Thiên Hạ Kiêu Hùng

Vương Nhân Tắc quỳ một gối, khẩn trương nói:

- Bệ hạ, quân Đường đã giết đến nơi, hiện đang đóng quân ngoài thành. Hiện tại quân tâm dao động, khẩn cầu Bệ hạ đứng ra trấn an!

Tuy rằng Vương Thế Sung bị bức phải bỏ đi niên hiệu, nhưng trên thực tế, danh hiệu của y vô cùng hỗn loạn. Có người gọi y là Vương gia, lại có người gọi là Bệ hạ. Đến bản thân y cũng không hiểu được rốt cuộc mình là cái gì?

Vương Thế Sung nghe nói quân Đường đã giết đến liền đứng thẳng lên, nhưng lại cảm thấy trời đất quay cuồng, suýt nữa ngã sấp xuống đất. Vương Nhân Tắc cuống quít đỡ lẫy y:

- Bệ hạ, xin cẩn thận!

Vương Thế Sung ổn định tinh thần, khoát tay nói:

- Ta không sao. Đến đầu thành xem sao.

Thời khắc không muốn đối mặt nhất cuối cùng đã tới. Vạn bất đắc dĩ, Vương Thế Sung đành phải đi lên đầu thành. Y vừa đến đầu thành ở phía tây, thò người ra nhìn xuống phía dưới, quang cảnh phía dưới lập tức khiến y cảm thấy mê muội.

Chỉ thấy ngoài thành, quân đội che trời phủ đất, cờ xí như mây, dường như trời đất cũng bị che lấp. Hai trăm ngàn quân Đường mới chỉ sắp hàng mà khí thế tỏa ra cũng khiến cho những người trên đầu thành cảm thấy tuyệt vọng.

Quân Đường cũng không vội công thành. Bọn họ không ngừng biến hóa trận hình, dương như muốn dùng khí thế để uy hiếp quân đội trên đầu thành. Ở phía xa xa, đỉnh lều lớn dày đặc như nấm mọc sau mưa, hết cái đỉnh lều này lại đến cái đỉnh lều khác, liếc qua cũng không kịp nhìn thấy điểm kết thúc.

Mặc dù Vương Thế Sung cũng trải qua trăm trận chiến, nhưng hai tháng nay, tinh lực toàn thân y đều vì tửu sắc quá độ mà mất hết, ý chí giảm sút. Không ngờ khí thế của quân Đường ở ngoài thành lại khiến cho hai cổ tay y run rẩy, sắc mặt trắng bệch, đôi môi run lên, một câu cũng không thốt ra được. Hiện tại y đã hoàn toàn mất đi tư thế của một kẻ kiêu hùng.

Đúng lúc này, thế tử Vương Ứng Huyền dẫn theo một gã thương nhân trẻ tuổi chạy vội lên đầu thành, miệng hô to:

- Phụ thân!

Vương Thế Sung ngơ ngác nhìn hai trăm ngàn quân Đường ở dưới tường thành, dường như không hề nghe thấy hai tiếng “Phụ thân!” vậy. Vương Ứng Huyền chạy lên đến nơi, thở hồng hộc nói:

- Có tin tốt!

- Tin tốt?

Vương Thế Sung quay đầu lại, ánh mắt đầy nghi hoặc nhìn thoáng qua đứa con:

- Có tin tốt gì?

Lúc này, tên thương nhân trẻ tuổi mới tiến lên thi lễ:

- Ty chức Khổng Ứng Thắng, là Giáo úy ở Hổ Lao Quan. Sở Vương Điện hạ có một phong thư khẩn cấp gửi đến cho Vương gia. Thư được đưa tới Hổ Lao Quan, hiện tại ty chức mang nó đến cho Vương gia.

Vương Thế Sung nghe thấy Dương Nguyên Khánh có thư gửi cho mình, tinh thần rung lên, vội vàng hỏi:

- Thư ở đâu?

Hai tay người đưa thư dâng lá thư lên, Vương Thế Sung vội vàng nhận lấy, tay chân luống cuống mở ra. Y liếc mắt một cái thấy thư này do Dương Nguyên Khánh tự tay viết và ký tên, đúng là bút tích của Dương Nguyên Khánh. Vương Thế Sung vội vàng đọc hết. Lúc đó, ánh mắt của Vương Thế Sung rực sáng, trong lòng dấy lên một tia hi vọng.

Vương Nhân Tắc và Vương Ứng Huyền ở bên cạnh đều chú ý đến vẻ mặt của Vương Thế Sung. Bọn họ phát hiện sự thay đổi trên mặt Vương Thế Sung, tinh thần lập tức rung lên, hai người đồng thanh hỏi:

- Là tin tốt gì?

Niềm tin của Vương Thế Sung dần hồi phục, y nhìn thoáng qua vẻ mặt của hai người, sau đó nở một nụ cười:

- Dương Nguyên Khánh nói, chỉ cần chúng ta có thể kiên trì năm ngày là hắn có thể chấm dứt chiến dịch ở phương bắc, lập tức chạy tới cứu viện chúng ta.

Vương Nhân Tắc và Vương Ứng Huyền mừng rỡ. Vương Nhân Tắc kìm không kìm nén được vui sướng trong lòng bèn nói:

- Dương Nguyên Khánh thật sự sẽ đến kịp sao?

Vương Thế Sung gật đầu:

- Hắn sẽ không nói ngoa, bởi vì hắn cũng không muốn quân Đường chiếm được Lạc Dương.

Nói đến đây, cảm giác sợ hãi trong lòng Vương Thế Sung liền biến mất, y đứng thẳng lưng, lớn tiếng hô hào binh sĩ đang đứng trên thành:

- Ba quân tướng sĩ nghe đây, ta sẽ lấy ra toàn bộ vàng bạc tiền tài. Giết chết một tên lính Đường được thưởng năm mươi xâu tiền và mười mẫu ruộng.

Ở quận Hội Ninh, bóng ma chiến tranh bao phủ mảnh đất bên cạnh dãy núi Hoàng Hà này. Nơi này vốn là một vùng núi đá cằn cỗi, nhưng từ khi phát hiện ra nó chứa một lượng lớn của cải tiền tài thì liên tục trở thành tiêu điểm của hai quân Tùy Đường.

Từ sau khi phát sinh nguy cơ về ngân tiền, quân Tùy bèn tăng cường binh lực cho quận Hội Ninh. Nhưng sau khi Đột Quyết ở phía nam xâm phạm, Dương Nguyên Khánh liền triệu hồi một lượng lớn quân Tùy ở phía đông trở về Thái Nguyên, khiến cho quân coi giữ quận Hội Ninh chỉ còn lại có mười ngàn người, do Tổng quản Hội Châu Mã Thiệu thống lĩnh.

Giữa trưa ngày hôm nay, một đội kỵ binh quân Tùy có khoảng hai ngàn người hăng hái hành quân. Đại tướng cầm đầu là Tổng quản Hội Châu Mã Thiệu, y vừa mới nhận được mệnh lệnh của Dương Nguyên Khánh, buông tha quận Hội Ninh, toàn quân lùi về giữ quận Linh Võ, trợ giúp Tổng quản Phong Châu là Tướng quân Bùi Nhân Cơ cùng quân dân rút về Phong Châu.

Đối với những mệnh lệnh do Dương Nguyên Khánh truyền đạt, Mã Thiệu chưa bao giờ hỏi vì sao, y luôn luôn chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Trong mệnh lệnh còn có một hành động khác, yêu cầu y trước khi đi phải phá hủy toàn bộ công trường khai thác quặng mỏ.

Kỵ binh chạy một mạch, xuyên qua một mảnh đất trống giữa các lều trại. Những lều trại này vốn là của những người thợ khai thác mỏ dùng để ở, nay chỉ còn lại toàn là rác rưởi. Mấy tháng trước, sau khi quân Tùy xây xong công trường khai thác mỏ bạc thì nơi này đã không còn một bóng người, toàn bộ thợ mỏ đều được đưa lên phía bắc, đến núi Xích Thiết.

Mặc dù Dương Sư Đạo đã hứa hẹn với triều Đường là sẽ đóng cửa mỏ bạc, nhưng đóng cửa chứ không phá hủy chỗ ở và bến tàu. Hơn mười nhà kho tiêu phí hơn hai tháng mới xây dựng và cải tạo xong vẫn đứng sừng sững trong gió rét.Trong kho hàng chất đầy xe đẩy dùng để vận chuyển khoáng thạch, còn có rất nhiều khí cụ dùng để khai thác quặng mỏ.

Trên bến tàu còn có hơn trăm chiếc thuyền đáy bằng đang thả neo, trên núi còn có hơn chục cái hầm mỏ. Chính từ những cái hầm mỏ này mà những người thợ đào mỏ mới không ngừng khai thác được một lượng lớn quặng bạc và quặng đồng phẩm chất cao.

Toàn bộ đều phải phá hủy, không thể để lại cho quân Đường một chút gì. Mã Thiệu liếc mắt nhìn thoáng qua một cái hầm mỏ bị bỏ trống, dùng roi ngựa chỉ:

- Phá hủy tòa bộ!

Mệnh lệnh vừa ban ra, hai ngàn quân Tùy lập tức hành động. Bọn họ gom những chiếc thuyền con lại một chỗ, tưới dầu hỏa lên, sau đó dùng một mồi lửa thiêu đốt. Trên bến tàu, khói đen không ngừng bốc lên. Chẳng mấy chốc mà bến tàu đã bị phá hủy, nhà kho bị kéo đổ.

Tất cả đồ dùng bằng gỗ cũng không bị đốt cháy một cách đơn giản. Quân Tùy chất đống trong các hầm mỏ, sau đó mới châm lửa đốt. Lửa lớn thiêu đốt toàn bộ vật dụng còn sót lại trong hầm mỏ, tỏa ra nhiệt độ vô cùng cao. Bọn lính lập tức đem nước sông lạnh như băng đổ vào, đá tảng vỡ tan, hầm mỏ sụp đổ trong nháy mắt.

Thời đại này chưa có chất nổ, bình thường đều dùng cách thức đơn giản này để lấy quặng hoặc để phá đá. Hoăn một canh giờ sau, một tòa mỏ quặng đã bị phá hủy triệt để. Quân Tùy đồng loạt lên ngựa, lại hướng đến một tòa mỏ quặng khác cách đó mười dặm.

Ở quận Linh Võ bên cạnh Hoàng Hà, cuộc rút lui quy mô lớn đã bắt đầu được hai ngày. Để tránh né kỵ binh Đột Quyết mà hơn hai trăm ngàn dân chúng Phong Châu phải rút về phía nam, một lần nữa rời khỏi quê hương Phong Châu.

Quận Linh Võ có hơn trăm ngàn hộ dân, tổng cộng gần bốn trăm ngàn người đồng loạt rút lui. Đây chính là mệnh lệnh do đích thân Sở Vương Dương Nguyên Khánh truyền đạt, lệnh cho toàn bộ dân chúng rút về Phong Châu.

Khoảng mười dặm trên mặt sông Hoàng Hà đã đóng băng hiện lên vô số ván trượt tuyết loại lớn, ước chừng có hơn mười ngàn cái. Trên mỗi ván trượt là già trẻ lớn bé của một gia đình cùng toàn bộ tài sản quan trọng, chủ yếu là tiền bạc, lương thực, da dê, công cụ, vũ khí và quần áo. Súc vật thì được dùng để kéo ván trượt tuyết.

Bọn họ lấy trăm hộ làm một đội, được chục tên kỵ binh bảo vệ, dưới từng đợt hò hét của nam nữ già trẻ trong nhà, từng ván trượt tuyết lần lượt được trâu ngựa kéo đi, chậm rãi hướng về phương bắc.

Tốc độ của xe trượt tuyết rất chậm, kỵ binh lững thững đi bên cạnh. Lúc này, kẻ địch của bọn họ không phải là quân Đường mà là những bầy sói thường xuất hiện vào mùa đông.

Ở bờ sông, Tổng quản Phong Châu Bùi Nhân Cơ nhìn từng đoàn ván trượt tuyết rời đi. Bọn họ đã đi liên tục được hai ngày rồi, số người còn lại cũng không nhiều lắm.

Y có thể hiểu được mệnh lệnh của Sở Vương. Con người là tài nguyên quý giá nhất, có thể để triều Đường chiếm được đất đai, nhưng người thì quyết không thể để lại. Đã không có người dân, quân Đường cũng không thể bảo vệ được quận Linh Võ.

- Tổng quản, có đợi Mã Tướng quân trở về rồi cùng đi không?

Thái thú quận Linh Võ là Ngư Toàn Hồng đứng ở bên cạnh lên tiếng hỏi.

Bùi Nhân Cơ lắc đầu:

- Không cần chờ y. Ta sẽ để lại vài thám báo báo tin cho y.

Bùi Nhân Cơ bỗng nhiên hiểu ra ý tứ của Ngư Toàn Hồng, y cất tiếng cười ha hả rồi nói:

- Người cũng xem như đã đi hết rồi, Ngư Thái thú cũng có thể đi được rồi, ta chờ thêm một chút nữa.

Mặt Ngư Toàn Hồng đỏ lên, chắp tay ôm quyền rồi nói:

- Vậy hạ quan xin đi trước một bước. Bùi Tướng quân, bảo trọng.

Bùi Nhân Cơ khẽ mỉm cười:

- Chúc Ngư Thái thú thuận buồm xuôi gió!

Ba mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết xuôi nam đã phá vỡ sự cân bằng của hai quân Tùy Đột, khiến cho cuộc chiến ở quận Mã Ấp lại trở nên tinh tế. Lúc này, Đột Quyết đang nắm thế chủ động, Khả Hãn Hiệt Lợi nắm được điểm yếu của quân Tùy, y bắt đầu chủ động rút quân về phương bắc, vượt qua sơn khẩu Võ Chu, tiếp tục rút lui về hướng hồ Khất Phục.

Y muốn dẫn dụ quân Tùy tới thảo nguyên rồi mới quyết chiến. Trong tâm y hiểu rõ, ba mươi ngàn quân Đột Quyết xuôi nam giống như một sợi dây thừng dắt quân Tùy. Nhất định bọn chúng phải mau chóng quyết chiến với mình mới có thể giải quyết mối nguy ở phía nam.

Nhưng bất cứ chuyện gì cũng không thể hoàn hảo, Mặc dù kế hoạch của Khả Hãn Hiệt Lợi là rút lui về phía bắc, quyết chiến với quân Tùy ở thảo nguyên, nhưng kế hoạch này cũng không nhận được sự tán thành của tất cả mọi người. Màn đêm vừa buông xuống, đại quân Đột Quyết vượt qua sơn khẩu Võ Chu, những đỉnh lều lớn được dựng lên sừng sững giữa thảo nguyên.

Khả Hãn Hiệt Lợi đứng trước địa đồ, cẩn thận quan sát vị trí của quân Tùy. Y nhận được báo cáo của trinh sát tuần tra, chủ lực của quân Tùy vẫn đi theo đại quân của y, còn cách khoảng bốn mươi dặm. Khả Hãn Hiệt Lợi đắc ý híp mắt mỉm cười, y có cảm giác như mình sắp câu được một con cá lớn.

Hẳn là ngày mai, chậm nhất là ngày mốt sẽ xảy ra quyết chiến rồi. Ngày mai, hai trăm ngàn đại quân của y sẽ đánh tan quân Tùy. Sau khi trận chiến này kết thúc, y cũng không cần vội vã trở về thảo nguyên, y sẽ ở lại Hà Đông tận hưởng những ngày khó quên nhất đời, cũng là một mùa đông vinh quang nhất trong sự nghiệp của y cho đến mùa xuân sang năm mới trở lại thảo nguyên.

Đúng lúc này, phía ngoài Vương trướng vang lên âm thanh khà khàn của Đại tù trưởng Hồi Hột Bùi Tát:

- Ta muốn gặp Khả Hãn, các ngươi để cho ta vào.

- Không được! Khả Hãn có lệnh, ngài đang suy nghĩ quân vụ, không cho bất cứ ai quấy rầy.

- Sự tình trọng đại, các ngươi nhất định phải cho ta vào.

Giọng của Bùi Tát có chút gấp gáp.

Khả Hãn Hiệt Lợi đi đến trước cửa, lạnh lùng nói:

- Các ngươi để cho y vào đi!

Bùi Tát bước vào Vương trướng, có chút lo lắng nói:

- Khả Hãn, chúng ta nhất định phải lập tức rút quân, không thể tiếp tục kéo dài!

- Vì sao?

Ánh mắt của Khả Hãn Hiệt Lợi vừa giãn ra lại tiếp tục híp lên, lạnh lùng nhìn Bùi Tát. Y không tin người Hồi Hột lại không biết dụng ý của mình, không ngờ tại thời điểm mấu chốt lại đề nghị rút quân về phương bắc. Rốt cục Bùi Tát có ý gì? Mục đích của y là gì? Chẳng lẽ đây là phương pháp chống đối để thể hiện sự bất mãn sao?

Lần trước thảo luận phân phó nhiệm vụ đã cãi nhau khiến Tiết Diên Đà và Hồi Hột ra về mà không vui. Cuối cùng Khả Hãn Hiệt Lợi cũng nhượng bộ, y đích thân tìm Bùi Tát, tỏ rõ là sẽ cho dù y đến quyết định phân phối chiến lợi phẩm nhưng trước đó y cũng sẽ thương lượng với Bùi Tát một chút, như vậy liền giải quyết xong lần phân tranh trước.

Lúc này mới qua được mấy ngày, ở thời điểm mấu chốt thế này mà người Hồi Hột lại gây rối, khiến cho Khả Hãn Hiệt Lợi cảm thấy tức giận. Y kiềm chế sự bất mãn trong lòng, chờ đợi Bùi Tát cho mình một lý do.

Bùi Tát bước nhanh ra khỏi lều lớn, chỉ về bầu trời ở phương bắc, nói với Khả Hãn Hiệt Lợi:

- Chẳng lẽ Khả Hãn không nhìn thấy mây đen ở bên kia sao? Mấy ngày trước vẫn chỉ là mấy cụm mây đen, vậy mà hôm nay đã dày đặc như mực. Đây là hiện tượng thời tiết gì, người thảo nguyên nào mà không biết rõ? Chẳng lẽ Khả Hãn thật sự không thèm để ý tới sao?

Lời của Bùi Tát khiến cho bọn thị vệ ở xung quanh có chút bất an. Bọn họ đều biết đó là dấu hiệu của tuyết lớn ở thảo nguyên. Hiện tại thảo nguyên ở phương bắc đã xuất hiện tuyết lớn rồi, chỉ có điều là tuyết lớn còn chưa kéo đến nơi này, nhưng sẽ tới rất nhanh, chậm nhất là hai ba ngày nữa thôi.

Khả Hãn Hiệt Lợi không chút nhúc nhích, làm sao y lại không biết điều này. Y còn biết rõ hơn người khác là bão tuyết sắp đến, y cũng hiểu được là hiện tại đã không thể trở về thảo nguyên được nữa rồi, vì thế y mới quyết định ở lại Hà Đông đến hết mùa đông.

Chiến tranh đã bước đến thời khắc quan trọng nhất. Lúc này, dù trên trời có rơi xuống mưa đao thì cũng phải đánh tiếp trận này.

- Đại tù trưởng về đi! Chiến tranh sắp bắt đầu, không được làm ảnh hưởng tới sĩ khí.

Giọng điệu của Khả Hãn Hiệt Lợi rất lãnh đạm, y vốn là một người rất lạnh lùng. Trong mắt người Đột Quyết, bất kể là người Thiết Lặc, người Hồi Hột, người Tiết Diên Đà hay người Hiệt Dát Tư cũng đều là nô bộc của người Đột Quyết, là dân tộc hạ đẳng bị bọn họ chinh phục. Ở trước mặt Đại Khả Hãn chí cao vô thượng của Đột Quyết, bọn họ không có tư cách nói chuyện ngang hàng, càng không có tư cách đề xuất dị nghị, chỉ trích tư cách của Khả Hãn Đột Quyết.

Khả Hãn Hiệt Lợi không kìm được nữa, lửa giận trong lòng đã không còn kiềm chế được nữa rồi, sắp bị bức cho bùng nổ. Y dùng ánh mắt sắc lạnh như đao nhìn chằm chằm Bùi Tát, bàn tay chậm rãi đặt lên chuôi đao. Chỉ cần Bùi Tát dám nói một chữ “Không!” thì y sẽ làm thịt Bùi Tát ngay lập tức.

Thấy động tác đặt tay lên chuôi đao của đối phương, nội tâm Bùi Tát kinh hãi, theo bản năng bước lùi về sau hai bước. Lúc này y đã cảm nhận được sát khí trong mắt đối phương. Bùi Tát cúi đầu, ở thời điểm mấu chốt này, y không thể tiếp tục động chạm đến đối phương, trước tiên cần phải bảo vệ tính mạng của mình.

Bùi Tạt đặt tay trước ngực, khom người thi lễ:

- Đại Khả Hãn Đột Quyết là chim nhạn đầu đàn của thảo nguyên, tất cả chim nhạn của thảo nguyên đều nguyện ý bay theo ngài, Hồi Hột cũng không ngoại lệ. Ta cáo từ.

Bàn tay đè lên chuôi đao của Khả Hãn Hiệt Lợi dần lỏng ra, trên mặt y lộ ra một nụ cười dối trá:

- Đi thôi! Hi vọng lúc đối đầu với quân Tùy trên chiến trường ta có thể thấy các dũng sĩ Hồi Hột biểu hiện sự dũng mãnh như hùng ưng trên thảo nguyên.

Bùi Tát lại thi lễ rồi lui xuống. Khả Hãn Hiệt Lợi nhìn bóng dáng y dần xa, không khỏi cười lạnh một tiếng. Loại người nhu nhược vô dụng, phải dọa dẫm mới chịu nghe lời. Đương nhiên là Khả Hãn Hiệt Lợi sẽ không giết Bùi Tát, đây là đêm trước chiến tranh, y cũng không muốn nội chiến bùng phát.

Bùi Tát trở lại lều của mình, chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong lều, trong lòng cực kỳ lo lắng. Cũng không phải y chỉ vì bão tuyết sắp xảy ra mà lo lắng, điều y lo lắng hơn chính là tương lai của Hồi Hột.

Mười mấy năm trước, bốn bộ lạc người Thiết Lạc là Vi Hột, Phó Cốt, Đồng La, Bạt Dã Cổ vì không chịu sự nô dịch của Đột Quyết mà kết thành đồng minh chống lại Đột Quyết, thống nhất xưng là Hồi Hột. Tuy rằng bọn họ đã thoát khỏi sự khống chế của Đột Quyết một lần, nhưng lại nhanh chóng bị sự mạnh mẽ, cứng rắn của bộ lạc Khải Dân đánh bại, một lần nữa bị Đột Quyết chinh phục.

Mà hai năm trước, khi Đột Quyết thảm bại ở Phong Châu khiến cho các bộ lạc Thiết Lạc lại thấy được hy vọng độc lập. Nhưng Đột Quyết cực lực khống chế, khiến cho bọn họ trong suốt hai năm qua vẫn ở một tình trạng lùi một bước thì trời cao biển rộng, mà tiến thêm một bước thì giống như bị tơ nhện quấn quanh thân treo lơ lửng trên vách núi.

Bùi Tát cũng ý thức được, hiện tại, bất kể là Đột Quyết hay các bộ lạc Thiết Lặc đều đã ở vào thời điểm trước đêm nổi loạn. Hoặc là Đột Quyết chiến thắng triều Tùy, lại hùng mạnh thêm lần nữa, các bộ lạc Thiết Lặc từ nay về sau trầm luân. Hoặc là Đột Quyết thất bại, từ nay về sau các bộ lạc Thiết Lạc có thể bước đi trên con đường độc lập.

Nhưng bất kể thế nào, y cũng nên làm chút gì đó. Cuối cùng Bùi Tát cũng hạ quyết tâm.

Y đi đến cửa lều, ra lệnh:

- Gọi Thổ Mê Độ lại đây!

Một lát sau, một gã Thiên phu trưởng cực kì trẻ tuổi, dáng người khôi ngô bước vào trong lều lớn, khom người thi lễ:

- Đại tù trưởng tìm ta có việc gì sao?

Gã Thiên phu trưởng trẻ tuổi này tên là Thổ Mê Độ, năm nay mới chỉ mười tám tuổi, được xưng là đệ nhất dũng sĩ Hồi Hột, là thị vệ trưởng của Bùi Tác, cũng là người được y tín nhiệm nhất.

Bùi Tát lấy ra một phong thư đưa cho y, thấp giọng nói:

- Ngươi lập tức xuôi nam, tìm đại doanh quân Tùy, đem phong thư này giao cho Sở Vương Dương Nguyên Khánh.

Lúc này, đại quân chủ lực của Dương Nguyên Khánh chỉ còn cách đại doanh Đột Quyết có bốn mươi dặm. Màn đêm buông xuống, bọn họ cũng tiến hành hạ trại. Lúc này Dương Nguyên Khánh đã nhìn thấy được tâm lý được ăn cả ngã về không của Khả Hãn Hiệt Lợi, cho dù là bão tuyết có đến thì người Đột Quyết cũng không rút về phương bắc.

Hơn nữa, hiện tượng thiên văn ở phương bắc đã biểu hiện rõ ràng, một trận bão tuyết đang tàn sát bừa bãi ở thảo nguyên. Trên thực tế, quân Đột Quyết đã không thể trở về, bọn họ chỉ có thể tử chiến đến cùng. Mà Dương Nguyên Khánh hắn cũng không có lựa chọn khác. Nếu hắn không xử lý xong đại quân Đột Quyết, hắn cũng không thể trở về giải quyết nguy cơ bị triều Đường xâm lấn.

Đây là một chiến dịch mấu chốt liên quan đến sự ổn định của biên giới phía bắc. Chiến dịch này kết thúc, biên giới phía bắc sẽ có được thời kỳ yên bình khoảng mười năm, Dương Nguyên Khánh hắn cũng có thể tập trung tinh lực thống nhất thiên hạ.

Lúc này, La Sĩ Tín xuất hiện ở bên cạnh, trầm giọng nói:

- Điện hạ, ty chức có một vấn đề liên quan đến Đột Quyết vốn làm ty chức khá hoang mang, mong Điện hạ có thể giải thích nghi hoặc.

Dương Nguyên Khánh quay đầu nhìn y một cái, khẽ cười nói:

- Toàn bộ Vương triều Đại Tùy, người am hiểu về Đột Quyết nhất ngoại trừ Trưởng Tôn Thịnh ra, chỉ e chính là Dương Nguyên Khánh ta rồi. Ngươi nói đi! Có điều gì khiến ngươi hoang mang?

La Sĩ Tín cắn vào môi dưới một cái rồi nói:

- Lúc Điện hạ còn trẻ có tham gia cuộc chiến với Đột Quyết vào năm Khai Hoàng thứ mười chín và hai mươi. Khi đó, quân Tùy có vài lần đại chiến đều là dùng một trăm ngàn quân đại phá mấy trăm ngàn đại quân của Đạt Đầu Tây Đột Quyết. Khi chúng ta còn ở Phong Châu cũng là lấy bảy mươi ngàn đại quân đánh bại ba trăm ngàn quân Đột Quyết. Lần này chênh lệch hai bên còn ít hơn, một trăm ngàn đánh với hai trăm ngàn, vì sao Điện hạ lại cẩn thận như vậy?

Dương Nguyên Khánh mỉm cười:

- Ý ngươi muốn nói là ta bó tay bó chân không dám ra đánh có phải không?

La Sĩ Tín cúi đầu:

- Ty chức không có ý này, nhưng có phải Điện hạ cũng đã quá cẩn thận không?

Dương Nguyên Khánh lắc lắc đầu:

- Nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì trận chiến này ta không được để thua. Nếu như chúng ta thua trận chiến này thì cũng là lúc Đại Tùy diệt vong, cho nên ta mới cần phải cẩn thận, rất cẩn thận. Thà rằng để cho ba mươi ngàn quân Đột Quyết phá tan hoang nội địa Hà Đông, thà rằng để cho quân Đường chiếm lĩnh đạo Quan Nội, thà rằng để Vương Thế Sung bị tiêu diệt cũng phải đánh thắng trận chiến này.

Chủ yếu là La Sĩ Tín lo lắng chuyện ba mươi ngàn quân Đột Quyết xuôi nam, tạo thành tổn thất nghiêm trọng cho nội địa Hà Đông. Đã vài lần y xin được xuôi nam giết giặc nhưng đều không được Dương Nguyên Khánh cho phép, khiến cho lòng y vô cùng lo lắng.

- Thuộc hạ có thể hiểu được tình cảnh của chúng ta hiện tại, nhưng Điện hạ có thể để cho Lý Tĩnh dẫn hơn mười ngàn quân xuôi nam, vậy thì ba mươi ngàn quân Đột Quyết cũng sẽ không tạo ra hậu quả quá nghiêm trọng.

Dương Nguyên Khánh hiểu được lo lắng trong lòng La Sĩ Tín, hắn liền vỗ bả vai La Sĩ Tín, cười nói:

- Người không cần quá lo lắng. Mặc dù kỵ binh Đột Quyết sẽ tạo thành tổn thất rất lớn cho nội địa Hà Đông, nhưng đại bộ phận dân chúng đều đã chuyển đến thành Thái Nguyên. Cùng lắm là nhà cửa, thành trì bị phá hủy, chi cần người còn thì còn có thể xây dựng cải tạo lại. Hơn nữa, huyện Hoắc Ấp còn có năm ngàn quân coi giữ, quân Đột Quyết cũng không thể giết đến phía nam, cùng lắm là đến được Thái Nguyên, tàn sát bừa bãi ở hai quận bờ tây sông mà thôi. Được rồi, sắp xảy ra quyết chiến rồi, hiện tại không cần phải lo lắng chuyện ở phía nam nữa.

Dừng lại một chút, Dương Nguyên Khánh lại nói nhỏ:

- Hiện tại quân Đột Quyết không giống với lúc trước. Trước kia trang bị của quân Đột Quyết rất kém cỏi, bình thường đều là dân chăn nuôi, sức chiến đấu rất kém. Nhưng hiện tại, ngoại trừ bì giáp của Đột Quyết là kém áo giáp của quân Tùy, những trang bị khác cũng không thua kém bao nhiêu. Quan trọng hơn là, lần này Khả Hãn Đột Quyết thân chinh, dẫn theo một trăm ngàn quân cận vệ. Một trăm ngàn quân cận vệ này rất có tố chất, là quân đội tinh nhuệ nhất của Đột Quyết, sức chiến đấu không thua gì kỵ binh của quân ta. Trận chiến ngày mai, lúc bắt đầu chính là một cuộc tranh đấu năng lực chỉ huy của hai đội quân trọng giáp của hai bên rồi. Nói thật, ta cũng không nắm chắc mười phần sẽ giành chiến thắng.

La Sĩ Tín yên lặng gật đầu:

- Ty chức đã hiểu. Trận chiến ngày mai, ty chức tuyệt đối sẽ không khinh địch!

Đúng lúc này, một tên lính vội vàng chạy đến thông báo:

- Khởi bẩm Điện hạ, ngoài doanh có một người tự xưng là do Đại tù trưởng Hồi Hột phái tới, muốn cầu kiến Điện hạ.

Dương NGuyên Khánh ngẩn ra, sứ giả Hồi Hột đến đây là có chuyện gì? Hắn không kịp suy nghĩ, vội vàng ra lệnh:

- Nhanh dẫn y tới gặp ta.

Lát sau, một Thiên phu trưởng trẻ tuổi được dẫn đến trước mặt Dương Nguyên Khánh. Y khom người thi lễ:

- Phổ Mê Độ, Thiên phu trưởng Hồi Hột tham kiếm Sở Vương Điện hạ!

Dương Nguyên Khánh thấy vóc dáng người này vô cùng uy mãnh, liền gật đầu, dùng tiếng Đột Quyết hỏi thăm y:

- Ngươi đến tìm ta có chuyện gì?

- Ta phụng lệnh của Đại tù trưởng, mang một phong thư tới cho Điện hạ.

Y lấy thư ra đưa lên cho Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh nhận lấy phong thư, thư được viết bằng tiếng Đột Quyết. Hắn nhanh chóng nhìn qua một lần, nhíu mày, trong mắt hiện lên một tia kinh ngạc.

Nhưng ngay sau đó, vẻ kinh ngạc lập tức biến mất, sắc mặt khôi phục lại như bình thường. Dương Nguyên Khánh dấu giếm thanh sắc hỏi:

- Đại tù trưởng của các ngươi đã không muốn ra sức cho Đột Quyết, vậy tại sao hiện tại không rút lui?

Thổ Mê Độ lại thi lễ:

- Ty chức chỉ phụ trách truyền tin, những chuyện còn lại ty chức không có quyền trả lời!

Dương Nguyên Khánh nhìn y một cái, đúng là có bổn phận của một thuộc hạ. Dương Nguyên Khánh gật đầu:

- Được rồi, ngươi trở về nói với Đại tù trưởng, thư của y ta đã nhận!

- Ty chức cáo từ!

Thổ Mê Độ thi lễ. Y vừa định lui xuống thì Dương Nguyên Khánh chợt nhớ tới một chuyện, cười nói:

- Thổ Mê Độ Tướng quân có thể giúp ta một chuyện không?

Thổ Mê Độ do dự một chút, cuối cùng cũng không thể từ chối sự nhờ vả do chính miệng Sở Vương đưa ra đành yên lặng gật đầu. Dương Nguyên Khánh nói nhỏ với một gã thân binh bên cạnh vài câu, sau đó đưa cho y một cái ngân bài.

Tên thân binh gật đầu, ôm quyền với Thổ Mê Độ rồi nói:

- Xin mời! Ta tới nhắn nhủ sắp xếp của Điện hạ.

Dương Nguyên KHánh nhìn Phun Mễ Độ đi xa, không ngừng cười cười. Đêm nay người này đến thật đúng là một thu hoạch ngoài ý muốn.

Lúc này, La Sĩ Tín ở bên cạnh có chút lo lắng nói:

- Điện hạ, thời khắc mấu chốt này cần phải đề phòng quân địch có dối trá.

Dương Nguyên Khánh trầm tư một lát. Thật ra, đối với việc Hồi Hột lén phái người tới cũng khiến hắn cảm thấy kinh ngạc, đây cũng không phải chuyện nhỏ, vừa phải đề phòng có sự dối trá, nhưng cũng phải từ sự việc này nhìn ra một tia hy vọng.

- Ta biết, đa tạ ngươi đã nhắc nhở.

Đêm dần khuya, bọn lính đều đã chìm vào giấc ngủ. Dương Nguyên Khánh vẫn còn ở trong lều lớn suy nghĩ việc của Hồi Hột. Chuyện này tới thật bất ngờ, nhưng lại hợp tình hợp lý. Dương Nguyên Khánh giao tiếp với Đột Quyết gần hai mươi năm, hắn vô cùng rõ ràng mối quan hệ giữa Đột Quyết và các bộ lạc Thiết Lặc, trước giờ bọn họ vẫn luôn là loại quan hệ nô dịch và bị nô dịch.

Một dân tộc thảo nguyên hùng mạnh, đầu tiên là mang ý nghĩa chinh phục, chinh phục các dân tộc khác trên thảo nguyên cho tới khi thực lực trở thành số một trên thảo nguyên. Kẻ chinh phục dùng trăm phương ngàn kế để bảo vệ sự thống trị của chính mình, còn kẻ bị chinh phục lại là loại sẵn sàng nổi dậy thoát khỏi sự chinh phục, sau đó lại đi chinh phục kẻ khác.

Đúng là Đột Quyết nô dịch các bộ lạc Thiết Lặc cực kỳ sâu nặng, chúng e sợ các bộ tộc khác trở nên hùng mạnh, cho nên tích cực trọng thu tài phú của các bộ lạc Thiết Lạc. Nhằm làm suy yếu thực lực của các bộ lạc trên thảo nguyên, hàng năm, các bộ lạc Thiết Lặc phải đem một nửa số dê bò ngựa mới đẻ giao cho Đột Quyết.

Loại thuế má áp bức trầm trọng này cũng khiến cho các bộ lạc Thiết Lặc liên tiếp phản kháng, trở thành một thủ đoạn mà các Vương triều ở Trung Nguyên dùng để làm suy yếu Đột Quyết. Trong lịch sử, phần lớn là triều Tùy lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của Đột Quyết để làm suy yếu Đột Quyết, ví dụ như nội chiến giữa Đông – Tây Đột Quyết.

Nhưng tới triều Đường thì cải cách lại thành lợi dụng sự phản kháng của các bộ lạc Thiết Lặc để làm suy yếu Đột Quyết, nhưng như vậy sẽ khiến cho một dân tộc cường đại mới sinh ra trên thảo nguyên, ví dụ như Hồi Hột và Khiết Đan.

Bất kể là sự phá hoại ở bên trong của triều Tùy, hoặc là tranh giành ở bên ngoài của triều Đường, thật ra cũng không phải là biện pháp để giải quyết dứt điểm vấn đề. Muốn giải quyết dứt điểm vấn đề này, phải dựa vào sắt và máu.

Dương Nguyên Khánh nhìn mây đen dày đặc phủ kín bầu trời ở phương xa, khẽ thở dài một cái. Dù bất kể thế nào cũng có thể lợi dụng sự phản loạn của Hồi Hột, nhưng không phải trên chiến trường mà là ở thời kì hậu chiến, thời kì xây dựng lại trận tự trên thảo nguyên sau cuộc chiến này.

Lúc này, ánh mắt Dương Nguyên Khánh chuyển hướng về phía phương bắc, trong lòng hắn tràn đầy chờ mong đối với cuộc đại chiến ngày mai.

Trong đêm đen, gió lạnh gào thét, một đội kỵ binh đang chạy gấp trên thảo nguyên. Thiên phu trưởng trẻ tuổi Thổ Mễ Độ dẫn theo ba mươi mấy tùy tùng một đường chạy thẳng.

Ở phía sau y, ngoại trừ hơn mười tùy tùng mà y dẫn theo còn có hơn hai chục thám báo của quân Tùy. Bọn họ đều mặc quân trang của Đột Quyết, cầm đầu là một gã Giáo úy chừng ba mươi tuổi, tên là Chung Căn Sinh, là người Thái Nguyên, có thể nói tiếng Đột Quyết một cách lưu loát, đã từng tham gia cuộc chiến chống Đột Quyết ở Phong Châu. Lần này y phụng mệnh Dương Nguyên Khánh tiến vào khu đại doanh của Đột Quyết.

Tâm tình của Thổ Mê Độ có chút trầm trọng, y không biết mình dẫn quân Tùy tiến vào khu đại doanh có phải là một quyết định chính xác hay không, nhưng y vô cùng hiểu rõ tâm tư của Đại tù trưởng. Đại tù trưởng hy vọng Hồi Hột có thể có được lợi ích dù thắng hay bại. Nếu quân Tùy thất bại, bọn họ có thể cướp lấy chiến lợi phẩm từ quân Tùy, nhưng nếu Đột Quyết thất bại, bọn họ sẽ thu được thứ quý giá nhất, là tự do.

Nhưng thanh niên Thổ Mê Độ lại hy vọng Đột Quyết thất bại. Y cho rằng chiến lợi phẩm dù quý giá mấy cũng không thể sánh được với tự do, thậm chí Hồi Hột còn có thể thay thế Đột Quyết. Chính vì những suy nghĩ đó mà y dứt khoát đáp ứng trợ giúp thám báo quân Tùy.

Đội kỵ binh nhằm hướng tây bắc chạy gấp. Trinh sát tuần tra của Đột Quyết bao phủ một phạm vi chừng mười dặm. Ở phía ngoài, Đột Quyết bố trí hai mươi ngàn lính gác, chia làm ba phòng tuyến, nghiêm ngặt đề phòng quân Tùy lợi dụng đêm tối tập kích đại doanh, nhưng tuyến phòng ngự ở phía tây lại do chính quân Hồi Hột phụ trách.

Đội kỵ binh dần đến gần trạm gác. Trong đêm đen, một đội trinh sát tuần tra gào thét chạy tới. Hơn trăm cây cung nhắm thẳng vào bọn họ:

- Đứng lại!


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận
Quảng Cáo: Coin Cua Tui