Thiên Hạ Kiêu Hùng

Dương Nguyên Khánh nghe giọng y mười phần con buôn, liền gật đầu cười nói:

- Đa tạ Vương huynh, nếu rảnh ta sẽ đến.

Vương Sùng Nghĩa đứng dậy đi rồi, Dương Nguyên Khánh mới rời đi. Lúc này, lại nghe thấy từ ngoài quán rượu truyền đến giọng nói của một cô gái:

- A cô, cơm nước xong chúng ta đi dạo chợ Bắc tiếp đi!

Vài tên thân binh lập tức trốn ra phía sau cửa, sau đó, có hai thiếu nữa từ bên ngoài đi vào. Một người mười bốn mười lăm tuổi, dáng người cao gầy, mỹ mạo diễm lệ, là một thiếu nữ mới trưởng thành.

Mà người kia, mặc dù dáng người cao, khuôn mặt thanh tú nhưng cũng rất gầy. Rõ ràng là một tiểu nha đầu còn nhỏ, cũng chỉ khoảng mười tuổi. Hai người này chính là Công chúa Đan Dương Dương Phương Hinh và trưởng nữ Dương Băng của Dương Nguyên Khánh.

Hôm nay là ngày rằm, dựa theo phong tục, cần phải vào chùa lễ tạ thần phật. Bùi Mẫn Thu và Giang Bội Hoa liền đến Quan Âm đường ở tít phía tây ngoại ô, hướng Bồ Tát lễ tạ. Nhân cơ hội này, hai người mới chạy đến đây.

Đi dạo phố là việc mà các thiếu nữ đều rất thích, từ trước đến nay đều như vậy. Hai người tích lũy tiền bạc, nhân cơ hội này liền đến chợ Bắc mua một vài đồ vật lặt vặt.

Bây giờ là giữa trưa, hai người muốn ăn một chút gì đó nên tiến vào quán rượu. Vừa vào cửa liền nhìn thấy Dương Nguyên Khánh ở trước mặt, Dương Băng liếc nhìn Dương Nguyên Khánh một cái, kéo kéo Dương Phương Hinh nói nhỏ:

- A cô, vóc dáng người này có chút giống cha ta.

Nhóm thân binh của Dương Nguyên Khánh sớm nhìn thấy các nàng nên đã trốn đi, cho nên hai người có nằm mơ cũng không nghĩ ra người đàn ông trung niên trước mặt nhìn có chút quen mắt này lại chính là Dương Nguyên Khánh.

Dương Phương Hinh liếc nhìn Dương Nguyên Khánh, nàng cũng nhận ra là có điểm giống, nhưng mà làm sao có thể là hắn được, liền bĩu môi:

- Đừng nói càn. Làm sao cha ngươi có thể ăn mặc tục tằn như con buôn thế được?

Thính lực của Dương Nguyên Khánh khác hẳn người thường, tuy hai nàng cúi đầu nói nhỏ nhưng hắn đều nghe rõ. Lời của Dương Phương Hinh làm hắn cười khổ một tiếng, sau đó cười nói:

- Xem ra, ta phải mở miệng nói chuyện thì các ngươi mới nhận ra.

- Phụ thân!

Dương Băng nghe thấy giọng nói này, nàng vui mừng, bất ngờ hô lên một tiếng, nhảy tới ôm lấy cánh tay Dương Nguyên Khánh. Bỗng nhiên, nàng lại có chút làm nũng, liền dùng sức lôi kéo cánh tay phụ thân, nũng nịu hỏi han:

- Phụ thân, sao cha lại ở chỗ này?

- Đương nhiên là tới để bắt tiểu quỷ đầu này rồi!

Dương Nguyên Khánh gõ vào đầu của nữ tử đáng yêu này một cái, cười nói:

- Lại gạt nương con vụng trộm trốn đến đây có phải không?

- Không có vụng trộm trốn đi, con đi từ cửa chính ra.

Dương Băng tưởng thật sự là phụ thân đến bắt nàng trở về, trong lòng cảm thấy sợ hãi. Dương Phương Hinh thì biết Dương Nguyên Khánh đến đây không có liên quan gì đến hai người mình, nhưng trong nội tâm cũng rất khẩn trương, cắn môi không biết nên nói cái gì.

Dương Nguyên Khánh như cười như không nhìn nàng, chỉ vào quần áo của mình, hỏi nàng:

- Cách ăn mặc này thật sự rất giống con buôn sao?

Mặt Dương Phương Hinh bỗng đỏ lên, hóa ra hắn nghe được lời mình nói, nàng tiến lên trước, lãnh đạm nói:

- Cho dù là cải trang vi hành thì cũng nên chú ý đến hình thức một chút. Cách ăn mặc này của ngươi so với đám thương nhân hoặc nhà giàu mới nổi thì các khác gì nhau?

‘Hóa ra phụ thân không phải tới bắt ta.’ Dương Băng nghe thấy bốn chữ “cải trang vi hành”, trong lòng lập tức thoải mái.

Nàng đảo mắt, có phụ thân ở đây, tại sao phải tiêu tiền của mình. Tiền của mình vốn rất ít, vốn không đủ để ăn cơm, mua đồ. Nàng liền làm nũng nói:

- Phụ thân, con đói bụng.

- Đi thôi! Lên lầu hai đi.

Dương Nguyên Khánh nắm tay nữ nhi, nháy mắt với Dương Phương Hinh, sau đó đi lên lầu hai. Trong lòng Dương Phương Hinh đập loạn, không ngờ Dương Nguyên Khánh lại nháy mắt với mình, nàng muốn kiêu ngạo một chút, nhưng hai chân lại không tự chủ được mà đi theo.

Ba người ngồi xuống một cái bàn ở gần cửa sổ. Dương Nguyên Khánh ngồi một bên, Dương Băng và Dương Phương Hinh ngồi ở đối diện. Tiểu nhị tiến đến, khom người cười hỏi:

- Ba vị muốn ăn chút gì không?

Dương Nguyên Khánh cười nói với hai nữ nhân:

- Muốn ăn gì thì tự mình gọi đi.

- Ta muốn ăn cá, ta thích nhất là cá chép lớn sông Phần xốt đỏ, còn có cua xốt đường. Giờ là tháng mười, hẳn là có cua rồi.

Tiểu nhi đứng bên cạnh giơ ngón cái lên khen:

- Cô nương quả nhiên là người sành ăn, con cá chép lớn sông Phần này mới được câu lên sáng nay, còn rất tươi. Ngoài ra, hôm qua tiểu điếm mới nhập về một giỏ cua cống phẩm Ngô Trung, trong đó có hai đôi cua Kim Long Phượng, là thứ mà Tiên đế năm xưa thích ăn nhất. Có điều giá cả rất đắt, cô nương cần phải nghĩ cho kỹ.

Dương Nguyên Khánh rất hiều con gái, hắn biết thê tử trong nhà đề xướng tiết kiệm, loại cua tiến vua này chắc chắn là không được ăn, nhân tiện nói:

- Hai đôi cua Kim Long Phượng đều dọn lên đây.

Hắn lại hỏi Dương Phương Hinh:

- Đan Dương muốn ăn chút gì không?

Dương Phương Hinh hé miệng cười nói:

- Ta ăn chút rau quả là được rồi.

Dương Băng cướp lời:

- A cô nói người thích ăn nhất là lưỡi hươu chiên, một lần có thể ăn nhiều nhất là ba cái.

Mặt Dương Phương Hinh đỏ bừng, lặng lẽ bóp cánh tay Dương Băng một cái, thấp giọng trách móc:

- Nha đầu chết tiệt kia, ngươi nói bậy bạ gì đó, ta bảo thích ăn lưỡi hươu bao giờ?

Dương Băng vỗ tay mỉm cười:

- A cô thẹn thùng, hiếm thấy nha!

Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười, nói với tiểu nhị:

- Làm một đĩa rau quý các loại. Ngoài ra, mang lên hai cái lưỡi hươu hoang dã chiên, một phần thịt hươu sấy kho tương, ba phần bánh hồ, một bình rượu nho loại tốt nhất, được chứ?

Cho tới bây giờ, ở Tùy Đường, lưỡi hươu là một món ăn cực kỳ quý báu. Lưỡi hươu này không phải là loại hươu nuôi trong nhà mà là hươu sừng đỏ ở thảo nguyên, đầu lưỡi vừa dài vừa mịn, thường xuyên ăn cỏ non trên thảo nguyên, mùi vị càng giòn.

Loại lưỡi hươu này vốn là cống phẩm của triều đình, dân gian rất ít người biết đến. Sau khi triều Tùy diệt vong mới xuất hiện ở dân gian. Bình thường quán rượu bình thường cũng sẽ không bày ra, giấu ở trong hầm băng, làm món ăn quý của quán.

Tiểu nhị thấy bọn họ gọi cua Kim Long Phượng mà không chút do dự, biết bọn họ là kẻ có tiền. Nhưng lưỡi hươu lại không phải là món ăn bình thường, y có chút do dự, chạy đi tìm chưởng quầy.

Chưởng quầy rất nhanh tiến đến, tủm tỉm cười thi lễ:

- Khách quan, ta muốn nói rõ một chút. Quả thật là tiểu điểm có hai cái lưỡi hươu hoang dã, nhưng thật sự là rất đắt. Một cái ba trăm xâu tiền, hai cái là sáu trăm xâu tiền. Ta xin nhắc lại, hai cái là sáu trăm xâu tiền.

Dương Phương Hinh cuống quít xua tay:

- Không cần! Không cần! Ta không cần lưỡi hươu.

Dương Nguyên Khánh lại thản nhiên cười nói:

- Mười ngàn xâu tiền thì như thế nào? Chẳng phải ta đã gọi rồi sao, còn không mau đi chuẩn bị đồ ăn.

Chưởng quầy nhất thời líu lưỡi. Vì đại gia này không giống người thường! Thậm chí mười ngàn xâu tiền cũng không thèm để ý. Y vỗ vào bả vai tiểu nhị:

- Nếu khách quan đã gọi lưỡi hươu, còn không mau đi làm!

Dương Phương Hinh thấy Dương Nguyên Khánh đối với mình cực kỳ rộng rãi, trong lòng cảm thấy vui mừng, lại thấy ngọt ngào. Dù sao nàng cũng là Công chúa, đối với nàng mà nói, hai cái lưỡi hươu không là gì cả, cũng không phải là rất khó xử.

Dương Băng lại bắt được cơ hội, nàng tỏ vẻ tội nghiệp năn nỉ:

- Phụ thân, có thể cho con một chút tiền lẻ được không. Một tháng con mới được hai xâu tiền, muốn mua chút đồ vật cũng không đủ tiền.

Dương Nguyên Khánh lấy ra hai mươi mấy miếng ngân tiền, vừa cười vừa đưa cho hai nữ nhân:

- Đây là ngân tiền mới phát hành, có thể đổi được mười xâu tiền, hai người cầm đi!

Dương Băng và Dương Phương Hinh đều chưa từng thấy qua ngân tiền, cùng nhau cầm lên, tò mò đánh giá ngân tiền. Lúc này, chưởng quầy tự mình bưng đĩa rau củ quý lên, liếc mắt một cái, nhìn thấy đống ngân tiền trên bàn, ánh mắt sáng lên, vội vàng hỏi:

- Cô nương, chỗ ngân tiền này đổi cho ta đi! Một xâu tiền đổi một miếng.

Có tất cả hai mươi hai miếng ngân tiền, Dương Băng lấy hai miếng, nàng và Dương Phương Hinh mỗi người một miếng, còn lại hai mươi miếng ngân tiền đều đưa cho chưởng quầy, nghiêm trang nói:

- Phụ thân ta nói, có thể đổi được mười xâu tiền. Ta đây cũng không nói nhiều, nếu ngươi muốn đổi, đổi cho ngươi giá mười xâu tiền.

Chưởng quầy ngây ngốc một chút. Y biết tiêu chuẩn là một ngân tiền đổi được ba mươi tiền đồng. Cái giá cô nương này đưa ra có đắt hơn tiêu chuẩn một chút, nhưng cũng không tính là thiệt thòi, thật sự khó có cơ hội này. Y giơ ngón cái lên:

- Cô nương thật sự là người am hiểu!

Y chạy về quầy, lấy ra mười xâu tiền đổi lấy hai mươi miếng ngân tiền. Ông chủ vẫn muốn có ngân tiền mà không được, lần này mình có thể khiến ông chủ vui vẻ rồi. Y nói lời cảm kích rồi lui xuống.

Dương Băng lại vô cùng vui mừng, vậy là hai người có hơn mười xâu tiền, có thể mua được rất nhiều thứ. Dương Phương Hinh lại cảm thấy rất có hứng thú với miếng tiền bạc kia, đặt vào lòng bàn tay nhìn thật kỹ, thật cẩn thận cất vào trong cái túi nhỏ của mình.

Dương Nguyên Khánh nhặt một quả cam lên, vừa bóc vỏ, vười cười với hai người:

- Ăn quả cam trước đi. Đợi lát nữa dùng cơm xong, ta sẽ trở về. Thân binh sẽ để lại bảo vệ hai người. Hai người cũng về sớm một chút, biết không?

- Con biết rồi! Mong phụ thân đừng nói với đại nương và nương.

Dương Băng xoa tay năn nỉ.

Dương Nguyên Khánh cười ha hả:

- Ta sẽ nói là ta dẫn hai ngLúc này, đồ ăn bắt đầu được bưng lên. Hai đôi cua Kim Long Phượng này thực gia chính là cua đồng loại lớn của hồ Dương Lâm, nửa cân một con, phẩm chất vô cùng tốt, dùng vải bố lau sạch xác cua, sau đó cắt hình long phượng dán lên xác cua, lại dùng dây tơ vàng trói tám cái chân lại, cho nên mới gọi là cua Kim Long Phượng. Bình thường, loại này chỉ dùng làm cống phẩm, nhưng ở loại thành thị lớn như Thái Nguyên thì cũng có, chỉ có điều là giá cả cực đắt.

Cua Kim Long Phượng được bưng lên khiến cho các thực khách xôn xao bình luận. Mà sau khi lưỡi hươu nóng được bưng lên, lập tức làm chấn động cả quán rượu. Vì lễ phép nên không thể tiến đến tận nơi nhìn cho rõ, nhưng khắp nơi đều vang lên tiếng bàn luận. Có người bắt đầu tính toán, bữa cơm này của bọn họ phải hơn ngàn xâu tiền, chắc địa vị cũng không bình thường.

Chủ nhân của quán rượu cũng đã bị kinh động, y từ trên lầu đi xuống, đứng ở bậc cầu thang, liếc mắt nhìn Dương Nguyên Khánh một cái lập tức ngây ngẩn cả người. Dương Nguyên Khánh mang râu giả không tiện ăn cua nên đã tạm thời tháo xuống, ông chủ liếc mắt một cái liền nhận ra, người này… không phải là Sở Vương Dương Nguyên Khánh sao?

Trên đỉnh đầu ông chủ, treo bảng hiệu của quán rượu, bảng hiệu đề bốn chữ lớn “Bát phương tửu quán”.

Cửa Minh Đức thành Trường An, một gã kỵ sĩ áo đen đang lao tới như bay, mắt nhìn thấy cửa thành cũng không có chút ý định giảm tốc độ nào, thậm chí gã kỵ sĩ này còn giục chiến mã tăng tốc. Loại tình huống này chỉ xảy ra khi có khoái báo khẩn cấp ngoài tám trăm dặm. Những người chuyên môn làm nhiệm vụ truyền tin thế này có quần áo rất bắt mắt, còn có thể hô to, “Quân tình khẩn cấp ngoài tám trăm dặm!”

Mà gã kỵ sĩ trước mặt này lại rõ ràng không phải là người như vậy. Binh lính thủ thành giận dữ, gã Giáo úy cầm đầu dẫn theo chục binh lính cầm mâu xông tới:

- Dừng lại!

Gã Giáo úy lớn tiếng rống lên giận dữ.

Kỵ sĩ thoáng giảm tốc độ, cho tay vào ngực lấy ra một tấm lệnh bài, giơ nhoáng lên một cái, hừ lạnh một tiếng:

- Dọa mắt chó của ngươi!

Giáo úy sợ tới mức giật nảy mình, cuống quýt tay chân, sau đó hướng đến chỗ cửa thành hô:

- Tránh ra, để hắn qua!

Bọn lính đều tránh ra, kỵ sĩ lại giục chiến mã tăng tốc, như gió bay chớp giật vọt vào bên trong thành, rất nhanh đã biến mất không thấy bóng dáng. Lúc này, một tên binh lính mới thấp giọng hỏi Giáo úy:

- Đội trưởng, đây là Hoàng thân nào mà kiêu ngạo như vậy?

- Hừ! Hoàng thân thì ta đã không sợ!

Giáo úy cười lạnh một tiếng, nghĩ lại ký hiệu trên tấm lệnh bài bằng đồng kia, y lại không có lo lắng mà chỉ cảm thấy sợ hãi nói:

- Là Đường Phong!

- Đường Phong?

Binh lính bên cạnh sợ tới mức líu hết cả lưỡi. Đây là Tình báo đường vô cùng tàn nhẫn của triều Đường, quyền lực khôn cùng. Chỉ cần một câu nói ngươi là gián điệp triều Tùy là lập tức bắt lại, sau đó chết thế nào cũng không biết, tuyệt đối không được trêu vào!

Kỵ sĩ Đường Phong vọt qua cửa Minh Đức, giục ngựa chạy như bay trên đường Chu Tước, nhằm thẳng hướng phủ Tần Vương mà lao đến…

Ở phủ Tần Vương, Lý Thế Dân đang cùng Chủ mưu sĩ Phòng Huyền Linh và Trưởng sử Trưởng Tôn Thuận Đức thảo luận việc mở rộng Đường Phong. Mấy tháng nay, triều Đường mộ binh ở khắp nơi, chiêu mộ được hơn một trăm ngàn người khiến cho binh lực của triều Đường khôi phục lại con số ba trăm ngàn. Vừa rồi Lý Thân Dân cũng chiêu mộ được tám mươi ngàn người, giao cho đám người Đoạn Hoằng Chí, Ân Khai Sơn, Lưu Hoằng Cơ huấn luyện, đã huấn luyện được hai ba tháng.

Tuy rằng binh lực gia tăng nhưng hai tháng nay, tâm tình của Lý Thế Dân cũng không tốt, nguyên nhân là vì Phụ hoàng nhất định không ch尠thuận đề nghị tấn công Tiêu Tiển của y. Bởi vì Lý Mật phái Đơn Hùng Tín dẫn một trăm ngàn đại quân tiến về phía tây đánh Tiêu Tiển, mà Tiêu Tiển lại liên hợp với Đỗ Phục Uy chống lại quân Ngụy ở quận Cửu Giang.

Lúc này, sau lưng Tiêu Tiển hoàn toàn bỏ trống, hoàn toàn có thể nhân cơ hội này cướp lấy quận Dự Chương và quận Bà Dương. Lý Thế Dân cực lực khuyên bảo Phụ hoàng xuất binh, nhưng Thái tử Lý Kiến Thành lại nói năm nay là năm thiên tai, phải suy nghĩ đến gánh nặng của dân chúng. Tiêu Tiển chỉ là con ba ba trong hũ, sớm muộn gì cũng là vật trong túi, khuyên bảo Phụ hoàng không cần xuất binh, đề phòng quân Tùy xuôi nam.

Cuối cùng quân Lý Mật chưa quen thủy chiến, bị liên quân Tiêu - Đỗ đánh bại, chết mấy chục ngàn người phải lui về Giang Đô, còn Tiêu Tiển lui quân về đóng ở quận Bà Dương và quận Dự Chương, khiến cho cơ hội này cứ thế mất đi. Mà lúc này bọn họ mới nhận được tình báo, hóa ra Dương Nguyên Khánh tấn công Thanh Châu là giả, hắn tự mình dẫn quân đi đánh Triều Tiên, đoạt lấy lương thực và vật tư.

Tin tức này khiến cho Lý Thế Dân cực kỳ phẫn hận nhưng lại không thể làm gì. Phẫn hận cũng vô dụng. Nhưng không ngờ, Thái tử Kiến Thành lại nhân cơ hội này cáo buộc tội trạng của Đường Phong, nói bọn họ không kịp thời do thám, nắm bắt tin tức tình báo Dương Nguyên Khánh thân chinh Triều Tiên, làm chậm trễ quân cơ đại sự, khiến Lý Thế Dân bị Phụ hoàng hung hăng trắch mắng một trận.

Phòng Huyền Linh vuốt râu nói:

- Kỳ thật ta nghĩ Đường Phong ở Thái Nguyên đúng là có chút bất lực. Chủ yếu là không thu mua được quan viên trung tâm, một số tình báo trọng yếu không lấy được. Ta cảm thấy cũng không nhất định phải mở rộng Đường Phong, mà nên phái một người đắc lực hơn đến chủ trì Thái Nguyên. Năng lực của Lý Thủ Trọng vẫn hơi kém một chút.

Trưởng Tôn Vô Kỵ là chủ quản Đường Phong, y là người quen thuộc với tình huống của Đường Phong nhất. Y cũng gật đầu nói:

- Tiên sinh nói rất có đạo lý. Đúng là năng lực của Lý Thủ Trọng hơi yếu một chút, không thể thu mua đến quan viên trung tâm. Lần này có cơ hội Dương Nguyên Khánh tẩy trừ quan trường Hà Bắc, không ngờ y lại cứ thể bỏ qua. Ta cũng rất tức giận. Ta đồng ý thay người khác.

Lý Thế Dân trầm tư, thật lâu sau mới nói:

- Dương Nguyên Khánh tẩy trừ quan trường Hà Bắc, ít nhất cũng phải mất mấy tháng, hẳn là còn cơ hội. Lý Trọng Thủ ở Thái Nguyên đã lâu, tương đối quen thuộc tình huống. Nếu bây giờ đổi người, đợi sau khi người mới quen với tình huống, chỉ sợ lúc đó đến cơ hội cũng không có. Chúng ta có thể đốc thúc Lý Thủ Trọng không tiếc tiền vốn, lôi kéo quan viên có thực lực của triều Tùy, nắm giữ tin tức nội bộ của triều Tùy. Ta cảm thấy nên cho y một cơ hội.

- Điện hạ nói cũng đúng. Cho y thêm một cơ hội cũng không sao, chỉ có điều hy vọng Lý Thủ Trọng này không phụ sự kỳ vọng của Điện hạ.

Đang thương lượng, ngoài cửa bỗng xuất hiện một gã thị vệ:

- Khởi bẩm Tần Vương Điện hạ, Thái Nguyên Đường Phong có tình báo khẩn cấp!

Vừa nhắc đến Đường Phong, Đường Phong liền tới. Lý Thế Dân gật đầu:

- Cho y vào!

Thị vệ dẫn theo kỵ sĩ áo đen bước nhanh vào trong sảnh. Kỵ sĩ áo đen quỳ một gối, ôm quyền hướng Lý Thế Dân thi lễ:

- Ty chức Cảnh Tung, phụng lệnh Lý Đường chủ truyền tin đến Điện hạ.

Thị vệ bê một cái khay hồng, đem một phong thư và một túi tiền màu đỏ trình lên. Lý Thế Dân liếc qua túi tiền đỏ, nhặt phong thư lên trước. Y rút lá thư bên trong ra, run rẩy mở ra đọc vội một lần.

Trong thư nói triều Tùy phát hành một loại ngân tiền mới, hiện giờ loại tiền này trên thị trường rất nóng, mỗi người sau khi đoạt được đều đem cất giữ, căn bản là không lưu thông loại tiền này trên thị trường. Lý Thủ Trọng suy đoán, đây chỉ là lần thử nghiệm của triều Tùy, chắc chắn sau này sẽ triển khai phát hành quy mô lớn.

Ở cuối thư lại bổ sung một tin tình báo, không lâu trước đó, một đội tàu hơn trăm chiếc kéo đến Thái Nguyên, trên đội tàu chở rất nhiều nén bạc lớn, một khối bạc nén có trọng lượng hơn ba mươi cân.

Tin tình báo này khiến Lý Thế Dân hít vào một ngụm khí lạnh. Triều Tùy lại triển khai phát hành ngân tiền trên quy mô lớn. Y đưa lá thư trong tay cho Phòng Huyền Linh:

- Tiên sinh xem đi! Chỉ sợ không ổn rồi!

Phòng Huyền Linh nhận lấy lá thư, vội vàng đọc qua một lần, chân mày cau lại. Lúc này, ánh mắt Lý Thế Dân dừng lại ở túi tiền đỏ trên cái khay. Y nhặt túi tiền lên, giũ từ trong túi ra một chồng ngân tiền, có khoảng hai chục miếng, kích thước giống với tiền mới của triều Tùy nhưng dày hơn. Đây là loại ngân tiền mới của triều Tùy đang rất được quan tâm trên thị trường sao?

Lý Thế Dân nhặt một miếng ngân tiền lên, cẩn thận dùng ngón trỏ và ngón cái nắm ở bên cạnh miếng tiền, sau đó giơ lên cao, hướng về phía ánh sáng, híp mắt đánh giá miếng ngân tiền này. Gia công kỹ càng tỷ mỉ, bề mặt nhẵn nhụi, ở giữa có lỗ để xỏ dây, mặt trên khắc nổi bốn chữ “Nguyên hòa thông bảo”. Mặt trái là một chữ “ngân”, giống với tiền đồng của triều Tùy. Nhóm tiền đồng thứ hai của triều Tùy khi được đưa ra thị trường, thống nhất đổi thành “Nguyên hòa thông bảo” rồi, không còn gọi là ngũ thù tiền.

Phòng Huyền Linh xem xong thư, lại đưa cho Trưởng Tôn Vô Kỵ xem, sau đó nghiêm nghị nói với Lý Thế Dân:

- Điện hạ, chuyện này không phải nhỏ. Nếu triều Tùy có được lượng lớn vàng bạc, lại bắt đầu dùng bạc làm tiền, cái này chắc chắn sẽ đoạt lấy của cải trong thiên hạ. Nếu không thay đổi được chuyện này, chỉ sợ hai ba năm nữa, chắc chắn là Tùy mạnh Đường yếu. Đại Đường nguy rồi!

Lúc này Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng đã đọc xong thư, nhướng mày nói:

- Chúng ta có thể nghiêm cấm sử dụng loại ngân tiền này ở Đại Đường, cũng có thể đoạn tuyệt mậu dịch với triều Tùy, có lẽ có thể tránh được loại nguy cơ này.

- Vô dụng thôi!

Phòng Huyền Linh lắc đầu. Y đem một miếng ngân tiền đưa cho Trưởng Tôn Vô Kỵ:

- Loại ngân tiền này vừa nhìn liền biết là vật thượng hạng, chứa chín phần bạc trở lên. Cho dù chúng ta cấm lưu thông ngân tiền, nhưng thương nhân hoàn toàn có thể nung chảy lấy bạc, thậm chí triều Tùy cơ bản cũng không cần sử dụng ngân tiền, trực tiếp sử dụng bạc khối. Nhiều nhất chúng ta cũng chỉ có thể cấm đưa vật tư Quan Trung ra ngoài, hoàn toàn không thể kiềm chế vật tư ở Ba Thục, Kinh Tưởng chảy ra ngoài. Còn có trà gạo, gấm vóc Giang Nam. Nhất định sẽ có một lượng lớn chảy về phía triều Tùy. Trưởng Tôn Trưởng sử, hẳn là ngươi hiểu được điểm này. Loại ngân tiền này sẽ làm cho giá cả hàng hóa của Đại Đường tăng vọt, ca thán khắp nơi. Giống như giá hàng hóa tăng vọt vào đầu năm đó.

Kỳ thật không cần Phòng Huyền Linh phân tích, Lý Thế Dân cũng hiểu được loại ngân tiền này mang đến cho Đại Đường một nguy cơ thế nào. Trong lòng y vô cùng lo lắng, không kìm được cất giọng đầy căm hận:

- Đây là hậu quả của việc Hội Ninh bị thất thủ. Hiện tại có thể thấy, nếu như không ngăn chuyện này lại, Đại Đường sẽ bị hủy trên cái đồng bạc nho nhỏ này.

Phòng Huyền Linh lại chậm rãi nói:

- Điện hạ, vi thần có ba kế sách, có lẽ có thể tránh được mối nguy cơ này.

Lý Thế Dân mừng rỡ, vội vàng nói:

- Tiên sinh mời nói!

- Điện hạ, đầu tiên là phải tính “phá”. Phá hủy ngân tiền của triều Tùy. Chúng ta không ngại sử dụng đồng trắng chế thành ngân tiền của triều Tùy. Vàng thau lẫn lộn, khiến người Tùy không dám tin vào ngân tiền, không dám sử dụng ngân tiền.

Đây là độc kế thứ nhất, nhưng không thể công khai, lại không thể kéo dài, chỉ có thể duy trì hiệu quả nhất thời. Lý Thế Dân trầm ngâm một chút, lại hỏi:

- Kế thứ hai là gì?

- Kế thứ hai chính là “tăng”. Kỳ thật cũng chính là chúng ta lấy bạc trắng làm tiền, đối kháng với ngân tiền của triều Tùy. Đương nhiên, để làm được việc này cần có một lượng lớn bạc trắng, điều này cũng chính là chỗ khó xử của chúng ta.

Lý Thế Dân cười khổ một tiếng. Nếu như có được mỏ bạc thì cũng đã sớm ra tay rồi. Sau khi mỏ bạc ở Hội Ninh bị đoạt mất, bọn họ cũng luôn tìm kiếm mỏ bạc khác, nhưng cũng chỉ tìm được vài cái quặng nhỏ, ngoài ra cũng không có thu hoạch gì. Y thở dài nói:

- Tiên sinh nói kế thứ ba đi!

Ánh mắt Phòng Huyền Linh trở nên lạnh lùng, thản nhiên nói:

- Kế thứ ba chính là “tuyệt”. Nếu kế thứ nhất và kế thứ hai đều không thể thực hiện được, vậy thì chỉ còn cách cuối cùng. Chắc Điện hạ cũng hiểu được ý của ta.

Lý Thế Dân chậm rãi gật đầu:

- Ta hiểu. Bây giờ ta vào cung gặp phụ hoàng. Việc này vô cùng trọng đại, không thể chậm trễ dù là một khắc.

Trong điện Võ Đức cung Thái Cực, Hoàng đế Lý Uyên đang tiếp kiến sứ giả Đột Quyết. Lần này Đột Quyết phái ra hai nhóm sứ giả, một đi Thái Nguyên, một đến Trường An. Hiệt Lợi Khả Hãn là người vô cùng thủ đoạn, y muốn lợi dụng sự tranh đoạt giữa Tùy Đường để tranh thủ lợi ích lớn nhất cho Đột Quyết.

Sứ giả đến Trường An tên là Mặc Diên Trác, y cũng là Thứ Tướng quốc Đột Quyết, phụng lệnh Hiệt Lợi Khả Hãn tới Trường An, hy vọng có thể hoàn thành ba việc, một là kết minh, hai là mậu dịch, ba là kết thân.

Trong Thiên điện của Điện Võ Đức, Lý Uyên ngồi trên long tháp (cái sập), vẻ mặt tươi cười. Sứ giả Đột Quyết thì ngồi ở dưới, vẻ mặt cung kính. Thái tử Lý Kiến Thành và năm Tướng quốc đều ngồi ở phía đối diện.

Kết minh với triều Đường là một sự nhượng bộ của Đột Quyết. Lúc đầu, mối quan hệ của triều Đường và Đột Quyết là triều Đường thần phục Đột Quyết. Mà ý nghĩa của việc kết minh chính là hủy bỏ loại quan hệ thần phục này, địa vị trở thành bình đẳng.

Hiệt Lợi Khả Hãn là một người cực kỳ thiết thực. Y không cần cái loại thần phục không có chút ý nghĩa này, cái y muốn chính là lợi ích thiết thực, triều Đường phải bán sắt thô cho Đột Quyết.

Còn việc kết thân lại là dệt hoa trên gấm, là việc sau khi đạt thành hiệp định kết minh và mậu dịch, là cử động để tăng thêm sự hòa hợp trong quan hệ giữa hai bên. Có điều, Hiệt Lợi Khả Hãn đã cưới ông chúa Hiệt Dát Tư là Khả Đôn, cho nên y chỉ có thể lấy con gái của tôn thất triều Đường là Trắc Phi mà không thể cưới Công chúa.

Nhưng đối với Đại Đường mà nói, kết minh là việc rất quan trọng, là điều kiện để Đại Đường thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của việc thần phục Đột Quyết lúc đầu. Chuyện này đã sớm truyền khắp thiên hạ, vẫn còn bị rất nhiều người lên án. Lần kết minh này rất quan trọng đối với sự nóng lòng gìn giữ hình tượng chính thống của Đại Đường của Lý Uyên.

- Với việc Đại Đường và Đột Quyết kết thành liên minh, trẫm rất cao hứng, cũng đồng ý đem nhi nữ tôn thất gả cho Khả Hãn Đột Quyết làm phi. Về phần mậu dịch, ta cần phải thảo luận lại với các đại thần, sẽ sớm có câu trả lời cho quý sứ.

Tuy rằng Mặc Diên Trác tỏ vẻ rất cung kính, có thể nói Hán ngữ khá lưu loát, nhưng ngữ khí của y lại hết sức kiên quyết:

- Đại Đường Hoàng đế Bệ hạ tôn kính, ta đại biểu Khả Hãn vạn phần cảm kích thành ý của Hoàng đế Bệ hạ. Nhưng ta cũng xin nhắc lại một cách thân mật với Bệ hạ, mậu dịch là điều kiện tiên quyết của việc kết minh và kết thân. Hi vọng Bệ hạ có thể càng thêm coi trọng việc mậu dịch để quan hệ giữa song phương cùng có lợi…

Không có khả năng Lý Uyên lập tức đáp ứng sứ giả Đột Quyết nên sứ giả tạm thời lui ra. Trong điện chỉ còn lại Thái tử Lý Kiến Thành và năm Tướng quốc, bọn họ cần phải thảo luận vấn đề điều kiện mậu dịch với Đột Quyết.

Lý Uyên cũng biết điều kiện của Đột Quyết rất hà khắc. Thứ bọn họ muốn là sắt thô, lương thực và vật tư chiến lược, một khi những thứ này được chuyển đến Đột Quyết, tất nhiên sẽ làm cho thực lực Đột Quyết nhanh chóng trở nên hùng mạnh.

- Trẫm cần phải nói trước một câu, kết minh với Đột Quyết là việc hết sức quan trọng đối với trẫm. Điều này sẽ làm xoay chuyển cục diện bất lợi của Đại Đường với Đột Quyết. Quan trọng hơn là Đột Quyết có thể phối hợp với Đại Đường cùng đối phó với triều Tùy. Cho nên trẫm cần các khanh thảo luận vấn đề mậu dịch, làm thế nào để có được lợi ích lớn nhất mà khiếm khuyết nhỏ nhất.

- Phụ hoàng, xin cho nhi thần được nói trước.

Lý Kiến Thành đứng ra, khom người thi lễ:

- Phụ hoàng, Đột Quyết là loài lang sói, từ xưa đã là đại địch của Trung Nguyên. Nhi thần chỉ có điều lo lắng, một khi Đột Quyết trở nên hùng mạnh, lúc đó chỉ sợ dục vọng không chỉ là một triều Tùy. Một khi thiết kỵ của người Hồ quét qua Trung Nguyên, sẽ làm cho Trung Nguyên rơi vào một hồi đại nạn, một lần nữa mở ra thời đại Ngũ Hồ loạn Hoa. Nếu việc đó xảy ra, vậy thì không phải là việc mà triều Đường chúng ta có khả năng xoay chuyển. Chúng ta sẽ trở thành tội nhân thiên cổ. Nhi thần không tán thành việc mở cửa mậu dịch với Đột Quyết.

. Ngũ Hồ loạn Hoa hay còn gọi là Ngũ Hồ Thập lục quốc là một tập hợp các quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận TQ từ năm 304 đến năm 439 kéo theo sự rút lui của nhà Tấn (265-420) về miền Nam TQ cho đến khi Bắc triều thống nhất toàn bộ phương bắc, mở ra cục diện mới là Nam – Bắc triều.

Ngũ Hồ thập lục quốc – Wikipedia tiếng Việt

Sắc mặt Lý Uyên trầm xuống, cực kỳ không hài lòng nói:

- Vậy khanh tán thành việc triều Đường bị triều Tùy tiêu diệt? Khanh tán thành việc Đại Đường vĩnh viễn phải thần phục Đột Quyết?

Lý Kiến Thành cảm nhận được sự tức giận trong giọng nói của phụ hoàng liền trầm mặc. Lúc này, Bùi Tịch đứng lên nói:

- Bệ hạ, có thể cho hạ thần khuyên một lời không.

- Bùi ái khanh, mời nói!

Bùi Tịch dùng ánh mắt khinh rẻ liếc nhìn Lý Kiến Thành một cái, không chút hoang mang nói:

- Kỳ thật ý kiến của Thái tử Điện hạ là không hợp lý, không hợp thời. Đột Quyết xâm chiếm Trung Nguyên là việc xảy ra không chỉ một hai lần. Bọn họ cũng không giống với thời đại Ngũ Hồ loạn Hoa, chiếm cứ Trung Nguyên. Mỗi lần bọn họ xâm chiếm Trung Nguyên đều là đoạt lấy một ít vật tư và nhân khẩu liền lui về thảo nguyên, sẽ không xâm chiếm thổ địa Trung Nguyên. Mà địch nhân của Đột Quyết là triều Tùy, năm đó trong cuộc chiến Phong Châu, triều Tùy đã khiến cho Đột Quyết tử thương nghiêm trọng. Tùy – Đột đã kết thành thù oán khó có thể hòa giải. Nếu Đột Quyết tấn công triều Tùy, người được lợi chính là chúng ta. Nếu như bọn họ đánh đến lưỡng bại câu thương, người được lợi chính là chúng ta. Triều Tùy suy nhược, Đột Quyết đoạn trảo (mất tay), chúng ta có thể thừa cơ thâu tóm triều Tùy, sau lại thu thập Đột Quyết, Đại Đường có thể xây dựng sự nghiệp hãn thế. Cho nên, cái gọi là mậu dịch, bất quá cũng chỉ là một loại thủ đoạn, mục đích chính là khiến cho Tùy – Đột tranh chấp.

Nói đến đây, Bùi Tịch lại quay đầu hướng Lý Kiến Thành cười nói:

- Thái tử Điện hạ nghĩ đại địch của triều Đường là triều Tùy hay là Đột Quyết?

Lý Kiến Thành hừ mạnh một tiếng:

- Tranh chấp với triều Tùy nói cho cùng cũng chỉ là một cuộc nội chiến. Giúp đỡ Đột Quyết là sỉ nhục dân tộc. Bên nào nặng bên nào nhẹ, Bùi Tướng quốc không hiểu sao?

Lý Kiến Thành cứ liên tục phản đối khiến cho lòng Lý Uyên càng thêm tức giận. Đề nghị của Bùi Tịch đã nói đúng nỗi lòng y rồi, nhưng Lý Kiến Thành lại dùng đại nghĩa để bác bỏ, lại như đạp vào lưng y.

Lý Uyên vừa muốn phát tác tức giận thì Tiêu Vũ dứng dậy cười hòa giải:

- Bệ hạ, thần có một phương án tương đối tốt, có thể vẹn toàn đôi bên.ười đi. Về phần đại nương ngươi có tin hay không thì không liên quan đến ta đâu đấy.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui