Thời gian dần dần tới đầu tháng mười, gieo hạt mùa hè thu hoạch vụ thu, các nơi ở Quan Trung bắt đầu xuất hiện cảnh tượng bận rộn thu hoạch vụ thu, lác đác từ cuối tháng chín bèn bắt đầu rồi.
Đối với triều đình mà nói, bất luận là gieo mạ vụ xuân hay là thu hoạch vụ thu cũng đều là thời khắc vô cùng quan trọng, Mỗi khi đến lúc này các quan lớn trọng thần của triều đình cũng đều phải rời khỏi triều phòng rộng và thoáng, đích thân xuống ruộng nương đi thị sát nông tình, điều này cũng không phải là cố làm ra vẻ, mà là một thứ chế độ, cái gốc của quốc gia nằm ở ngành nông, không có thuế phú của nông dân, không có gieo vụ và thu hoạch, triều đình sẽ khó có thể tiếp tục duy trì được.
Bởi vậy hàng năm bắt đầu từ cuối tháng chín, chính sự đường của triều đình, tự giám của các bộ, ngoại trừ bộ phận ít quan viên ở lại duy trì việc vận hành của bộ máy triều đình ra, các quan lớn trọng thần khác cũng đều chia ra đến các nơi, xâm nhập xuống đồng ruộng các nơi, đi thị sát tình hình thu hoạch vụ thu, các tình hình thực tế mà bọn họ có được từ tình hình thu hoạch vụ thu, sẽ trở thành căn cứ cho việc định ra các loại chính sách của sang năm.
Kỳ Châu cũng chính là khu vực Thiểm Tây Bửu Kê hôm nay, thời triều Đường là vùng đất quan trọng của bình nguyên Quan Trung chi sau Kinh Triệu phủ, Một số những tòa thành nổi tiếng của Quan Trung như Trần Thương, Quắc huyện, Ưng huyện, My huyện vân vân .., cũng đều nằm trong cảnh nội Kỳ Châu.
Trong châu có trăm vạn nhân khẩu, mấy chục vạn khoành ruộng tốt, nguồn nước sung túc, đất đai phì nhiêu, giao thông tiện lợi, hàng trăm năm nay vẫn luôn là một trong những hùng châu của triều Đường, thàng mười hai của Đường Chí Đức năm thử hai trên lịch sử.
Đường Túc Tông sau khi thu phục Trường An, liền đem Kỳ Châu thăng cấp làm Phượng Tường phủ.
Nhưng lịch sử ở sau thời hậu Thiên Bảo đã đi đến ngã rê khác, định nghĩa của Kỳ Châu bèn trở thành một dấu hiệu của cục diện chính trị bất ổn.
Sau khi Lý Hanh và Lý Khánh An đạt thành hiệp nghị chia ra cai trị Quan Trung.
Kỳ Châu một lần nữa bị đồi tên thành Phượng Tường phủ.
Nhưng sau khi Lý Hanh cường chế đăng cơ, lại lần nữa đem Phượng Tường phủ sửa lại thành Kỳ Châu, trớ trêu là những quan viên do Bùi Mân cầm đầu tại chính sự đường lại không chịu thừa nhận, bởi vậy bèn xuất hiện một cục diện ngượng ngàing.
Kỳ Châu vừa có Phượng Tường phủ doãn, lại có Kỳ Châu thái thú.
Cách đây hai tháng, Lý Khánh An và chính sự đường đạt thành hiệp nghị cuối cùng, Phượng Tường phủ sửa tên thành Phượng Tường đô đốc phủ, trở thành một cơ cấu quân sự, không hói đến dân sự, do Thôi Quang Viễn xuất nhậm đô đốc, còn Kỳ Châu thì chủ quản dân chính, như vậy quân chính chia ra, bèn áải quyết được cục diện ngại ngùng rằng hai cơ cấu Kỳ Châu chồng chéo nhau.
Đầu tháng mười, Lý Khánh An đã đặt chân đến Ung huyện Kỳ Châu, bắt đầu hành trình thị sát Kỳ Châu.
Phượng Tường đô đốc phủ có ba vạn quân đội, cũng đều là tân binh mà năm trước đã chiêu mộ được, nhưng mà ở trên cương vị của phía chính phủ thì danh xưng đó, đã khác với trước đây rồi, không còn gọi là quân An Tây nữa, đổi thành quân Phượng Tường, hiện tại Lý Khánh An là thiên sách thượng tướng kiêm thiên hạ binh mã đại nguyên soái, ở xa lĩnh chức An Tây tiết độ sứ, không thể dùng một cái tên mà nói toàn bộ, dùng quân An Tây đến thay thế quân Đường, Quân An Tây vẫn còn tồn tại, nhưng phạm vi lại rút nhỏ đi rất nhiều, chủ yếu là chi bốn vạn quân chủ lực An Tây do Lý Từ Nghiệp suất lĩnh, còn những quân đội khác được sắp đặt ở Trung Nguyên, tỷ như quân Lũng Hữu mà Lý Quang Bật suất lĩnh, hay quân Đồng Quan mà Vương Tư Lễ suất lĩnh, quân Đại Đồng do Lôi Vạn Xuân suất lĩnh, quân Hà Tây do Lệ Phi Thủ Du suất lĩnh, quân Hàn Hải do Thôi Kiền Hữu suất lĩnh, quân Nội vệ do Nam Tề Vân suất lĩnh, những đội quân này cũng đều trực thuộc Lý Khánh An, công thêm quân Sóc Phương và quân Hà Đông của Quách Tử Nghi, liền được gọi chung là quân Đường, đế khu biệt với Nam Đường, lại xưng là quân Bắc Đường.
Nhưng mà lúc Lý Khánh An đến Kỳ Châu.
Thôi Quang Viễn cũng đã từ Trần Thương dẫn quân xuất chinh Nam Trịnh, hắn sắp cải nhậm Hán Trung tiết độ sứ, dẫn quân đóng chốt ở Hán Trung, Lý Khánh An không có gặp được bản thân Thôi Quang Viễn, chỉ có tân nhậm Phượng Tường đô đốc Điền Trân chạy đến nghênh đón.
Lý Khánh An dẫn ba nghìn thiết kỵ thân binh đóng chốt trong một tòa quân doanh ở cách bên ngoài thành Ung huyện mười dặm, dựng lên một lều lớn bằng da dê, nơi này chính là hành dinh lâm thời của Lý Khánh An.
Lý Khánh An đang ở trước sa bàn nghiên cứu chiến sự của Hán Trung, hắn mới vừa nhận được thư do bồ câu đưa tới, Lý Từ Nghiệp không thương một binh một tốt, đã lấy được Bao Thành huyện, hiện đại quân đang nhắm hướng Nam Trịnh xuất phát.
Tuy rằng Lý Khánh An đối với trận chiến Hán Trung cũng không hề mang kỳ vọng gì cả, với sự lợi hại của quân An Tây, việc lấy được Hán Trung là kết quả hiển nhiên, mấu chốt là thời gian và tốn thất nhiều hay ít thôi.
Hiện tại Lý Từ Nghiệp chỉ dùng một canh giờ và với cái giá là không tổn thương một binh một tốt nào cả đã công hạ được Kiên thành Bao Thành huyện, điều này quả thực làm cho Lý Khánh An cảm thấy một phen kinh ngạc và thán phục, Lý Từ Nghiệp quả thật rất có tiến bộ, phía dưới thì chỉ còn xem hắn làm thế nào công hạ Nam Trịnh thành.
Lúc này, ngoài trướng truyền đến tiếng bẩm báo của thân binh: “Đại tướng quân.
Điền tướng quân tới rồi.”
“Vào đi!”
Tiếng bước chân vang lên, đại tướng Điền Trân nhanh bước đi vào lều lớn, quì một aối hành lễ nói: “Mạt tướng Điền Trân, tham kiến Đại tướng quân!”
“Điền tướng quân mời đứng lên!”
Lý Khánh An cười ha hà tiến lên đỡ Điền Trân dậy, vỗ vỗ bà vai hắn nói: “Thế nào, Phượng Tường đô đốc làm có đã lắm không!”
Nếu là ở vài năm trước.
Điền Trân nhất định sẽ nhếch miệng cười hắc hắc không ngừng, nói: “Tốt nhất là có thể cưới thêm vài cô gái xinh đẹp.”
Hắn sẽ nói như vậy, nhưng khi quyền uy của Lý Khánh An ngày càng nặng hơn, thì thuộc hạ của hắn cũng đều bắt đầu kính sợ hắn, không dám nói đùa với hắn một cách tùy ý nữa, cho dù hiện tại Lý Khánh An chỉ là nói vui đùa như vậy thôi.
Điền Trân vẫn khom người nói: “Mạt tướng đem hết tâm sức canh giữ Phượng Tường, tuyệt không dám có nửa phần chậm trễ.”
Lý Khánh An nhìn chăm chú hắn một lát, trong lòng cũng dâng lên vài phần thất vọng, sự hứng khởi đã tiêu tan, liền lãnh đạm nói: “Mời ngồi xuống nói chuyện đi!”
“Tạ ơn Đại tướng quân!”
Điền Trân ngồi xuống, Lý Khánh An cũng về tới chỗ ngồi của mình, liền cười nói: “Hãy nói xem, tình hình của Kỳ Châu gần đây như thế nào?”
Lý Khánh An cũng không có hỏi rằng tình hình của Phượng Tường đô đốc phủ, mà là hỏi tình hình gần đây của Kỳ Châu.
Điền Trân hiểu được ý của Lý Khánh An, liền hạ thấp người đáp: “Hồi bâm Đại tướng quân, mấy ngày nay Kỳ Châu chủ yếu bận rộn hai chuyện, một là chuẩn bị việc quân lương Hán Trung, ta nghe nói ngày hôm qua đợt quân lương ba vạn thạch đầu tiên và một lô quân phục dày và ấm cũng đều đã khởi hành vận chuyển đến Hán Trung, do Kỳ Châu tư mã Hàn Tuấn áp tải đi trước.”
‘Thế Thôi thái thú đang làm cái gì?” Lý Khánh An lại hỏi.
Thôi thái thú chính là Thôi Ninh người suýt nữa bị sán tội thông đồng với địch, tân nhậm Thôi thị gia tộc tộc trưởng, cũng là nhân vật trọng tâm của đợt phong ba nhà họ Thôi vừa rồi, là cây gai trong mắt của Lý Khánh An.
Nhưng Điền Trân lại không hiểu tâm tư của Lý Khánh An, hắn giơ ngón tay cái lên, tán thường nói: “Thôi Ninh này quả nhiên rất tài ba, làm người ta kính nê!”
Lý Khánh An che đậy sắc mặt hỏi: “Tài ba như thế nào?”
“Khoảng thời gian vừa rồi có năm nghìn hộ từ Hà Bắc di dân đến, triều đình phải đưa bọn họ an trí ở Kỳ Châu, đất đai dùng đến chính là Kỳ Vương điền trang nằm ở ven kênh đào Thẳng Nguyên phía bắc Quắc huyện, ước chừng ktioảng năm ngàn khoảnh ruộng tốt, vốn dĩ những ruộng tốt đó là muốn phân phát cho tá điền của địa phương, nhưng vì di dân mới đến, kế hoạch đã có sự thay đổi.
Nghe nói mấy ngàn hộ tá điền địa phương vô cùng bất mãn, bèn tự phát võ trang lên, đòi liều mạng với di dân Hà Bắc.
Thôi thái thú chi dẫn theo hai viên tùy tùng xâm nhập thôn xóm của tá điền, đàm phán với mấy chục vị trưởng lão gia tộc của địa phương.
Hắn ở nơi đó ba ngày ba đêm, những hộ nông địa phương đòi liều mạng sống chết mà giữ đất đai không ngờ bị hắn thuyết phục cả, đồng ý nhường ra một nửa đất đai cho quan phủ an trí di dân Hà Bắc, thật sự không dễ dàng a! Khiến người ta kính nể.”
Lý Khánh An gật gật đầu nói: “Xem ra Thôi thái thú rất được dân tâm a!”
“Vâng ạ! Thôi thái thú không hổ là xuất thân từ danh môn thế gia, thanh liêm chính trực, hơn nữa cực kỳ thấu hiểu dân chúng, mỗi đợt tết thanh minh, trung nguyên và lạp bát, hắn cũng đều đích thân đi thăm mẹ góa con côi, nghe nói mười mấy năm qua năm nào cũng như thế, những châu huyện mà hắn nhiệm kỳ qua, ở dưới sự quản hạt của hắn nhân dân đều an khang, những năm đại thiên tai cũng có thểan cư lạc nghiệp, mọi người nhắc tới Thôi thái thú, không ai không chân thành tán dương hắn cả.”
“Vậy sao? Ngươi nói đến ta cũng có hung trí rồi, ta thật muốn xem một chút vị Thôi thái thú này.” Lý Khánh An lãnh đạm nói.
Kỳ Vương điền trang nằm ở phía bắc của Quắc huyện, ven kênh Thăng Nguyên, là một mảnh đất đai ruộng điền vô cùng phì nhiêu, điền trang mênh mông vô bờ, tổng công có hơn năm ngàn ba trăm khoành, do mười mấy thôn trang lân cân, mấy ngàn hộ tá điền thay hắn trồng trọt, còn có gần ngàn hộ nông nô, đây là đất đai mà Kỳ Vương dùng mười năm trời chiếm dụng mà có được.
Kỳ Vương sớm đã chết đi nhiều năm, do mấy người con trai của hắn đem đất đai chia cắt ra, nhưng đối với bên ngoài vẫn gọi chung là Kỳ Vương điền trang.
Sau khi Lý Dự lên ngôi, liền dấy lên một đợt phong ba nhằm vào ruộng điền của quyền quý tôn thất.
Kỳ Vương điền trang cũng không thể may mắn thoát khỏi, đợt thứ hai liền bị Lý Dự tịch thu làm của quan, mấy người con trai của Kỳ Vương cũng bởi vậy mà trốn sang thành đô, trở thành kẻ ủng hộ phê phản Bắc Đường.
Đất đai rất sớm đã bị tịch thu đi rồi, nhưng việc phân điền lại gặp nhiều trở ngại, sau khi Lý Dự qua đời , công việc phân điền liền rơi vào tạm dừng, sau khi chính sự đường vừa mới thông qua lệnh phân điền không lâu, chủ quản phân điền Lý Nghiên liền bị ám sát, khiến cho việc phân điền rơi vào tạm dừng, sau đó lại là lúc Lý Hanh cưỡng chế đăng cơ, không những không phân điền, còn muốn đem những đất đai đã phân chia thu hồi lại, tương lai sẽ trà lại cho chủ nhân gốc của nó, cho đến khi Lý Hanh đào tâu khói thành đô, sau khi Lý Khánh An xây dựng lại chính sự đường, việc phân điền mới lại một lần nữa được đề lên nhật trình, đầu tiên là hoàng trang ở VỊ Nam huyện được phân chia, đó là một sự kiện như một tiêu chí, dưới sự dẫn đường của nó, các nơi ở Quan Trung cũng đều dấy lên phong trào chia ruộng đất.
Kỳ Vương điền trang cũng là một trong những trọng điểm phân điền, dựa theo nguyên tấc quyền sở hữu, năm ngàn ba trăm khoành đất đai của Kỳ Vương điền trang hãn phải do hơn ba ngàn bốn trăm hộ tá điền và một ngàn hai trăm hộ nông nô chia ra.
Những người có tâm lập tức tính ra, nói như vậy, bình quân mồi hộ sẽ được hơn một khoánh đất đai, điều này quả thật khiến những hộ nông dân ở địa phương mừng như điên.
Cho dù trong lệnh chia đều ruộng đất thời sơ Đường, con trai được trăm mẫu ruộng, nhưng trên thực tế đó chẳng qua chỉ là một cái hạn ngạch thôi, bình quân mỗi hộ có thể có được hai mươi mẫu ruộng cũng đã rất khá rồi, cho nên lúc tin tức Kỳ Vương điền trang phân chia ruộng được truyền ra, toàn bộ các hộ nông dân ở phía bắc kênh Thăng Nguyên cũng đều sôi sục hẳn.
Nhưng trớ trêu là việc tốt thường gian nan, đột nhiên lại truyền ra tin tức, năm ngàn di dân Hà Bắc Tương Châu cũng sẽ được an trí ở phía bắc kênh Thăng Nguyên, điều này quả thật là một tin sét đánh, khiến cho các hộ nông dân địa phương sợ ngây người, mất mác, phẫn nộ, thất vọng đau khổ, nông hộ địa phương kiên quyết cự tuyệt di dân Hà Bắc đến đó, họ tự phát tổ chức võ trang nổi dậy để bảo vệ ruộng đồng nhà cửa của mình.
Kỳ Châu thái thú Thôi Ninh bèn chính là ở vào thời điểm cục diện nguy hiểm đó đơn thân vào thôn trang, cùng thôn dân đàm phán ba ngày ba đêm, cuối cùng thuyết phục thôn dân, phân chia một nửa ruộng điền cho di dân Hà Bắc, đồng thời tiếp nhận bọn họ ở kênh Thăng Nguyên an cư.
Lý do của Thôi Ninh rất đơn giản, quan phủ cho tới bây giờ vẫn vốn không có chính thức có văn kiện rằng đem toàn bộ Kỳ Vương điền trang phân chia cho nông dân, cái gọi là phân điền cũng chỉ là lời đồn đãi kháo nhau của nông hộ mà thôi.
Kỳ Vương điền trang sẽ chia thành hai, trong đó hai ngàn ba trăm khoành dùng làm phân điền, còn ba ngàn khoành dùng làm quan giải điền, lần này dùng cho việc an trí năm ngàn hộ di dân Hà Bắc chính là quan giải điền, không hề liên quan đến nông hộ địa phương.
Nhưng để đền bù lại.
Thôi Ninh cũng hứa hẹn, nếu sau khi thế cục Hà Bắc ổn định rồi, nhất định sẽ có không ít di dân Hà Bắc hồi hương, đến lúc đó đất đai sau khi di dân hồi hương rời khỏi thì quan phủ sẽ không thu hồi lại nữa, sẽ đem phân chia cho nông hộ địa phương, nếu nông hộ địa phương không tiếp nhận phương án này, quan phủ sẽ không còn phân chia vô điều kiện Kỳ Vương điền trang nữa, mà là dùng phương pháp thu mua lại, do chủ nhân ban đầu bỏ ra số tiền bán ruộng ban đầu mà lấy đó mua lại đất đai đó về.
Chính dưới sự cường bức dụ dỗ vừa đấm vừa xoa này của Thôi Ninh, hương đảng địa phương cuối cùng đã đón nhận phương án của Thôi Ninh, đồng ý di dân Hà Bắc tham dự phân điền.
Cuối tháng chín, đợt di dân hai nghìn hộ Hà Bắc đầu tiên đã đi đến Quắc huyện, bọn họ là di dân đến từ Hà Bắc Tương Châu.
Thăng Nguyên Cừ (*Cừ: kênh đào) là một con kênh đào tưới tiêu ở phía bắc Vị Hà, gần như xuyên ngang hết cả Quắc huyện, dài khoảng trăm dặm, ở hai bờ Thăng Nguyên Cừ phân bố mấy vạn khoảnh lương điền, là khu sản lượng quan trọng của Quắc huyện thậm chí của Kỳ Châu.
Trời vẫn còn chưa sáng hết, trên đồng ruộng phủ lên một lớp sương mù như sữa bò, trong không khí mang theo một chút hơi lạnh.
Thăng Nguyên Cừ là một con kênh đào rộng khoảng năm trượng, từ sông Vị Hà dẫn nước, lượng nước dồi dào, tưới tiêu mấy vạn khoảnh lương điền ở hai bờ.
Thẳng Nguyên Cừ lúc này cũng tràn ngập trong một lớp sương dày mờ ảo, trong hơi sương, một đội kỵ binh phóng nhanh tới, khoảng hơn ba trăm người, người đứng đầu chính là Lý Khánh An, phía sau đi theo ba trăm thân binh của hắn, Lý Khánh An tuy rằng đã dẫn theo ba nghìn kỵ binh, nhưng hắn sợ nhiều dân, nên đã bảo kỵ binh trú đóng ở một tòa quân doanh ở ngoài xa mười mấy dặm, bản thân hắn chỉ mang theo ba trăm kỵ binh, chỉ cần có thể thay hắn đưa tin là được.
Một dòng người của bọn họ xông lên một tòa cầu gỗ, phi đi phía bờ đối diện Thăng Nguyên Cừ, không lâu sau, một dòng người bèn đi đến trước một con kênh đào, con kênh đào này vô cùng quan trọng, mắt thấy đang đào bới, phía nam là một dòng sông nhỏ, gọi là Phan Nam Hà, sau khi con kênh đào này khai thông, đã đem Phan Nam Hà và Thẳng Nguyên Cừ liên kết lại với nhau, không chi như vậy, con kênh đào này còn đem đất đai của di dân Hà Bắc và nông hộ địa phương chia ranh giới, về phía đông là đất đai của người bản địa, về phía tây là đất đai của di dân Hà Bắc.
Do trời vừa mới sáng, hai bên kênh đào vẫn rất im ắng, không có một ai, kênh đào do di dân phụ trách đào khoét, bây giờ vẫn còn chưa thi công, ruộng lúa hai bên đều đã thu hoạch xong, bên trên đã phủ đầy bụi rơm, đây là phân bón rất tốt.
“Đại tướng quân, nghỉ ngơi một chút đi!”
Một viên thân binh đem hồ lô nước đưa cho Lý Khánh An, Lý Khánh An đón lấy hồ lô nốc một ngụm nước, lúc này, hắn thấy ở nơi không xa đang bốc một làn khói trắng cuồn cuồn, bèn giục ngựa nói: “Đi! Đi xem xem.”
Một dòng người phi nhanh trong chốc lát, bèn đã đến được nơi bốc khói trắng đặc, chỉ thấy nơi tiện đạo bên cạnh Thăng Nguyên Cừ, mấy hộ nông dân đang đốt rơm, từ trang phục của bọn họ, vừa nhìn đã có thé nhìn ra là di dân từ Hà Bắc đến, mấy nông dân này cũng nghe thấy tiếng vó ngựa, đều quay đầu ngơ ngác nhìn vào kỵ binh xuất hiện từ trong hơi sương, trong mắt lộ ra vẻ sợ hãi, trong đó ba nữ nhân lại càng sợ sệt mà núp phía sau lưng trượng phu.
Thấy mấy nông dân muốn chạy, một thân binh bèn xuống ngựa chạy lên nói: “Các ngươi đừng sợ, sẽ không làm hại các ngươi.”
Có lẽ là cảm thấy minh có chạy thế nào cũng chạy không lại ngựa có bốn chân, mấy nông dân đều từ bỏ ý niệm bỏ chạy, đi về phía vệ đường, nhường lối đi ra.
Lý Khánh An cũng xoay người xuống ngựa, đi lên trước, quan sát bọn họ một chút, bèn cười nói: “Các ngươi đều là di dân Hà Bắc ư?”
Một nam tử ba mươi mấy tuổi gật gật đầu: “Hồi bầm tướng quân, chúng tôi ai cũng thế.”
“ừm! Vậy trong số các ngươi có giáp trường không?”
Lần di dân Hà Bắc này có khoảng bốn mươi mấy vạn hộ, quy mô to lớn, bởi vì sau khi xảy ra chuyện ở Tỉnh Hình quan, triều đình bèn đã sử dụng kiến nghị của Lý Khánh An, đối với di dân Hà Bắc thực hiện dân đoàn bảo giáp pháp, cũng chính là thực hiện việc quản lý bán quân sự hóa, trăm hộ làm một bảo, thiết lập một viên bảo chính; mười hộ làm một giáp, thiết lập một viên giáp trường, có thể do tự bản thân họ tuyển cử, mỗi hộ phát cho một thanh đao hoặc là một bộ cung tiền, nam chủ nhân phải tiến hành huấn luyện quân sự định kỳ, để tăng cường năng lực tự vệ.
Lý Khánh An thấy đám nông dân đốt rơm rạ này ít nhất cũng có năm sáu hộ gia đình, hắn bèn phòng đoán trong đó có thể có giáp trường, quả nhiên, người nam tử ba mươi mấy tuổi ban nãy tiến lên khom người nói: “Hồi bầm tướng quân, ta chính là giáp trưởng.”
Lý Khánh An lại hỏi: “Ngươi là người ở đâu, tên gọi là gì?”
Giáp trường chỉ vào mấy hộ nông dân bên cạnh: “Chúng tôi đều là người thông Cao Kiều huyện An Dương Tương Châu, tại hạ tên Cao Phú Quý.”
“ừm! Tên gọi này đặt không tồi.”
Lý Khánh An cười xòa nói: “Mọi người ngồi xuống nói chuyện đi!”
Mọi người thấy Lý Khánh An thân thiện, kỵ binh của hắn đều ở ngoài xa mấy chục bước, mối hoảng sợ trong lòng bèn từ từ biến mất, hai viên thân binh chạy trở về cầm lấy mười mấy chiếc ghế Hồ, Lý Khánh An đem ghế Hồ đưa cho bọn họ: “Mọi người ngồi tùy ý, không cần câu thúc.”
Các nông dân đón lấy ghế Hồ, có người thấy ghế Hồ làm thật tinh xảo, tỉ mỉ xem một hồi lâu mới từ từ ngồi xuống, lúc này, Lý Khánh An mỉm cười nói với mọi người: “Ta tự giới thiệu một chút, ta họ Lý, là tướng quân của quân An Tây, vừa từ Trường An đến, mà lần đại di dân Hồ Bắc lần này chính là kiến nghị của ta, ta luôn muốn tìm hiểu tình hình của việc di dân, vừa lúc gặp được các ngươi, mọi người đều nói một chút đi! Nó thoải mái, kẻ nói không có tội.”
Mọi người nghe nói đại di dân Hà Bắc lại là kiến nghị của hắn, đều không khỏi trở nghiêm trang kính cẩn, điều này chửng tò quan chức của người này không thấp.
Cao Phú Quý lại càng có chút bất an rồi, dè dặt nói: “Tướng quân muốn bọn ta nói một chút về điều gì vậy?”
Lý Khánh An thấy người này khá là thật thà, không khỏi có chút cảm tình với hắn, bèn cười nói: “Vậy đế ta hỏi trước vậy! Các ngươi đối với việc di dân lần này có hối hận không?”
Mọi người cùng lắc đầu, miệng mồm liếng thoắn đua chen nói: “Làm sao mà hối hận chứ? Thích thú còn không kịp nữa là...!Đây là Quan Trung a!”
“Đẻ ta nói vậy!”
Cao Phú Quý có chút ngại ngùng nói: “Nhà ta ba huynh đệ cùng nhau đăng ký di dời, vốn dĩ bọn ta là ghi danh Quan Nội đạo, nhưng vận may bọn ta khá tốt, lúc sắp đến Nguyên Châu thì quan phủ đột nhiên thông báo bọn ta, bọn ta sửa lại dời đến Quan Trung Kỳ Châu, mọi người ai cũng vui đến phát điên, hơn nữa đến được Kỳ Châu, mỗi hộ còn cho bốn mươi mẫu thượng điền..
“Đợi đã!”
Lý Khánh An đột nhiên cảm thấy có chút không đúng, hắn kỳ lạ hỏi: “Ta nhớ là mỗi hộ ba mươi mẫu a! Tại sao lại trở thành bốn mươi mẫu rồi?”
“Cái này...”
Mấy người nông dân nhìn mặt nhau.
Cao Phú Quý nói: “Trên công cáo nói mỗi hộ còn cho một con trâu, nhưng trâu cày của Quan Trung cũng không đủ, vì vậy nên mỗi hộ cho thêm mười mẫu đất, để thay cho trâu cày.”
Lý Khánh An gật gật đầu, một con trâu đổi mười mẫu thượng, điều này quả là rất đáng a! Nhưng mà trâu là có, năm sau vào đầu xuân, sẽ từ Hà Tây điều ba mươi vạn con trâu đến Trung Nguyên, đến lúc đó các nhà di dân trên cơ bản mỗi hộ đều sẽ có một con trâu, nhưng Lý Khánh An không nói rõ ra, bèn lại cười nói: “Vậy lương thực đâu? Thu hoạch vụ thu vừa mới kết thúc, lương thu có phần các ngươi không?”
“Quan phủ định ra là mỗi hộ mỗi tháng năm đấu gạo, một cân muối, nếu nhà đông người không đủ, hoặc là tự minh moi tiền ra mua, hoặc là chia nhà lập hộ mới, còn có một cách khác chính là tham gia quân huấn dân đoàn, hoặc là mùa đông đi tham gia xây đắp thùy lợi, lúc đó lương gạo sẽ do nhà nước ra, trong nhà có thể tiết kiệm được một phần lương thực.”
Nói tóm lại, Lý Khánh An vẫn là khá tán đồng cách làm của Thôi Ninh, từ suốt dọc đường những gì hắn nghe thấy nhìn thấy, đều cảm thấy tên Thôi thái thú này khá không tồi, hắn quả thật rất muốn gặp một lần người này.
Đúng lúc này, xa xa truyền đến một tiếng vó ngựa, chỉ thấy năm sáu người cưỡi ngựa hướng bên này mà đến.
Cao Phú Quý liền đứng lên nói: “Đó là Thôi thái thú, người đã tới rồi!”