngói rơi xuống nền đất, gỗ đá lăn lông lốc, Tô Mạch Diệp vịn vào cột đình, nói với Đông Hoa: “Là do thuật Điệp Trụ sao?”.
Đế Quân đưa tay lên rút thanh kiếm Thương Hà vẫn cắm trên cột đình, nói: “Là do Trầm Diệp”.
Gió mát vẫn như bình thường, trăng bạc vẫn như bình thường, nhưng dưới trăng thanh gió mát, thế giới do Trầm Diệp tạo ra lại đang rung chuyển dữ dội, núi cao đổ sập nước chảy đổi dòng, tiếng người khóc than vang lên không ngớt bốn phía xung quanh, đó là dấu hiệu của việc thế giới này sắp sụp đổ.
Trầm Diệp – chủ nhân tạo dựng nên thế giới này đã muốn tìm đến cái chết, thế giới này đương nhiên sẽ sụp đổ khi bọn họ tìm thấy Trầm Diệp bên bờ sông Tư Hành, quả nhiên thấy chàng ta đã chìm sâu xuống nước.
Dòng Tư Hành tung bọt trắng xóa thường ngày giờ phẳng lặng như một tấm gương, dòng nước đục giờ cũng hóa thành nước suối trong vắt, có thể nhìn rõ khuôn mặt yên bình tuấn mỹ của thần quan áo đen dưới đáy sông, dường như chưa từng có nỗi đau nào, cũng chưa từng có phiền muộn nào.
Tô Mạch Diệp không thể nói rõ được mình cảm thấy đồng cảm hay áy náy đối với Trầm Diệp, trên thế gian này có mối tình vì ngẫu nhiên mà bất thành như thế này, rõ ràng là hai người có tình cảm với nhau, nhưng lại phải cách biệt chân trời góc bể, ban đầu là sinh ly, sau đó là tử biệt.
Thế nhân nói khi yêu, điều đau khổ nhất là sống không thể gặp gỡ, chết không thể ở bên nhau.
Thế nhân nói như vậy là có phần giảm nhẹ.
Khi yêu, điều khiến người ta đau lòng nhất phải là rõ ràng rất yêu nàng, nhưng tới khi chết nàng vẫn không hề hay biết, còn ngươi thì không thể nào cho nàng biết được nữa.
Tô Mạch Diệp cất lời: “Thực ra ta vẫn luôn nghi hoặc, Trầm Diệp đã tạo ra mộng cảnh này, tại sao lúc đó còn cứu Quất Nặc, để bi kịch lại xảy ra trong mộng cảnh này như đã từng xảy ra trước đây chứ?”.
Đông Hoa lạnh lùng nói: “Cứu Quất Nặc mới có thể ép Khuynh Họa phản lại Thượng Quân, Thượng Quân chết chàng ta chắc sẽ tìm cách để A Lan Nhược kế vị, kiếp trước, A Lan Nhược chết vì không có quyền lực, chắc hắn muốn cho nàng thứ đó, cho dù hắn không ở đó, cũng vẫn có thể bảo vệ được nàng”.
Tô Mạch Diệp im lặng.
Khi định thần lại, thấy Đế Quân vuốt nhẹ trên vầng trán của Phượng Cửu lúc này vẫn đang say ngủ, giữa các ngón tay tụ lại một chùm sáng màu trắng bạc, Tô Mạch Diệp buột miệng nói: “Đây là…”
Đế Quân tiếp lời: “Khí trạch của A Lan Nhược mà Trầm Diệp nhọc công thu thập mặc dù bị Tiểu Bạch nuốt gọn rồi, lại phân tách nó ra thực cũng không phải là việc khó”.
Vừa nói vừa tách đôi mặt nước sông Tư Hành, dòng nước biếc cuộn sóng, chùm ánh sáng màu trắng đó từ từ thâm nhập vào cơ thể của Trầm Diệp.
Khi sóng nước khép lại, đã không còn nhìn thấy hình bóng của thần quan áo đen dưới đáy sông nữa, trong nước lại mọc lên một cây tứ quý song sinh, cây vươn cao ngút trời, hoa nở đầy cành.
Đông Hoa giơ tay lên, cây tứ quý hóa thành cây non rơi vào lòng bàn tay chàng, chàng chăm chú ngắm nhìn trong giây lát, đưa cho Tô Mạch Diệp, nói: “Sau khi ra khỏi đây hãy đưa nó cho Tức Trạch, đem trồng trong Kỳ Nam thần cung”.
Tô Mạch Diệp đón lấy cây non, ấp úng nói: “Trầm Diệp nếu chết đi, hồn phách đương nhiên sẽ hóa thành bóng của Đế Tọa, trừ phi Đế Tọa…”.
Đông Hoa gật đầu nói: “Ta đã phong ấn nó trong cây này rồi”.
Dừng lại một lát, nói: “Ngay cả một nửa cái bóng hóa thành A Lan Nhược của Tiểu Bạch cũng được ta phong ấn trong đó.
Hai người bọn họ, vốn là người chết thì vạn sự đều tan biến, nhưng vạn sự trên thế gian nếu đều tuân theo lẽ thường tình thì khó tránh khỏi thiếu đi không ít điều thú vị.
Phong ấn họ vào trong đó, nghìn vạn năm sau, liệu bọn họ có thể có chút tạo hóa nào hay không, thì còn phải xem ý trời”.
Phía sau lưng bỗng nhiên xuất hiện lửa cháy dữ dội, tiếng rắc rắc không biết vang lên từ phương nào, giống như tiếng nứt của lưu ly, kiếm Thương Hà nghe động liền xuất bao, lập tức hóa thành hàng nghìn vạn bóng kiếm, kết thành một kiếm chướng vững chắc hơn tiên chướng hộ thể nhiều, bảo vệ tuyệt đối cho ba người bên trong kiếm chướng.
Cùng với một tiếng nổ rách trời, đến khi mở mắt ra nhìn, họ đã đang ở trong suối Giải Ưu của Phạn Âm Cốc.
Trên mặt hồ rỗng tâm với bốn bức tường nước xung quanh, Liên tam điện hạ của Cửu Trùng Thiên thò đầu ra ngoài bàn cờ, từ trên cao nhìn xuống, chào hỏi họ: “Ồ, ba vị anh hùng cuối cùng cũng trở về rồi”.
Chàng ta tươi cười rạng rỡ nói với người đối diện: “Bọn họ đã quay trở lại mà không hề tổn hại tới một sợi tóc, ván này bản tọa đã thắng một cách tuyệt đối rồi, ha ha, mau trả tiền đi, trả tiền đi”.
Một cái đầu đang ngủ gà ngủ gật trên bàn cờ lập tức nhổm dậy, lộ ra một khuôn mặt như hoa như ngọc, vừa nhìn thấy ba vị anh hùng bình an trở về, lập tức nổi giận nói: “Tiểu Cửu sao vậy, tại sao tên Mặt lạnh đứng thẳng đi ra còn Tiểu Cửu lại được bế ra, mỗ quả nhiên anh minh, sớm đã nói rằng Mặt lạnh không nhân nghĩa như mỗ, không biết thương hoa tiếc ngọc!”.
Tô Mạch Diệp chóng hết cả mặt, nhìn hai người trên mặt hồ, nói: “Đấu khẩu quả thực là một chuyện thú vị, nhưng nhị vị có thể tạm nghỉ một chút, tìm một nơi cho chúng ta nằm nghỉ không?”..