Màn đêm thâm trầm, duy có vầng trăng cong cong treo lơ lửng trên không trung, phủ lên thảo nguyên mênh mông một màu bạc nhàn nhạt, trên thảo nguyên cách đông nam Thố Thành chừng hai mươi dặm, một doanh trại đơn côi một mình giữa thảo nguyên, đây chính là doanh trại của Thiên Sơn quân, lúc này binh sĩ sau một ngày hành quân mệt nhọc đã đi nghỉ từ sớm, trong đại doanh im phăng phắc, chỉ có lầu gác bốn góc có binh sĩ đi lại tuần tra, bỗng nhiên, một lính gác trên lầu chạy vội đến cạnh lầu, căng thẳng nhìn về nơi xa, hắn đã nhìn thấy, dưới ánh trăng, có một đường chỉ đen đang xuất hiện trên thảo nguyên, đương phóng về phía doanh trại của họ.
“Mẹ kiếp! Xích hầu đều chết hết rồi sao?”
Bọn lính gác buộc miệng mắng to.
Xong chúng đưa búa sắt lên gõ liền liền lên chuông báo động, cùng lúc ấy, trên một lầu gác khác cũng vang lên tiếng chung cảnh báo chói tay khắp doanh trại, các binh sĩ đều giật mình tỉnh giấc giữa đêm, trong doanh bỗng chống nháo nhào lên, chủ tướng Triệu Đình ngọc đi đại trại chưa về, chỉ có phó tướng Lư Hướng Dương một mình, hắn áo quần lết thết phóng ra khỏi doanh, lớn tiếng hỏi: “Xảy ra việc chi? Quân địch đến rồi ư?”
Nhưng không ai trả lời được hắn, cả lầu gác hỗn loạn, bỗng nhiên, có lính gác hét to: “Không phải quân địch, là người nhà.”
Tiếng hét không ngừng lan rộng, trong doanh trại dần dần bình tĩnh trở lại, là người nhà, không phải quân địch, rất nhiều quân Đường đều ùa đến cửa doanh nháo nhác nhìn quanh, chỉ thấy một đội kỵ binh đang xếp hàng dài cách đấy vài trăm bước, tạo thành hình quạt đang dần bao vây doanh trại lại, cờ lớn phấp phới dưới ánh trăng ngày càng rõ ràng hơn, chính là Xích Long kỳ của quân Đường.
Lúc này, mười mấy kỵ binh phóng như bay đến, reo to trước cửa doanh trại: “Lý Khánh An Tướng quân có lệnh, tất cả quan quân đội chính trở lên đều phải ra đây tập trung, có việc tuyên bố.”
Phó tướng Lư Hướng Dương băng ra khỏi cửa doanh nghiêm giọng nói: “Tướng quân phía ta đi Đại Trại mãi chưa về, bây giờ đang ở đâu?”
“Ngươi là ai?”
“Ta là binh mã phó sứ Thiên Sơn quân Lư Hướng Dương.”
Binh sĩ truyền tin vẫn mặc kệ hắn, tiếp tục cao giọng: “Tiết độ sứ Lý tướng quân có lệnh, tất cả quan quân cấp đội chính trở lên hay ra tập trung trước trại, nếu không sẽ bị xử theo tội tạo phản!”
Hàng chục quan quân núp sau cửa doanh nghe được là sẽ bị “xử theo tội tạo phản”, đều sợ hãi đi ra, Lư Hướng Dương đại nộ, quay mình rút kiếm đuổi bọn binh sĩ đi vào: “Ai khiến các ngươi đi ra, tất cả đi vào cho ta!”
Mười mấy kỵ binh nhìn nhau lập tức thúc ngựa đi lên, ba cây trường thương đồng thời đâm thẳng vào ngực Lư Hướng Dương, Lư Hướng Dương không thể tưởng tượng được ngỡ ngàng nhìn mũi trường đao trước ngực, xong té nhào chết ngay tại chỗ.
Một quan quân thúc ngựa đi lên, lần nữa nhìn bọn quan quân khác nghiêm giọng nói: “Triệu Đình Ngọc hành thích Giám quân muốn tạo phản, như thế các ngươi vẫn muốn tháp tùng ư?”
Quan quân Thiên Sơn cuối cùng cũng nổi nhau đi ra, cả trăm quan quân đứng giữa bãi đất trống, lòng ai nấy đều thổn thất đợi chờ phán quyết cuối cùng, hàng ngàn quân Đường đang trùng trùng bao vây lấy họ.
Trong doanh trại do không còn quan quân quản thúc, hai người binh sĩ đều lũ lượt chen chúc trước cửa, nhỏ tiếng dư luận.
Ai đều hiếu quân Thiên Sơn đã đổi chủ, thay vì lòng đầy lo lắng như các quan quân, các binh sĩ trong lòng lại có phần kỳ vọng nhiều hơn.
Lúc này, dưới sự hộ tống của hàng trăm kỵ binh, Lý Khánh An đã từ trong đội ngũ đi ra, theo sau là giám quân Vương Đình Phương.
Lý Khánh An từ từ kéo lại chiến mã, hắn đảo nhìn một lượt các quan quân Thiên Sơn, nói: “Tây Châu Đô đốc Triệu Đình Ngọc dám làm trái quân lệnh, bắt giữ giám quân làm con tin, nghiêm trọng trái quân pháp, đã bị xử trảm!”
Tiếng reo kinh ngạc vang lên khắp đám quan quân, trong mắt mỗi người đều lộ vẻ chấn động, trong đó có không ít người lóe lên tia phẫn nộ, nhưng cũng không ai dám làm chi, chỉ lẳng lặng cúi ngầm mặt.
“Ta biết các ngươi không ít người đều là lão thuộc hạ của Triệu Đô đốc, là tâm phúc đáng tin cậy, nhưng Đại Đường quân ký như núi, trước mặt quân pháp không ai ngoại lệ!”
Giọng nói của hắn Nghiêm Trang dị thường, sắc mặt hắn lạnh lùng quan sát ánh mắt của từng người, hắn từng chữ từng chữ nói: “Bây giờ Triệu Đình Ngọc đã bị xử trảm, tân đô đốc sẽ do triều đình nhậm mệnh, bồn soái tạm thời thay chức Binh mã sứ Thiên Sơn quân.
Do Thiên Sơn quân quân pháp không nghiêm, bôn soái quyết định, tất cả quan quân Thiên Sơn từ chức phó úy trở lên đều phải học tập lại quân quy, quân kỷ trong ba tháng.
Sau khi kết thúc học tập sẽ nhậm mệnh lại, bây giờ Lữ soái và đội chính có tể về doanh, dẫn quân đội ra tập hợp.”
Lữ soái và đội chính thở phào nhẹ nhõm, vội lũ lượt kéo vào doanh chỉnh đốn quân đội, trên bãi thao trường giờ chỉ còn lại mười mấy vị phó úy và hiệu úy thất thểu cúi xầm mặt.
Khánh An ra hiệu mắt, để một đội kỵ binh đi lên áp giải chúng đi.
Lúc này, ngoài cửa lớn doanh trại, từng đội từng đội binh sĩ từ trong doanh đi ra, đều không mang theo vũ khí, hai ngàn binh sĩ xếp thành mười hàng ngay ngắn, Lý Khánh An thúc ngựa đi lên.
Sàng giọng nói: “Lý Khánh An ta do Thánh thượng ủy nhiệm, thống lĩnh quân mã Bắc Đình, dù là quân Hàn Hải, Thiên Sơn hay Y ngô, ta đều xem trọng như nhau, bổn nhân ta từ một tiểu tốt Thú Bào từng bước đi đến ngày hôm nay, thấu hiểu nổi khổ của binh sĩ, tại đây, ta cho lập bốn quân quy mới, thứ nhất, bắt đầu từ hôm nay, quan quân Bắc Đình nhất luật không được phép bảo quản tiền vật binh sĩ lúc tác chiến, tiền vật thống nhất do Hành quân tư mã tạm thời quản Lý và lập biên nhận, sau trận chiến sẽ hoàn trả bốn nhân, còn nếu chẳng may hy sinh, sẽ giao cho gia quyến chỉ định, thứ hai, sẽ cải thiện bữa ăn cho binh sĩ, lập tiêu chuẩn thống nhất, và ta sẽ cho điều binh sĩ đi điều tra, kiểm tra tình trạng bữa ăn của các quân, thứ ba, kỳ nghỉ quân Bắc Đình sẽ từ ba năm một tháng đổi thành một năm một thang, và ngoài ra cho phép người nhà đến thăm, thứ tư, Bắc Đình sẽ thành lập Quân kỷ kê tra tư, kê tra tư sẽ đi tuần quân đội các nơi, cho phép binh sĩ thượng thư với kê tra tư, và kê tra tư này trực tiếp do bổn soái phụ trách, bốn điều này từ ngày ban hành chính thức có hiệu lực.”
Lý Khánh An công bố một điều, chúng binh sĩ reo hoan một lần, không những quân Thiên Sơn, mà ngay cả quân Hàn Hải cũng hùa theo náo nhiệt không kém, bốn điều luật mới của hắn, điều nào điều nấy đến đánh trúng điểm tiêu cực trong quân đội, cái khác không nói, chỉ riêng vật tài vật của binh sĩ bình thường, đều sẽ do quan quân bảo quản, đây là một điều luật bất thành vãn, rất nhiều quan quân vì muốn mưu đoạt tài sản của binh sĩ đều nghĩ cách đày người binh sĩ đó đến chết mới thôi, để chiếm đoạt tài sản, còn tình trạng thiếu thốn hay mắt cắp, lại là việc như cơm bữa.
Tiếng hò reo hoan hỉ xé tan bầu trời đêm yên tĩnh, bốn điều luật mới của hắn vừa ban ra, liền lập tức lấy được quân tâm của quân Thiên Sơn, đô đốc Triệu Đình Ngọc đã biến mất tông mất tích khói đầu họ.
Sáng sớm hôm sau.
Y Ngô Đô đốc Hàn Chí đã đến đại doanh, từng chi tiết mọi việc xảy ra trên quân Thiên Sơn đêm qua hắn đều đã biết, mãi đến tối qua hắn mới hiểu ra, tấn công người Các La Lộc chẳng qua chỉ là một trong các thủ đoạn soán quyền của Lý Khánh An mà thôi, mâu thuẫn của người Sa Đà và Các La Lộc dự đoán chắc cũng là do hắn khiêu khích ở giữa, từ trận chiến Ngọc Môn Quan đến nay, người Sa Đà đã trở thành một con chó trung thành của Lý Khánh An, từng bước từng bước, từng khâu từng khâu, Lý Khánh An không có quyền nhân sự, không thể bãi miễn chúng được, nên mới phải có cuộc chiến tấn công Các La Lộc.
Dùng quân pháp xử trí trong quân đội, mọi việc đều theo đúng như lẽ thường.
Hàn Chí chỉ nghĩ đã thấy rung cả tim gan, hắn biết hôm qua giết Triệu Đình Ngọc, vậy sắp đến sẽ là hắn, hắn không chỉ nhìn thấy thủ đoạn của Lý Khánh An, còn nhìn thấy cả quyết tâm muốn tiêu diệt dị kỷ của hắn, cũng nhìn thấy sự ủng hộ của Thánh thượng với hắn, không có Triệu Đình Ngọc đứng sau nâng đỡ, hắn còn gì có thể đối kháng cùng Lý Khánh An?
Sự khác nhau lớn nhất giữa Hàn Chí và Lý Khánh An là hắn không có hậu thuẫn, không có Khánh Vương Đông Cung, tất cả những thứ ấy đều không liên quan hắn, hắn không có trói buộc gì.
Sau khi đến đại doanh, Hàn Chí cởi áo ra, trần truồng thân trên quỳ trước cửa doanh môn thỉnh tội, một lát sau, Lý Khánh An vội từ trong đại doanh đi ra.
Khánh An vội dìu hắn đứng dậy nói: “Hàn Tướng quân, tuyệt không thể làm thế.”
“Ty chức nhất thời hồ đồ, không hiểu quân quy, để rồi soán quân quyền, xin sứ quân xử tội.”
Lý Khánh An dìu hắn dậy, lại lệnh thân binh mang một bộ áo mới đến, hắn trao tận tay cho Hàn Chí, cười nói: “May mà nơi này là thảo nguyên, nếu không Hàn tướng quân lại muốn học theo Liêm Pha (* Liêm Pha phụ kinh thỉnh tội với Lạn Tương Như) ư? ”
Hai người nhìn nhau cười, Lý Khánh An ôm lấy vai hắn cùng đi vào đại doanh.
“Ta ban bố bốn điều luật mới, Hàn tướng quân có suy nghĩ thế nào?”
“Sứ quân không hổ danh là xuất thân tiểu tốt, am hiểu nỗi khổ binh sĩ, có điều sứ quân không sợ đắc tội các quân quan khác sao?”
“Làm việc sao lại có thể sợ đắc tội người, có điều binh sĩ có thể đề bạt làm quan quân, nhưng quan quân thì khó mà bị giáng xuống làm binh sĩ, Hàn tướng quân nghĩ thế nào?”
“Ha ha! Sứ quân nói cũng có lý, nếu chỉ là trên có quy cừ, dưới có đối sách, phương án của Sứ quân e rằng còn phải chi tiết hơn.”
“Ta biết, coi như cho anh em yên tâm cái đã, cổ vũ sĩ khí, chúng ta một trận đánh bại Các Hồ.”
Đại hội trường lão Các La Lộc đã mang đến biến tố mới.
Kết quả nằm ngoài dự kiến của Mưu Thích Hắc Sơn.
Phần lớn trưởng lão trong tộc lại ủng hộ phương án của đại vương tử, cầu viện từ Hồi Hột, ép quân Đường rút về phía nam.
Sau đó tiêu diệt bộ lạc Sa Đà.
Dù bản thân Hắc Sơn không tán thành phương án này, nhưng vì để tranh một vị trí nhất định cho thứ tử, lão cũng đành phải đồng ý việc cầu viện Hồi Hột, đối kháng quân Đường.
Chính trong lúc quân Đường Bắc Đình đi vào khống chế của Các La Lộc, một vạn kỵ binh của tộc Bạ Dã Cát Hồi Hột cũng đã vượt qua Kim Sơn, đi vào vùng khống chế của Các La Lộc.
Và đồng thời, hai vạn kỵ binh của Các La Lộc bắt đầu tập kết, ba vạn kỵ binh người Hồ tập hợp tại phía đông Huyền Trì, chuẩn bị nhất phân thắng bại cùng quân Đường Bắc Đình.
Đây có thể xem như một chiến dịch quy mô vừa, cũng giống như An Tây đối đầu Thồ Phồn.
Phạm Dương đối Khuyết Đơn.
Kiếm nam đối Nam Triệu vậy, trận chiến này cũng liên quan đến việc mở rộng lãnh thổ về phía tây của Đại Đường, Đại Đường một lòng muốn hồi phục lại quân chấn Túy Diệp, và Các La Lộc cũng đầy dã tâm với Túy Diệp, còn kẻ thứ ba như Hồi Hột lại càng như một con sói xảo quyệt, chập chờ ngồi đợi cơ hội, nếu có thể, chắc hẳn nó cũng không một chút chừng chữ sẵn ráng nuốt chửng cả Các La Lộc và Bắc Đình.
Nhưng với Lý Khánh An, trận chiến này không đơn thuần chỉ là tiêu hủy dã tâm của Các La Lộc, hắn nhìn xa lắm, cái hắn nhắm đến là lưu vực Di Bá Hải, vùng đất phì nhiêu của cái nơi mà đời sau gọi là Ba Dĩ Khách Thập hồ (Hồ Balkhash).
Đoạt được lưu vực Ba Dĩ Khách Thập hồ, hắn đã đứng trên nóc nhà của vùng Trung Á, còn Các La Lộc chính là hòn đá chắn lớn nhất trong đường thẳng tiến của hắn mà thôi.
Chương 176: Vực Thẳm Tàng Hồ(2) oOo
Ngày mồng một tháng năm.
Sau vài ngày nghỉ ngơi chinh tu, đội ngũ quân Đường đến phúc địa Cát La Lộc đầu tiên, khu vực thương du sông Đa La Tư, là sông Ngạc Dĩ Tề Tư ngày nay, đây là nơi kết hợp giữa khu vực núi đồi và thảo nguyên, phần lớn là núi đồi thấp, phân bố thành những rừng rậm trải dài.
Xa xa là mạch núi Kim Sơn.
Đội quân Đường đầu có một ngàn kỵ binh, do bảy trăm quân Đường và ba trăm kỵ binh Sa Đà tổ thành, chủ tướng là Nam Tề Vân, còn một tướng lĩnh Sa Đà là Chu Tà Uy Nghĩa.
Chu Tà là tộc danh của người Sa Đà, cũng gần âm với từ Xứ Nguyệt, người Sa Đà chính là người Đột Khuyết Xứ Nguyệt, vì thế Chu Tà trở thành họ của quý tộc người Sa Đà.
Chu Tà Uy Nghĩa là cháu trai của Diệp hộ Đốt Chi, năm nay ba mươi, thân hình cao to, vạm vỡ cường tráng, là một trong những dũng sĩ nổi tiếng của Sa Đà, thủ hạ của hắn gồm ba trăm kỵ binh cũng đều là thợ săn trường năm sống tại khu Nội Kim Sơn.
Ai ai cũng đều có kinh nghiệm săn bắt dã thú, nhiệm vụ của bọn họ chính là truy tìm tông tích của người Các La Lộc chủ lực.
Chu Tà Uy nghĩa biết chút tiếng Hán, nhưng không tinh thông lắm, hắn và Nam Tề Vân giao tiếp phần lớn đều thông qua quơ tay chỉ chân.
“Nam Tướng quân, chúng ta có thể men theo dòng chảy Đại Hà để đến Đại Thủy Diện.”
Chu Tà Uy Nghĩa chỉ chỉ thị ý, để Nam Tề Vân hiểu ý của hắn đang nói là một mặt hô to”cũng là khu vực hạch tâm của người Các La Lộc: Huyền Trì.
Nam Tề Vân nghe hiểu ý hắn, cười nói: “Người Các La Lộc đâu phải là dê mà để chúng ta vây lại, ta đoán giữa đường đã có thể gặp được đại đội của chúng.”
Chu Tà Uy Nghĩa quơ quơ đại đao ra tư thế chém giết, nói: “Ý của nam tướng quân là đánh một trận cùng người của Các La Lộc?”
“Không nhất định, người ít chúng ta đánh, nhiều thì chúng ta rút.”
Hắn vừa nói xong, liền có mấy người Sa Đà phóng ra, chỉ vào mạch núi ở xa, dùng tiếng Đột Khuyết kích động chỉ trỏ gì đấy.
“Bọn họ nói gì thế?” Nam Tề Vân nghe không hiền tiếng Đột Khuyết.
Chu Tà Uy Nghĩa cũng trở nên kích động, ấp a ấp ủng nói: “Bọn chúng nói ở giữa núi phát hiện có rất nhiều người Các La Lộc, hình như đều là phụ nữ và trẻ em.”
Không đợi Nam Tề Vân hạ lệnh, người Sa Đà đã phấn khích thúc ngựa cùng chạy đến vùng mạch núi.
“Tướng quân, đi nhanh thôi! Đến muộn là không có phần nữa.” Chu Tà Uy Nghĩa cũng thúc ngựa đuổi theo.
Một lát sau, ngoài Đường quân ra, kỵ binh Sa Đà đã chạy sạch không còn một mống, nam Tề Vân muốn gọi cũng không kịp, chỉ đành hươ tay ra hiệu cho quân Đường đi lên.
“Mọi người đuổi theo ngay, chú ý quân địch mai phục, tất cả nghe mệnh lệnh ta hành sự.”
Quân Đường lũ lượt quay đầu ngựa xông lên đồi, họ men theo dấu tích của người Sa Đà đi về hướng bắc, đi về phía thượng du, vượt qua một dòng sông nông, lại phóng ngựa thêm ba mươi dặm hơn, giờ đã ngày càng đến gần với núi thể khổng lồ, phía trước là một eo núi rộng thênh thang, nó phảng phất như một thanh kiếm khổng lồ cắt ngang mạch núi, hình thành một đường eo núi âm u rộng chừng hai dặm.
Tứ phía rừng rậm xum xuê, mọc đầy đại thụ trọc trời, bóng cây ngả trước miệng cố chắn ánh sáng lại, không cho nó phá đi bầu không khí âm u ám muội trong khu rừng xung quanh, gió lạnh vù vù, cùng tiếng dòng suối nhỏ róc rách trong cốc hợp lại thành con sông nhỏ, chảy mãi chảy mãi về hướng nam nhập vào sông Đa La Tư.
“Tướng quân, trong nước có máu!”
Một Đường quân phát hiện trong nước có vết máu, nam Tề Vân nghe thế vội ngẩng đầu lên nhìn về phía miệng cốc, một dự cảm không tốt bỗng nhiên nảy sinh trong lòng, rất có khả năng Sa Đà đã gặp mai phục.
“Xông vào!”
Hắn một tiếng lệnh hạ, bảy trăm kỵ binh quân Đường cùng thúc ngựa xông vào cốc núi, trong một chốc hoa nước tung tóe.
Trong cốc rất tối, đi mãi tận ba dặm mới nghe thấy tiếng đấu đá chém giết, qua khỏi cái cua núi trước mặt, cốc núi lại là một địa hình hoàn toàn khác, thay vào đó là sự thênh thang trãi rộng, lọt vào tầm mắt của quân Đường là một cảnh tượng thảm thiết, đâu đâu chỉ thấy toàn thi thể của người Sa Đà, chân gãy tay rơi, máu chảy thành sông, trên thi thể phần lớn đều cắm đầy cung tiền, chỉ thế thôi đã nói rõ cảnh ngộ của họ.
Không xa, vài trăm kỵ binh vẫn đang hỗn chiến, chu Tà Uy Nghĩa người trúng hai mũi tên, đương liều mình quơ đại đao chống chọi, hắn đã bị mười mấy tên người Các La Lộc trùng trùng bao vây, ba trăm kỵ binh Sa Đa chỉ còn lại một nửa, có điều người Các La Lộc cũng không nhiều, cùng lắm là hai ba trăm người, chỉ là do mai phục thành công giúp chúng chiếm thế thượng phong.
Người Các La Lộc ai ai như điên như dại bất chấp tất cả ngăn kỵ binh Sa Đà xông vào trong cốc núi, “Giết!”
Nam Tề Vân một tiếng hô to, kỵ binh nhà Đường ùn ụt tràn lên, cung tên lại được phóng như vũ bão dày dặn, trường mâu phi vũ, hoành đao tung hoành.
Chiến lực của quân Đường cực cao, không chỉ là do huấn luyện tinh nhuệ, mà cả trang bị cũng cực tinh tế, những cây cung tiễn mạnh mẽ, mâu dài nhọn sắc, hoành đao sắc bén, và giáp mình Quang Khải kiên cố, nếu so với quân Đường, trang bị của người Các La Lộc đúng là thua xa, người Các La Lộc thường đều không có chiến giáp, vũ khí cũng rất thô sơ, cung tiễn đều tự chế, thời bình họ chỉ là dân du mục, thời chiến lại là binh sĩ.
Nhưng đội quân Các La Lộc trước mắt thật chất mà nói thì cũng tương nói là tinh tế, bọn họ đều có giáp da đồng nhất, y giáp phục sức đều như nhau, bọn họ phảng phất như những thị vệ của quý tộc nào đấy.
Quân Đường vừa tham gia vào, thế cuộc trận chiến lập tức đảo ngược, hai trăm người Các La Lộc khó mà chống đỡ.
Dưới sự tấn công ác liệt của quân Đường, chỉ một chốc quân Các La Lộc đã chết hơn nửa, chỉ còn lại vài chục người vừa đánh vừa lui, cuối cùng cũng bị mưa tiễn nghiệt ngã của quân Đường nuốt chứng.
Trong sơn cốc cuối cùng cũng trở về với yên tĩnh, trên bãi đất mười mấy mẫu này bỗng chốc đâu đâu la liệt toàn xác chết, còn mười mấy thương binh của Các La Lộc cũng bị người Sa Đà một đao cho bay đầu.
Sơn cốc lại vang lên những tiếng thảm khóc cuối cùng.
Những người Sa Đà còn lại, tiếp tục háo hức xông vào cốc nội.
Chu Tà Uy nghĩa thân trúng hai tiễn, nhưng đều không trúng phải chỗ hiểm, tuy đã mệt mỏi vô cùng, nhưng hắn vẫn đi theo thuộc hạ xông vào cốc núi, Đường quân cũng gia mã tốc đuổi theo.
Cốc núi sâu hơn tưởng tượng nhiều, càng vào lại càng thấy rộng lớn.
Phảng phất như lạc vào một thế ngoại đào nguyên.
Vừa qua khỏi một cửa vào, mắt họ đều sáng bừng lên! Chỉ thấy cốc núi rộng hơn mười dặm, địa thế mênh mông, giữa là một hồ to, xung quanh cây cối um tùm, trên những mảnh đất trống gần hồ, có hàng trăm túp lều trại, chất liệu của lều đều tốt, trong đó còn có những túp lều màu sắc sặc sỡ, đây là lều mà chỉ có quý tộc Luật Đặc mới có được.
Nam Tề Vân đột nhiên hiểu ra, hèn chi những người Sa Đà ai ai đều hưng phấn dị thường, bọn họ quả nhiên phán đoán quá độc.
Phát hiện ra đây là nơi ở của quý tộc Các La Lộc.
Hắn ngẩng đầu nhìn nhìn phía trên, xung quanh đều được bao bọc bởi vực thẳm vách sâu, chắc người Sa Đà đã phát hiện ra họ ẩn mình trong vực sâu này từ phía trên.
Lúc này, hắn đã không còn thời gian nghĩ ngợi, người Sa Đà như lang như sói xông vào dãy lều trại gần nhất, bắt đầu hãm hiếp cướp bóc, tiếng thảm khóc của phụ nữ, tiếng khóc inh ỏi của trẻ nhỏ, tiếng chửi bới và thét thảm thiết của người già, nối nhau vang khắp núi đồi.
Nam Tề Vân giận dữ thét lên: “Đi ngăn chúng lại, không cho giết phụ nữ trẻ nhỏ bừa bãi.”
Quân Đường lập tức phóng ngựa xong vào trong doanh, bọn họ binh lực hùng hậu, chẳng mấy chốc đã ngăn lại hành động lạm sát của người Sa Đà, mấy mươi tên kỵ binh Sa Đà đương vừa định xông vào đám lều trại khác, liền bị hai trăm quân Đường dùng mâu ngăn lại.
“Tướng quân nhà ta có lệnh, không được phép tự ý cưới bóc tài sản.”
Người Sa Đà bỗng nhiên xôn xao cả lên, chu Tà Uy Nghĩa phẫn nộ, hươ đao hét: “Bọn ta liều mình là vì cái gì? Không phải vì cướp phụ nữ và tiền tài sao?”
Hắn vừa dứt lời, một cây tiễn vèo tới xẹt qua mặt hắn, cắm thẳng lên thân cây.
Phen này Chu Tà Uy Nghĩa lập tức câm miệng lại.
Nam Tề Vân cầm cung từ từ đi lên, nói: “Ta cứu một mạng của các ngươi, nên các ngươi phải nghe ta.”
Hắn hươ tay mệnh lệnh thủ hạ: “Đuổi tất cả người trong doanh ra, tài sản đóng gói mang về, ai dám phản kháng, bất luận nam nữ, giết không tha!”
Nói xong, hắn lại phẫn nộ nói với người Sa Đà: “Đường quân kỷ luật nghiêm minh, không được lạm sát người vô tội, càng không được hãm hiếp phụ nữ, tất cả tài sản, già trẻ nam nữ đều phải đưa về đại doanh, nên xử lý Thế nào, sẽ theo quy định của quân Đường, phần thuộc về các ngươi.
Sứ quân nhà ta tuyệt sẽ thưởng cho các ngươi.
Sứ quân có nói, ai dám cả gan làm trái quân lệnh, dù là quân Đường hay Sa Đà, đều giết không tha!”
Một phiên dịch lại cao giọng nói một lần, chu Tà Uy Nghĩa không dám đắc tội quân Đường, hắn thấy cướp bóc vô vọng, đành ấm ức ngồi xuống, mệnh người xử lý vết thương cho mình, người Sa Đà bỗng chốc như quả bóng xì hơi, ai ai đều ỉu xìu thất thểu, chỉ đành trơ mắt nhìn quân Đường thu hết tài sản.
Phụ nữ, bọn họ không biết cái gì là quân kỷ, trong mắt họ, quân Đường đang bóc lột ăn xén hết phần của họ.
“Tướng quân, ngài mau qua đây!”
Một tên binh sĩ chạy đến trước mặt Nam Tề Vân thì thầm vài câu, nam Tề Vân nghe xong kinh ngạc đi theo hắn đến túp lều trại lớn nhất, trong lều là một màu vàng óng ánh lộng lẫy, trải đầy những chiếc thảm đắt tiền, nơi nơi đều là đồ dùng bằng vàng.
Dưới sự giám sát của mấy vị quân Đường, hơn mười phụ nữ trẻ ăn mặc diêm dúa sợ hãi co mình trong một góc, một phụ nữ ăn mặc diêm dúa không kém bị đưa đến, có thể nhận ra được nàng chính là một người Hán.
Nàng quỳ lạy cầu xin liền liền: “Cầu xin tướng quân tha cho bọn tỳ nữ.”
“Ngươi là người Hán?” Nam Tề Vân liếc nhìn ả một phát hỏi.
Lời của Nam Tề Vân khiến nàng nhớ lại việc cũ đau buồn, nàng rơi lệ đáp: “Nô tỳ là người Hán Y Châu, ba năm trước bị người Các La Lộc bắt cóc đến đây, sau đó lọt vào mắt xanh của đại vương tử, trở thành thê thiếp của hắn.”
“Đại vương tử?” Nam Tề Vân ngỡ ngàng.
“Ngươi nói Mưu Thích La Đa?”
“Chính là hắn, đây là bộ lạc của hắn, bọn tỳ nữ đều là nữ nhân của hắn.”
Nàng sợ hãi nhìn một Hồ cơ trong số đó nói: “Người phụ nữ Luật Đặc kia là chính thê của hắn.”
“Nam tướng quân, người đến nhìn xem các rương này.” Một binh sĩ chỉ vào sau lều nói.
Bỗng nhiên, chính thê của Mưu Thích La Đa chính là người con gái của đại thương nhân Luật Đặc kia kêu rú lên, bất chấp tất cả xông lên, dùng móng tay dài nhọn của mình bất chấp tất cả cào cấu tên binh sĩ đã phát hiện ra chiếc rương.
Một quân Đường vội thẳng tay cho ả một bạt tai, mấy nữ nhân khác đều vội lôi ả về, nhưng ả vẫn bất chấp giẫy giụa, lớn tiếng gào khóc, cấu xé quần áo mình, để rồi cuối cùng, áo quần xộc xệch ngồi lê dưới đất vừa đá vừa giẫy, như thể người ta sắp muốn lấy mạng nàng.
Cử chỉ của ả càng khiến Nam Tề Vân tò mò, hắn đi nhanh về sau lều.
Sau lều là hai mươi chiếc rương to tướng được bọc sắt, và đều có khóa.
“Crắc!” Hắn tùy tay một đao chém đứt khóa một chiếc rương lớn gần đấy, và từ từ mở ra, trước mắt hắn là hoàng kim lấp lánh, tất cả mọi người đều kinh thán, trong rương lại là từng viên từng viên hoàng kim xếp ngay ngắn, mỗi viên như thế ít nhất năng hai ba cân.
“Tướng quân, bên đây cũng thế!” Một binh sĩ mở một chiếc rương khác, phát hiện bên trong cũng là hoàng kim.
“Bên đây cũng thế!”
Trong rương hầu hết đều là hoàng kim, đây là một món tài sản khổng lồ, là tích góp mười mấy năm nay của Mưu Thích La Đa, bây giờ toàn bộ đều là vật trong túi của quân Đường.
“Nam tướng quân, làm sao đây?”
Nam Tề Vân trầm ngâm một lúc, khẽ giọng nói: “Số hoàng kim này để các huynh đệ mang trên người, tạm thời đừng để bọn người Sa Đà kia biết được!”