Lại nói đến chuyện tối hôm ấy, quần hùng chia nhau lục soát trong cung Bố Đạt Lạp, trước khi trời sáng thì gặp lại nhau, nhưng Dịch Lan Châu đã mất tích, cả Lưu Úc Phương cũng chẳng thấy bóng dáng đâu. Phó Thanh Chủ nói: “Đại quân của Dận Đề vẫn còn ở đây, trong đêm tối chúng không dám ra tay. Chúng ta phải xông ra khỏi thành trước khi trời sáng. Tôi ở lại đây tiếp ứng”. Quế Trọng Minh nói: “Tôi cũng muốn ở lại chờ Lăng đại hiệp!” Phó Thanh Chủ lắc đầu: “Không được, hiền điệt đã quên cuộc hẹn với Chưởng môn nhân phái Võ Đang Huyền Chân hay sao?” Trương Hoa Chiêu nói: “Nhưng tôi cũng muốn ở lại cùng sư thúc!” Phó Thanh Chủ mỉm cười, gật đầu nói: “Hiền điệt ở lại cũng có lý”. Thế rồi chia tay bọn Lý Tư Vĩnh, cùng mọi người nấp vào trong một ngôi chùa nhỏ.
Năm xưa Lý Tư Vĩnh chỉ huy mười vạn đại quân, tuy nhiên có tài của một bậc đại tướng, nên chia ba ngàn quân thành ba nhóm, một nhóm tấn công cửa Đông, một nhóm mai phục tiếp ứng, một nhóm đoạn hậu. Đợi sau khi lôi kéo chủ lực của quân Thanh di chuyển, đột nhiên nhóm trước đổi thành nhóm sau, tấn công ra Tây môn, quân Thanh đuổi theo, phục binh nổi lên, trong đâm tối lấy ít giả nhiều, lại thêm quần hùng ai nấy võ công cao cường, quân Thanh không biết hư thực, lại chia một nhóm đi cứu hỏa ở cung Bối Đạt Lạp, thế là Lý Tư Vĩnh cùng mọi người an toàn rút ra khỏi thành.
Sau khi thoát hiểm, tốp nhân mã này đi nhiều ngày đến ranh giới Tây Tạng. Lúc này trời đã về chiều, Lý Tư Vĩnh trên cao đứng nhìn, chỉ thấy mây khói bàng bạc, kêu ồ một tiếng: “Quân Thanh ở ranh giới đã rút lui, không biết cớ gì?” thế rồi dễ dàng xông qua phòng tuyến, không đến mười ngày thì trở về thảo nguyên Cáp Nhĩ Tâm, trên đường chẳng gặp quân địch, khi hỏi ra mới biết Khang Hy sợ lạnh nên mấy ngày trước đã kéo quân quay về.
Quế Trọng Minh co ngón tay đếm, kỳ hẹn với Huyền Chân đạo trưởng ở núi Thiên Sơn sắp tới. Vì thế chàng cùng Mạo Hoàn Liên trở về Nam Cương trước, hỏi ý Phi Hồng Cân, nào ngờ Phi Hồng Cân cũng một mình lên Thiên Sơn vào hai ngày trước, Mạo Hoàn Liên nói: “Muội thấy trong này chắc chắn có việc gút mắc, Phi Hồng Cân không sớm không muộn mà lại lên Thiên Sơn ngay lúc này, chắc chắn có nguyên cớ. Chi bằng chúng ta để lại thư, nếu Lăng đại hiệp và Lan Châu tỷ tỷ trở về thì bảo họ cũng lên Thiên Sơn”. Quế Trọng Minh đều nghe theo lời của Mạo Hoàn Liên.
Qua nửa tháng, hai người đã tới chân núi Lạc Đà của dãy Thiên Sơn, Mạo Hoàn Liên nói: “Huynh có còn nhớ chuyện gặp Tân Long Tử không? Không ngờ hôm nay trở lại vị quái hiệp ấy đã buông tay ra đi, trên núi chỉ còn lại hài cốt của sư phụ y”. Quế Trọng Minh nói: “Huynh cũng không ngờ trở thành đệ tử cách thế của Trác đại hiệp. Không biết Chưởng môn sư thúc có chịu cho huynh trở thành môn hạ hay không?” nói chưa dứt lời, chợt nghe trên núi Lạc Đà vọng ra tiếng hú kỳ dị, tiếp theo là tiếng quát tháo. Chỉ trong khoảnh khắc tuyết từ trên đổ sụp xuống, nơi họ đứng tựa như bị động đất! Cảnh ấy chẳng khác gì lúc gặp Tân Long Tử ở núi Lạc Đà, nhưng lúc này càng kinh hãi hơn. Quế Trọng Minh nói; “Chả lẽ bên trên cũng có Tân Long Tử?” rồi chàng kéo Mạo Hoàn Liên chạy lên.
Lại nói Huyền Chân vì muốn lấy lại Đạt Ma bí kíp và cùng với việc chôn hài cốt của Trác Nhất Hàng, đã cùng sư đệ Huyền Thông, Huyền Giác và vợ chồng sư muội Hà Lục Hoa cùng với bảy đại đệ tử võ công cao nhất lên núi Lạc Đà, chờ đợi Quế Trọng Minh. Nào ngờ không thấy Quế Trọng Minh mà gặp một chuyện lạ.
Bọn Huyền Chân lên đến đỉnh núi, chợt nghe một tiếng hú rất dài, nhưng rất chối tai. Huyền Chân kinh hãi. Tiếng hú cứ nối nhau không ngớt, lúc thì nghe như tiếng trẻ con khóc đêm, lúc thì nghe như tiếng sư tử gầm, cũng có lúc nghe như tiếng quạ kêu trong đêm, rõ ràng là không phải một người. Nhưng nhìn xuống thì chẳng thấy bóng ai. Huyền Chân mắng: “Yêu nghiệt phương nào, dám lớn gan hù dọa đạo gia?” thế rồi cùng mọi người xông về hố băng nơi Tân Long Tử ẩn thân ngày trước.
Trong hố băng vọng ra một tiếng cười lạnh, Huyền Chân rút kiếm quát lớn một tiếng cùng mọi người xông vào, Hà Lục Hoa đốt ngọn hỏa tập lên, đột nhiên bà ta kinh hãi, trong hố băng có một cái bệ bằng đá, trên bệ có một bộ xương, đó chính là thi thể của Trác Nhất Hàng, nhưng khi Trác Nhất Hàng con sống người cao bảy thước, anh tuấn lạ thường, nhưng bộ xương này chỉ có ba thước, trông giống như xương của đứa trẻ. Bên cạnh bộ xương là một bà già tóc bạc, rõ ràng là Bạch Phát Ma Nữ! Hơn hai mươi năm trước Hà Lục Hoa đến Hồi Cương thăm Trác Nhất Hàng, đã bị Bạch Phát Ma Nữ đuổi đi, đến hôm nay nhớ lại vẫn còn lạnh mình! Bà ta thối lui một bước, giơ ngang kiếm quát: “Bạch Phát Ma Nữ, chúng ta không thù không oán, Trác đại hiệp đã chết, hôm nay vợ chồng tôi đến đây chẳng xâm phạm gì đến bà”. Bạch Phát Ma Nữ xuôi tay nhắm mắt, chẳng hề nhúc nhích. Huyền Chân chợt ngẩng đầu lên, chỉ thấy trên vách có ba hàng chữ, hai hàng ở hai bên là: “Trải qua sóng gió không còn ý nghĩ sinh tử, kinh qua phong sương đã thấy lòng lạnh lẽo!” hàng ở giữa đề rằng: “Ai dám động vào xương cốt của hai chúng ta, đừng mong sống mà ra khỏi cửa này!” chữ nào cũng khắc sâu vào trong đá mấy phân, rõ ràng đó là do Bạch Phát Ma Nữ dùng ngón tay vạch vào. Huyền Chân tuy võ công thâm hậu nhưng cũng phải giật mình.
Chợt một luồng gió lạnh nổi lên, câu hỏa tập tắt ngấm, có người cười lạnh nói: “Các người quả thật đã dám đến đây?” Hà Lục Hoa kinh hoảng, nhảy lui ra phía sau, Huyền Chân kéo hai sư đệ kêu lớn: “Lui mau!” rồi nhảy vọt ra khỏi hang.
Năm xưa Bạch Phát Ma Nữ đấu kiếm với phái Võ Đang, đánh bại tứ đại trượng lão, đả thương Bạch Hạc đạo nhân, cho đến nay phái Võ Đang vẫn coi đó là một mối nhục, gió lạnh nổi lên ái nấy đều kinh hoảng nhảy ra ngoài. Chỉ thấy trong động có một người đàn bà tóc cũng bạc trắng nhưng dung mạo đẹp đẽ, Hà Lục Hoa kêu lên: “Phi Hồng Cân, té ra là ngươi!”.
Phi Hồng Cân tay trái cầm roi, tay phải cầm kiếm lớn giọng quát: “Các người là ai mà dám dòm ngó kim thân của sư phụ ta!” té ra trong ngày Bạch Phát Ma Nữ đại thọ một trăm tuổi, được Trương Hoa Chiêu đem hoa đến, cảm động bởi tình yêu của Trác Nhất Hàng giành ình, bởi vậy tìm lên núi Lạc Đà đào di thể của Trác Nhất Hàng lên. Lúc còn sống Trác Nhất Hàng rất yêu quí bộ mặt của mình, bởi vậy khi chết đã ra lệnh cho Tân Long Tử dùng thuốc tẩm liệm, xác tuy nhỏ lại nhưng xương cốt vẫn hoàn chỉnh tựa như đang sống. Bạch Phát Ma Nữ sợ rằng sau khi mình chết, kẻ thù sẽ đến cướp đoạt hài cốt nên mới bảo Phi Hồng Cân lên núi, chôn mình cùng với Trác Nhất Hàng.
Huyền Chân thấy người ấy không phải là Bạch Phát Ma Nữ thì thở phào, cây trường kiếm xỉa về phía trước, nói lớn: “Phái Võ Đang bọn ta lên đây đưa hài cốt của Chưởng môn đời trước về núi, đâu cần để ý đến sư phụ của ngươi!” Phi Hồng Cân hừ một tiếng, cây roi dài múa lên kêu soạt soạt, lạnh lùng nói: “Không được!”.
Huyền Chân tức giận nói: “Đó là chuyện của phái Võ Đang bọn ta, lẽ nào ngươi muốn xen vào?” Phi Hồng Cân cười lạnh nói: “Phái Võ Đang các người bớt lo chuyện bao đồng thì Trác đại hiệp và sư phụ ta không đến nỗi như thế này. Trác đại hiệp đã để lại di thương muốn hợp táng với sư phụ ta. Các người dám động đến hài cốt của ông ta, hãy nếm trước một roi của ta đã!” Huyền Chân chợt cả giận, chĩa cây kiếm tới, bảy đại đệ tử đều xông ra tựa như muốn động thủ. Chợt dưới núi có tiếng hú dài, Phi Hồng Cân biến sắc nói: “Các người chạy au, Tây Vực tam yêu đến!” Tây Vực tam yêu mỗi người đều có võ công độc môn Đại yêu Tang Càn luyện Thất tuyệt chu hồn kiếm, trên cây kiếm có độc hễ kiến huyết thì phong hầu. Nhị yêu Tang Hồ luyện Đại Lực Kim Cương chưởng, công phu ngoại gia đã đến mức đăng phong tạo cực. Tam yêu Tang Nhân luyện Âm Dương Phách Phong chưởng, hễ trúng chưởng thì ngũ tạng vỡ nát. Cả ba người này năm xưa ngang ngược ở chốn Tây Vực, bởi vì luyện công phu quá hiểm độc nên được gọi là Tam yêu. Từ sau khi Bạch Phát Ma Nữ đến Thiên Sơn, không cho Tam yêu đứng chân ở Hồi Cương, Tam yêu không phải là đối thủ của bà ta nên bị đuổi đến Tây Tạng. Ba mươi năm qua mai danh ẩn tích, nay dò hỏi được Hối Minh thiền sư và Trác Nhất Hàng đã qua đời, Bạch Phát Ma Nữ đã lâu không lộ diện bởi vậy mới dắt đồ đệ lên phía Bắc của Thiên Sơn, toan đánh cắp quyền kinh kiếm quyết của Hối Minh thiền sư, sau đó sẽ đấu với Bạch Phát Ma Nữ.
Huyền Chân biết rõ lai lịch của Tây Vực tam yêu, sắc mặt thay đổi, chẳng đấu với Phi Hồng Cân nữa mà vội vàng bảo đệ tử đứng nối đuôi nhau thành một vòng tròn, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh. Tiếng hú dài vang vọng trong không trung rồi đột nhiên ngừng lại. Tây Vực tam yêu cùng mười tên lâu la đã lên đến đỉnh núi. Thấy bọn Huyền Chân đứng thành một vòng tròn thì cười gằng, chẳng nói tiếng nào đã xông tới như hung thần ác sát!
Huyền Chân biết tam yêu rất lợi hại nên tịnh khí ngưng thần, chặn cây trường kiếm ra phía ngoài, chặn cây tru hồn kiếm của đại yêu lại, đại yêu quát: “Hay lắm!” rồi cây độc kiếm vung lên, hai kiếm bắn ngược trở ra, Tam yêu Tang Nhân cười lạnh nói: “Sao Trác Nhất Hàng lại bảo bọn tạp mao này canh giữ xác cho y?” rồi hai chưởng đẩy ra liên tục, Huyền Thông quát lớn một tiếng, cây phương tiện sản bị đánh bật ra, Huyền Chân hạ người, cây độc kiếm của Đại yêu Tang Càn quét xuống phía dưới, Phi Hồng Cân phất ra một roi nhanh như điện chớp, cuộn vào cổ tay của Tang Càn, Tang Càn xoay người, tránh qua một bên.
Huyền Chân thoát hiểm, thầm kêu: “Nguy hiểm thật!” Nhị yêu đánh ra một chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, bảy đại đệ tử của Huyền Chân vội vàng né tránh, vòng tròn bị phá vỡ! Hà Lục Hoa khinh công cao siêu, phóng vọt người lên cao hơn một trượng, từ trên cao đâm xuống một kiếm vào vai của nhị yêu, Tam yêu chụp tới, giật kiếm của Hà Lục Hoa, Phi Hồng Cân phóng tới một roi, đoản kiếm đâm thẳng vào, Tam yêu chụp hụt, Đại yêu vội vàng chạy tới chặn lại.
Trong lúc Huyền Chân, Phi Hồng Cân, Hà Lục Hoa và Tam yêu ác đấu, bảy đại đệ tử cùng với hai sư đệ của Huyền Chân cũng động thủ với bè đảng của tam yêu. Trên ngọn núi Lạc Đà tiếng quát tháo vang lên không ngớt. Nhị yêu Tang Hồ cầ, cây đại lực Kim Cương chử đâm trái quát phải, bảy đại đệ tử của phái Võ Đang chạm vào binh khí của y đều thấy hổ khẩu đau nhói, có hai người công lực tương đối kém đã bị đánh bay trường kiếm.
Trong lúc ác chiến, Huyền Chân, Phi Hồng Cân, Hà Lục Hoa vẫn có thể chống trả nổi. Huyền Thông, Huyền Giác và bảy đại đệ tử thì đã nguy hiểm, Nhị yêu Tang Hồ múa tít cây Kim Cương chử hung mãnh dị thường. Huyền Chân đâm hờ ra một kiếm, để Phi Hồng Cân điền vào chỗ trống, tiếp kiếm Đại yêu Tang Càn, còn mình thì vung kiếm đấu với Tang Hồ, ông ta phải dốc hết sức mình mới có thể chống trả nổi. Tam yêu Tang Nhân liên tục phóng chưởng, đẩy Hà Lục Hoa thối lui, y đột nhiên gầm lớn một tiếng phóng vọt người lên chụp về phía Huyền Chân. Huyền Chân lách người né tránh, cây Kim Cương chử của Tang Hồ đánh vì một tiếng, quét vào eo, Huyền Chân dù võ công cao hơn nhưng cũng không chặn nổi đòn hợp kích của hai tên yêu ma, trong khi né tránh cây trường kiếm đã bị Tang Nhân chụp mất, Huyền Chân thầm kêu: “Mạng ta đã xong!” rồi thối lui từng bước, lúc này đã đến mép vực.
Hà Lục Hoa, Huyền Giác thấy thế cả kinh nhảy bổ tới, chặn Tang Nhân lại, Tang Hồ đâm một chử xuống đầu Huyền Chân, Huyền Chân không màng sinh tử phóng vọt người xuống, chợt thấy ở eo có người dùng lực đẩy lên, thế là được kéo lên trở lại!
Tang Hồ tưởng rằng đẩy được Huyền Chân rơi xuống núi, đang đắc ý thì chợt thấy một thiếu niên áo vàng kéo Huyền Chân phóng vọt lên trở lại, thế là y quát lớn: “Tên tiểu tử nhà ngươi muốn chết!” rồi quét tới một chử. Thiếu niên áo vàng ấy chợt gầm lớn một tiếng như sấm nổ giữa trời xuân, quát: “Ngươi dám bức hiếp sư thúc của ta”. Rồi hai tay nắm quyền, chân điểm xuống đất phóng vọt lên như mũi tên lao tới, xem ra đã sắp lao vào ngọn chử. Thiếu niên áo vàng đột nhiên vung tay phải, một luồng bạch quang phóng ra như điện chớp, Tang Hồ rùng mình, cây Kim Cương chử đã bị chặt một đoạn! Thiếu niên áo vàng ấy chính là Quế Trọng Minh! Y không biết cây Đằng Giao kiếm của Quế Trọng Minh quá lợi hại đến nỗi có thể chặt đứt cây Kim Cương chử của mình, tức giận ném nửa cây Kim Cương chử còn lại xuống đất, dùng tay không đoạt bảo kiếm của Quế Trọng Minh.
Lúc này tình thế chợt thay đổi, Quế Trọng Minh cầm bảo kiếm trong tay, đánh ra toàn những quái chiêu, biến hóa vô cùng. Tang Hồ cùng với vài tên bè đảng hợp lực với nhau mới có thể gắng gượng chống đỡ nổi. Huyền Chân múa cây kiếm nhảy vào vòng chiến, đấu với tam yêu.
Dù như thế, đôi bên vẫn ngang bằng nhau, bè đảng của tam yêu rất đông, mỗi người đều có võ công độc môn, nếu đơn đả độc đấu thì Phi Hồng Cân hơi chiếm được thượng phong, Huyền Chân chỉ có thể chống trả, Huyền Giác, Huyền Thông và các đại đệ tử hỗn chiến với tam yêu có tiến có lui, kín kẽ vô cùng.
Đang lúc kịch đấu, ở sườn núi có hai bóng người phóng nhanh như điện chớp, người đi đầu là một thiếu nữ, lớn giọng nói: “Mạo cô nương, đứng lo. Chúng tôi đến đây”. Nàng ta chính là Dịch Lan Châu, theo sau nàng ta là Phó Thanh Chủ và Trương Hoa Chiêu. Té ra nàng vốn muốn trở về Thiên Sơn tìm Trương Hoa Chiêu. Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên tình như cha con, ông ta nhớ Mạo Hoàn Liên, vả lại việc lớn đã xong nên cùng họ lên Thiên Sơn.
Bọn tam yêu thấy đối phương đã có viện binh, thế là phát động tấn công mạnh mẽ, ý muốn bắt một người trong phía đối phương để làm con tin. Mạo Hoàn Liên múa cây thiên hồng bảo kiếm sánh vai tác chiến với Quế Trọng Minh, Tang Hồ thấy nàng công lực hơi kém hơn, thế là vận chưởng vào bàn tay chụp tới, Quế Trọng Minh chém xéo tới một kiếm nhưng không trúng, chợt nghe Mạo Hoàn Liên kêu ối chao một tiếng, cây bảo kiếm đã bị y tóm trúng. Quế Trọng Minh cả kinh thất sắc, người vọt lên như cơn gió, đâm thẳng cây Đằng Giao kiếm vào lưng của đối phương, đang đâm tới thì chợt nghe Tang Hồ rú lên một tiếng rồi ngã xuống đất. Mạo Hoàn Liên cả mừng kêu: “Lăng đại hiệp đã đến!” Quế Trọng Minh quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Lăng Vị Phong thần uy lẫm lẫm đang đứng trên đỉnh núi, chàng tuy đi chậm một bước nhưng trái lại đã lên trước bọn người Dịch, Phó.
Lăng Vị Phong chỉ Tang Càn mắng: “Trên Thiên Sơn nào để cho bọn yêu nghiệt các ngươi làm càn? Hãy mau cút cho ta!” Tang Càn quát lớn: “Ngươi là ai mà dám nghênh ngang phách lối như thế?” Lăng Vị Phong nói: “Ngày Hối Minh thiền sư còn sống, không ai dám cầm kiếm lên núi, các ngươi có biết không?” Tang Càn nói: “Vậy ngươi là đệ tử của Hối Minh thiền sư?” Lăng Vị Phong nói: “Ngươi hãy bỏ binh khí xuống rồi cút xuống núi, ta có thể tha chết cho ngươi!”
Tang Càn mắng: “Ngươi có tài cán gì mà sánh với Hối Minh?” Lăng Vị Phong cười lạnh: “Nếu ngươi không phục thì cứ đấu thử xem!” Tam yêu Tang Nhân ôm xác Tang Hồ, khóc lớn rằng: “Đại ca, nhị ca đã bị Thiên Sơn thần mãng bắn chết!” Tang Càn ngửa mặt hú dài, quát rằng: “Bọn ta báo thù cho nhị đệ!” rồi cây độc kiếm lia lên trên không trung, cả người lẫn kiếm lao thẳng tới! Tang Nhân đặt Tang Hồ xuống, vung quyền chạy theo trợ chiến. Lăng Vị Phong quát: “Được, ta sẽ cho các ngươi chết mà không oán! Trọng Minh, Lan Châu, hai người tước binh khí của bọn người này rồi đuổi chúng xuống núi!”.
Tang Nhân cậy có chưởng phong lợi hại, chưởng trái chém tới trước ngực, chưởng phải co năm ngón như móc câu, chụp xuống be sườn, chiêu này tên gọi Ô long thám trảo, chưởng lực rất nặng, hễ đánh ra, những vật cách chưởng tâm bảy thước dù cứng rắn như gỗ đá cũng phải xuyên thủng, nếu là thân người chỉ cần bị chưởng phong quét trúng thì xương cốt gãy lìa. Lăng Vị Phong hạ người xuống, lách người ra phía sau lưng của Tang Nhân, chưởng phải giơ ra quét vào ba đường của Tang Nhân, chưởng này ẩn chứa Thiết tỳ bà chưởng lực, dù là có công phu như Thiết bố sam hay Kim chung tráo, nếu bị đánh trúng thì cũng sẽ bị tản mát! Tang Nhân vừa tiếp luồng chưởng phong, biết ngay sự lợi hại nên lập tức thu bụng hóp ngực lùi ra phía sau, Tru hồn kiếm của Tang Càn từ trung lộ đâm thẳng ra trước ngực, Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, hai ngón tay kẹp vào thân kiếm, chưởng trái chợt hóa thành quyền, đấm vù xuống một quyền! Tang Càn vội vàng hạ người xuống, quyền phong lướt qua đỉnh đầu, Tang Nhân trở tay đánh lại một chưởng, Lăng Vị Phong múa chưởng lên đỡ lại, ầm một tiếng, hai luồng chưởng phong chạm nhau, Tang Nhân gầm lớn một tiếng như hổ gào rồi lui xuống! Lăng Vị Phong thầm nhủ: “Hai tên yêu nghiệt này quả có bản lĩnh!” thế rồi chàng triển khai Thiên Sơn chưởng pháp kêu lên vù vù, gió mưa không lọt!
Lăng Vị Phong đã hoàn toàn hiểu được quyền kinh yếu quyết của Hối Minh thiền sư, lại thêm từ ngày xuống núi đã tìm hiểu võ công của các nhà các phái nên công phu đã đạt đến mức lư hỏa thuần thanh, xuất thần nhập hóa! Ba người đấu được bảy mươi chiêu, hai tên yêu ma chỉ có thể chống đỡ chứ không thể trả đòn. Tang Nhân vừa lo vừa nôn, muốn dùng hiểm chiêu, cầu thắng trong bại, thế là chưởng trái đẩy vào ngực của Lăng Vị Phong, chiêu này tên gọi Kim Giao Tiễn Vĩ, hai chưởng cùng đẩy ra, chỉ cần Lăng Vị Phong giơ ngang chưởng gạt lại thì y sẽ biến thành Ô Long Xuyên Tháp, Ngân Long Đấu Giáp, Kim Long Quy Hải nhanh như điện chớp. Lăng Vị Phong nào trúng kế, vai phải chàng đưa ra sau, người lách qua một bên, hai chưởng phân ra, đấm thẳng vào be sườn phải của Tang Nhân bình bình hai tiếng. Thân hình của Tang Nhân bay vọt lên cao đến bốn năm trượng như một trái cầu da, trên không trung y kêu thảm một tiếng rồi rơi xuống ngọn Lạc Đà!
Tang Càn múa cây độc kiếm chém ngược lại, Lăng Vị Phong vung hai tay phóng vọt người lên rồi hạ xuống, chụp lấy bối tâm của Tang Càn, quát: “Ngươi cũng cút xuống núi cho ta!” rồi chàng vung tay lên, Tang Càn cũng bị ném xuống như một trái bóng da.
Phía bên kia Quế Trọng Minh và Dịch Lan Châu cũng múa hai thanh bảo kiếm, chỉ thấy hai luồng bạch quang loang loáng như nước ngân hà đổ xuống, chẳng phân biệt được bóng người, sau khi Lăng Vị Phong hạ được Tang Nhân và Tang Càn, Quế Trọng Minh và Dịch Lan Châu cũng thu kiếm, dưới đất toàn là những binh khí bị gãy, bè đảng của ba tên yêu ma chẳng ai còn vũ khí lành lặn, Lăng Vị Phong quát: “Kẻ thủ ác đã bị tiêu diệt, những kẻ còn lại hãy cút xuống núi!” bè đảng của tam yêu ù té chạy xuống núi.
Huyền Chân thấy Quế Trọng Minh võ công cao cường, thở dài nói: “Tôi không dám nhận người làm sư điệt, người đã học được Đạt Ma kiếm pháp, đó là duyên phận của người! Từ nay tôi cũng không làm Chưởng môn phái Võ Đang nữa, xin nhường cho người!” Quế Trọng Minh kêu lên: “Này, sư thúc, hãy thong thả đã. Tôi làm sao biết làm Chưởng môn?” Huyền Chân cũng không quay đầu, cùng vợ chồng Hà Lục Hoa xuống núi, bảo lại với bảy đệ tử: “Các người hãy ở đây an táng các sư tổ, nếu muốn học Đạt Ma kiếm pháp thì hãy theo Chưởng môn sư huynh của các người!”.
Quế Trọng Minh muốn đuổi theo nhưng Phó Thanh Chủ đã kéo chàng lại.
Dịch Lan Châu vừa lo vừa mừng, nói: “Lăng thúc thúc, không ngờ gặp người ở đây. Người có biết không, Lưu cô nương...”.
Lăng Vị Phong nói: “Ta quay trở về là có một tâm sự”.
Dịch Lan Châu nói: “Tâm sự? Tại sao thúc thúc lại bỏ Lưu cô nương ra đi mà không một lời từ biệt, thúc thúc nghĩ nàng sẽ đợi thúc thúc ở đây?”.
Lăng Vị Phong nói: “Ta biết nàng sẽ không làm thế. Ta trở về là muốn lập một ngôi mộ giả cho cha của con, năm xưa cha của con chỉ đường cho ta lên Thiên Sơn. Vậy còn bức thư ta nhờ con gởi cho Lưu cô nương...”.
Dịch Lan Châu nói: “Xin thứ lỗi, con không thể đưa tận tay cho Lưu cô nương được”. Lăng Vị Phong hỏi: “Tại sao?” Dịch Lan Châu nói: “Nàng cũng như thúc thúc, ngay sáng hôm ấy đã để lại một phong thư rồi bỏ đi. Con không gặp được nàng. Cả hai phong thư con đều giữ ở đây, lát nữa con sẽ giao cho thúc”. Lăng Vị Phong lẩm bẩm: “Ta biết thế nào nàng cũng làm thế. Ta đã đoán được nàng đã viết những gì. Con đừng vội trao cho ta, làm xong việc rồi tính tiếp”. Dịch Lan Châu nói: “Con cũng không đoán được các người suy nghĩ gì, hai người rõ ràng là một đôi tình nhân nhưng lại làm ra vẻ vô tình”.
Lăng Vị Phong thở dài: “Lan Châu, con không hiểu đâu. Có câu vô tình là hữu tình, khi tình chuyển sang sâu nặng thì trở nên nhạt nhẽo...”
Dịch Lan Châu nói: “Con không hiểu, con cũng không muốn hiểu. Con chỉ biết rằng hôm ấy thúc thúc đã từng mời Lưu cô nương lên Thiên Sơn ngắm tuyết, nhưng hôm nay thì thúc lại ngồi đây than thở một mình, không biết Lưu cô nương đã đi đâu rồi”. Lăng Vị Phong cười khổ: “Con vẫn không hiểu! Chúng ta không chỉ có trách oán than thở”.
Phó Thanh Chủ nói: “Ta biết nó đi đâu! Nó trở về Giang Nam, gặp lại thuộc hạ cũ của Lỗ vương”.
Quế Trọng Minh nói: “Phó bá bá, con cũng không nghĩ người đến đây”.
Phó Thanh Chủ cười nói: “Ta nuôi lớn Hoàn Liên, con cũng không có người thân, ta không đến thì ai chủ hôn cho các con?” Quế Trọng Minh cười hì hì còn Mạo Hoàn Liên thì đỏ ửng cả mặt.
Hiệp cốt nhu tình chôn hàn hải, anh hùng nhi nữ ẩn Thiên Sơn. Họ đã ở lại Thiên Sơn. Hai người Quế, Mạo thành hôn trước, Dịch Lan Châu vì phải thủ hiếu cho cha một năm nên tạm gác lại chuyện cưới gả với Trương Hoa Chiêu.
Phó Thanh Chủ sắp xếp hôn sự của họ rất chu đáo, cả một đôi đèn cầy long phụng cũng mua trước cho họ.
Trong đêm động phòng hoa chúc. Quế Trọng Minh ngắm cô dâu dưới ánh nến, chỉ cảm thấy Mạo Hoàn Liên đẹp hơn lúc bình thường. Chàng không biết nói những lời ngọt ngào, chỉ nhìn tân nương sững sờ. Mạo Hoàn Liên cũng không giấu được nỗi vui mừng trong lòng, tuy không cười nhưng mặt thì như hoa nở. Một hồi sau, Quế Trọng Minh thấy nàng nghiêm nghị mà thất kinh hỏi: “Hoàn Liên, muội không vui sao?”.
Mạo Hoàn Liên nói: “Ai bảo muội không vui?”.
Quế Trọng Minh nói: “Vậy muội đang nghĩ gì thế?”.
Mạo Hoàn Liên bật cười: “Muội đang nghĩ đến chàng thiếu niên ngốc nghếch là huynh đây, sao chỉ biết ngồi đờ đẫn ra?”.
Lúc này Quế Trọng Minh chẳng hề ngờ nghệnh tí nào, chàng nói: “Kẻ ngốc mới có phước, nếu không làm sao cưới được một người đẹp như tiên”. Thế rồi chàng vừa cười vừa ôm Mạo Hoàn Liên vào lòng.
Thực ra Mạo Hoàn Liên đang suy nghĩ đến một điều khác. Nhưng nếu nói “tâm sự” thì hơi “nghiêm trọng” một chút, nàng chỉ nhớ đến một người, đó là chàng Nạp Lan Dung Nhược ở tận kinh hoa. Nhớ lại ngày hôm ấy, trong căn lều ở Hồi Cương, nàng và Nạp Lan Dung Nhược đã từng trò chuyện với nhau suốt đêm.
Ở cách xa vạn dặm, trên lầu Bạch Ngọc nơi tướng phủ, Nạp Lan Dung Nhược cũng nhìn trăng nhớ người. Chàng đương nhiên không hề biết đêm nay là đêm động phòng hoa chúc của Mạo Hoàn Liên, chàng không hề biết Mạo Hoàn Liên cũng nhớ đến chàng.
Mộ giả của Dương Vân Thông cũng được xây xong, Lăng Vị Phong tế bái mộ giả của sư huynh xong, đang định xuống núi, nhưng lúc này chàng không cáo biệt Dịch Lan Châu mà đang đứng nhìn bức thư ngẩn ngơ.
Mười năm sau, Quế Trọng Minh trở thành tổ sư khai sáng chi phía Bắc của phái Võ Đang, chàng tuân theo di lệnh của Trác Nhất Hàng, nhận Trương Hoa Chiêu làm môn hạ của phái Võ Đang, học Đạt Ma kiếm pháp, coi như là sư đệ của Quế Trọng Minh. Lăng Vị Phong được nhận y bát của Hối Minh thiền sư, phát dương quang đại phái Thiên Sơn, Phi Hồng Cân thì trở thành Minh chủ của các tộc ở Hồi Cương. Bà ta ở Thiên Sơn thì ít mà đến thảo nguyên thì nhiều. Khi có chuyện gì xảy ra, Lăng Vị Phong đã đến giúp bà, đến khi xong việc thì trở về Thiên Sơn. Sau này Lý Tư Vĩnh chết trận ở Tứ Xuyên, vợ của chàng là Võ Quỳnh Giao vốn là đệ tử quan môn của Bạch Phát Ma Nữ, dắt hai đứa con gái trở về Thiên Sơn định cư. Người trong võ lâm trước đây có nói đến Thiên Sơn ngũ kiếm, Ngũ kiếm là Dương Vân Thông, Phi Hồng Cân, Sở Chiêu Nam, Tân Long Tử và Lăng Vị Phong. Sau khi ba người Dương, Sở, Tân chết đi, trên giang hồ lại đổi gọi thành Thất kiếm. Thiên Sơn thất kiếm ngoại trừ Phi Hồng Cân và Lăng Vị Phong còn có Quế Trọng Minh, Mạo Hoàn Liên, Dịch Lan Châu, Trương Hoa Chiêu và Võ Quỳnh Giao. Lưu Úc Phương tuy không ở Thiên Sơn nhưng cũng được gọi là Thiên Sơn chi hữu. Trong Ngũ kiếm có phản đồ Sở Chiêu Nam và kẻ nửa chính nửa tà Tân Long Tư, Thất kiếm lại thêm Lưu Úc Phương, người được gọi là Thiên Sơn chi hữu đều là anh hùng nhi nữ. Thất kiếm tuy lấy Thiên Sơn làm nhà, nhưng lúc nào cũng để tâm đến việc đời, thường xuống Thiên Sơn. Những câu chuyện truyền kỳ của họ được dệt thành y ca, hát iền thảo nguyên.
Chính là:
Đã quen ngang dọc ở giang hồ, lại đem ân oán nói từ đầu, như triều ái hận thường khó dứt. Khói sương mờ ảo che tầm mắt, Thiên Sơn kiếm khí lạnh hơn thu, Nga Mi tuyệt tái có người sầu.
(Viết theo điệu Cán Khê Sa)