Thiên Hạ


Đêm dài đằng đẵng dẫn trôi qua, còn một khắc giờ nữa thôi là đến canh năm, quán trà ngoài Sùng Dương quan lại bắt đầu bận rộn như mọi khi, Mầy hôm nay Tôn lão đầu có được thêm một người cháu trai, tuy nụ cười khù khờ của người cháu này khiến lão mỗi lần nhìn thấy đều thấy rùng cả mình, nhưng lão cũng không thể không thừa nhận rằng hắn đến đây quả thực đã giúp đỡ lão rất nhiều, có rất nhiều việc hắn đều làm gọn làm gàng thay lão.

Tôn lão đầu đã vất vả hai mươi mấy năm nay, lão lần đầu tiên cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái như thế.
Ngoài ra Tôn Tiểu Minh này cũng mang lại không ít khách khứa đến cho lão, tên Tôn Tiểu Minh này biết ninh một loại canh sườn thơm phức, còn có khách đặc biệt từ trong thành chạy đến ăn món canh sườn Tôn thị hắn mới tung ra bán này.
Nếu không phải do cháu hắn còn trong tay chúng, lão cũng thật sự rất muốn đi theo tên Tôn Tiêu Minh này học lõm ngón nghề này, đê sau này lão còn có thể mờ rộng kinh doanh món canh sườn này.

Có điều chỉ cần nghĩ đến minh sắp phải trốn khỏi U Châu lòng lão lại bắt đầu nặng trĩu.
Bên ngoài trăng sáng sao thưa, ánh trăng sáng bạc xõa muôn nơi, trong đêm hôm tĩnh lặng này vẫn như mọi khi, mười mấy vị thương khách nằm trong quán trà của hắn ngủ nghĩ.

Nhưng Tôn lão đầu lại biết được mười mấy vị thương khách này cùng một giuộc với lại cháu lão, chỉ là không biết họ định lúc nào sẽ hạ thủ.
Ánh đèn trong quán rất mờ, bánh mạn đầu giờ đã chín, còn nổi canh sườn to tướng trên bếp vẫn đang sôi sục.

Canh sườn hôm nay có vị thơm hơn mọi khi, mùi thơm của nó đã thoang thoảng khắp nhà, khiến Tôn lão đầu có phần không kiềm được.
Lão len lén liếc nhìn, thấy Tôn Tiểu Minh đang quét nhà trong sân nên lão bèn từ từ đi lên trước, lấy một cái bát và mờ nấp nổi ra, bỗng chốc mùi canh thơm nồng bay thẳng vào mũi.

Tôn lão đầu cảm thấy cả đời này chưa bao giờ được nếm thử qua món ngon như thế này.
Con chó mực mà lão nuôi nghe mùi cũng thèm thuồngkhông kém, cử quấn quít lấy chân lão, miệng cử rên ri cần khẩn xin ăn.

Tôn lão đầu múc ít canh sườn vào bát, nhìn nó cười nói: “Để ta nếm mùi trước, đợi một hồi ta cũng sẽ chia một ít cho mày.”
Canh sườn nóng quá, lão mới thổi qua định ăn, thì bỗng đâu một cánh tay đưa đến hất mạnh bát roi xuống đất vỡ toang cái xoảng.

Bát vỡ tan bàh dưới đất.

Tôn lão đầu phát hoảng vội quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Tôn Tiểu Minh một tay cầm chồi đương giận dữ nhìn lão chằm chằm.
Mặt Tôn lão đầu bỗng đỏ bừng, lão có cảm giác như vừa bị bắt quả tang tại chỗ, có phần thẹn thùng, nheo nhèo nói: “Đây là quán của ta, ta chẳng qua muốn ăn bát canh cũng không được sao?”
Lão vừa nói xong thì bỗng nghe tiếng rên thảm thiết, cúi đầu nhìn mà thấy giật cả mình, vì con chó mực lão nuôi đã lãn dưới đất, thất khiếu lưu huyết chết tươi tại chỗ.
Tôn lão đầu nhìn nhìn nổi canh, trong mắt lộ rõ vẻ khiếp hoảng, liền liền lùi ra sau hai bước.
Tôn Tiểu Minh rút từ trong lòng ra tờ giấy đưa lão nói: “Đây là bí quyết nấu món canh này của ta, ngươi nhận lấy! Sau này muốn ăn canh thì tự mà nấu.”
Tôn lão đầu lẳng lặng nhận lấy tờ giấy mang cất giữ cẩn thận, xong lão lại cho bồng xác của con chó lên nói: “Ta đi chôn nó lại, sẽ quay về ngay, bọn họ chắc sẽ đến ngay thôi.”
Tôn lão đầu cầm cuốc đẩy cửa sau đi ra.

Còn lại Tôn Tiểu Minh đứng lại không khỏi thở dài, hắn cúi người nhặt các mảnh vỡ vụn lên, xông lại quay trở ra sân quét nhà tiếp.

Lại một hồi qua đi, cửa của Sùng Dương quan cuối cùng cũng được mở ra, chiếc xe ngựa chờ các đạo sĩ này từ trong Sùng Minh quan chạy ra, mười mấy thương khách ngủ trong sân bỗng chốc bật dậy, trong tay cầm tay nải phóng thẳng chẳng mấy chốc đã biến mất sau màn đêm, trong quán trà lại không còn một bóng người.
Xe ngựa dừng lại trên quan đạo.

Tôn Tiểu Minh nhìn nhìn sắc trời, lúc này thời gian còn sớm, trong lòng hắn bèn đoán được, bọn đạo sĩ này chắc đang định qua ăn canh sườn.
Từ sau khi hắn hầm canh đến nay, bọn đạo sĩ rượu thịt này hầu như ngày nào cũng ráng dậy sớm hơn, qua ăn bát canh rồi mới đi.

Hôm nay cũng không ngoại lệ.
“Thơm quá đi!”
Các đạo sĩ cùng lũ lượt xuống xe bước nhanh lên trước.

Sư phụ Sử Sùng Minh cười nói: “Canh hôm nay có vẻ đặc biệt thơm, ta cũng sắp thèm chảy cả nước miếng đây.”
“Sử đạo gia mời ngồi, các vị đạo huynh mời ngồi, ta lập tức mang canh lên cho mọi người đây.”
Nói xong Tôn Tiểu Minh lập tức quay người đi vào trong nhà, hắn nheo nheo mắt với Tôn lão đầu, lão hiểu ý lập tức đi ra chào mời các binh sĩ bên ngoài: “Các vị quân gia, mọi người cũng vào ăn bát canh cho ấm người chút!”
Bọn binh sĩ này mặt không chút biểu cảm, vẫn lạnh lùng nhìn Tôn lão đầu như tượng đá.

Tôn lão đầu bị chúng là cho mất hửng, đành quay lại hô hào: “Tiêu Minh, ngươi chuẩn bị cho các đạo gia là được rồi, quân gia không ăn.”
“Cháu biết rồi!”
Một lát sau Tôn Tiểu Minh bèn bưng một khay to ra, trên đây là mười mấy bát canh sườn nóng hổi cùng mấy đĩa bánh mạn đầu chay.
Tôn lão đầu bắt đầu bủn rủn chân tay, giọng lão có phần đã biến cả điệu: “Để ta.., giúp ngươi!”
Hắn đi lên định nhận lấy cái khay, nhưng Tôn Tiểu Minh lại nói: “Đạ bá, bá ra sau nhà tìm Tiêu Hắc đi, không biết nó chạy đi đâu mất rồi? Cháu sợ nó ăn vụn xương sườn.”
“À!”
Tôn lão đầu khập khiễng đi vào nhà.

Lúc này lòng lão vừa hồi hộp vừa sợ hãi, nhưng cũng vừa cảm kích.

Lão vừa vào đến nhà bèn phóng vội ra cửa sau, vất chân lên cổ chạy thẳng đi trốn...
Các đạo sĩ này không chút nghi ngờ, bọn họ cùng ngồi lại trước hai bản đang ngon lành ăn canh dùng bánh, chốc chốc lại liền liền khen canh ngon, có vài tên nóng tính đã ửng ực nốc cạn cả bát canh.

Tôn Tiểu Minh thấy mọi người đều đã ăn canh, hắn bắt đầu dời bước sang bên cạnh, dần dần đi đến góc nhà, chỗ này có một chiếc chuông mè, hắn nhẹ nhàng cầm chùy gõ mạnh cái ‘‘toong!”.

Ngay lập tức, tức cả mọi người, cả các binh sĩ trên quan đạo đều cùng kinh ngạc nhìn về phía hắn, nhưng ngay lúc này chỉ nghe một tiếng rú thảm thiết, năm mươi mấy tên binh sĩ trên quan đạo lần lượt trúng tiễn ngã gục.

Chỉ trong một chốc, trên lưng ngựa đã không còn một ai.


Trong bóng tối, một đoàn đông binh sĩ An Tây cùng ập về phía này.
Tôn Tiểu Minh từ từ quay trở lại vào sân, các đạo sĩ giờ đã lăn đùng dưới đất hết, cơ hồ đều đã đứt hơi chết tại chỗ, trên sản nhà chỉ còn lại bát đĩa vờ vụn.

Tôn Tiểu Minh đi đến trước mặt đại sư huynh Vong Trần Tử, thấy hắn hình như vẫn chưa chết hẳn, bèn rút đoản kiếm ra đâm thêm hai nhát vào tim hắn, Vong Trần Từ hai chân duỗi thẳng, phen này không còn động đậy nữa.
Ánh mắt Tôn Tiểu Minh đảo mắt nhìn quanh, xong bèn vẫy vẫy tay với phía góc nhà: “Tôn lão đầu, ngươi đi ra đi!”
Chỉ thấy, trong góc tối Tôn lão đầu run rẩy đi ra, hắn nhìn nhìn thi thể các đạo sĩ la liệt dưới nhà đã phát hoảng quỳ sụp xuống, lão chỉ còn biết dùng hai tay ôm chằm lấy đẩu thốt lên: “Ôi trời ơi!”
Lúc này, mấy mươi tên binh sĩ cùng xông vào, bắt đầu lột áo của các đạo sĩ, người nam tử lúc đầu đã nói chuyện với Tôn lão đầu bước nhanh đi lên quỳ một chân cho Tôn Tiểu Minh nói: “Hồi bẩm Quỷ tướng quân, năm mươi bốn tên kỵ binh toàn bộ đã khử sạch, không một ai còn sống.”
Tổn Tiểu Minh tên thật là Quỷ Thắng, hắn kỳ thực là thủ lĩnh của đệ nhất liệp ưng doanh, do vị trí đặc biệt của đệ nhất liệp ưng doanh, các xích hầu từ nơi này đi ra hầu như đều được xuất nhậm chức hiệu úy, cho nên quân chức của Quý Thắng đã là trung lang tướng, hắn năm nay đã hai mươi tám, chẳng qua do có khuôn mặt hiền lành ngây thơ chút ít, nên khiến người khác cử ngờ hắn mới mười sáu bảy tuổi.
Quý Thắng nghe bẩm báo gật gật đầu, hắn đi đến trước mặt Tôn lão đầu đang run như cầy sấy, ngồi xổm người xuống, nhận chiếc túi từ binh sĩ đưa cho Tôn lão đầu nói: “Đây là ba trăm đồng tiền bạc An Tây, ngươi bây giờ hãy lập tức đi đến Lộ Huyện, trước cửa thành môn thành đông có một khách điếm Duyệt Lai, thê tử và cháu của ngươi đều ở đó.

Sau đó các ngươi hãy nhanh chóng rời khỏi Hà Bắc đạo, đến vùng Giang Hoài, đến nơi đó mà bán canh sườn, hi vọng sau này chúng ta còn cơ hội gặp lại.”
Tôn lão đầu cảm động đến nghẹn ngào, Quý Thắng đỡ lão dậy nói: “Ngươi mau đi đi! Nơi đây không an toàn.”
Tôn lão đầu gật gật đầu, lão dắt con lừa nhỏ cột ở cạnh quán ra bèn vội vã lên đường, Quý Thẳng dõi theo lão đã đi xa, lúc này, nam tử lúc nãy mới đi lên bẩm báo: “Tướng quân, ty chức thấy sao không giết quách lão đi cho an toàn.”
Quý Thẳng chi bình thản nói: “Người đáng chết thì một tên không giữ, người không đáng chết thì một người cũng không được giết.”
Nói xong, hắn khoát tay nói: “Xuất phát!”
Các binh sĩ nghe lệnh lập tức thu thập sạch sẽ thi thể, mười mấy người cùng mặc đạo bào vào, hóa trang thành đạo sĩ.

Ngoài ra còn năm mươi mấy người cũng mặt áo giáp của binh sĩ An Lộc Sơn, xe ngựa lại một lần nữa khởi động phóng nhanh về phía bắc.
Công trường chế tạo hỏa dược của An Lộc Sơn nằm ở Linh Vân cốc phía ngoại ô phía bắc, cũng chính là sơn cốc lần trước mà hắn đã thử nghiệm hỏa dược.

Trong sơn cốc đã được xây hai nhà kho to cùng mười mấy tòa nhà gỗ màu trắng, ngoài mười mấy tên đạo sĩ này ra còn có ba trăm công tượng hỏa dược được chuyên môn tìm đến.

Bọn họ cùng chế tạo hỏa dược tại nơi đây, rồi lại làm thành thiên lôi giấy.

Sau gần hai mươi ngày vất vả cuối cùng đã làm ra gần hai vạn cái thiên lôi giấy.
Còn việc tiếp tục nghiên cửu hỏa dược mới thì cũng có người phụ trách, chính là do đại sư huynh Vong Trần Tử cùng sư phụ của hắn Sử Sùng Minh đảm nhiệm, hai người này giờ đều đã chết trong khách điếm nhỏ.
Mười mấy tên đạo sĩ ở ngoài Sùng Dương quan, còn ba trăm mấy công tượng này thì đều ở lại trong quân doanh, do tối qua không thể tăng ca làm việc, vì thế công trường cũng không phải giữ lại ai, trời vừa tối thì tất cả mọi người đều phải rời khỏi công trường, do các binh sĩ đến đuổi đi sạch, không cho một ai được phép lưu lại.
Trong công trường hỏa dược thủ vệ cực kỳ nghiêm ngặt, có một đại quân doanh nằm cách phía bên trái sơn cốc ba mươi dặm, tổng cộng có một vạn binh sĩ trú quân.

Chỉ cần công trường mà xảy ra sự cố gì thì đội quân này sẽ có thể đến ngay lập tức, nhưng quân đội trú thủ trong công trường lại chỉ có năm trăm người, đều là tâm phúc của An Lộc Sơn.


Cũng chính vì sợ bí mật hỏa dược bị lộ ra ngoài, nhiệm vụ của năm trăm người này chính là giám sát công tượng cùng bảo vệ kho.
Lúc này đã là canh năm, ngoài sơn cốc chen đầy công tượng mới đến.

Lối vào sơn cốc vốn dĩ rộng hai mươi trượng, đê khống chế người vào hiện giờ được dùng đá to chặn lại, chỉ còn lại một lối đi nhỏ rộng chừng hai trượng, dọc lối đi được cắm đầy đuốc, rất sáng, hai trăm mấy tên binh sĩ vũ trang toàn thân đứng gác trước cửa, mỗi một công tượng muốn vào đều phải rà người kỹ càng, từng người từng người được đi vào, tiến độ rất chậm.

Có điều cũng không phải gấp, trong công trường không thể có chút lừa, đi vào rồi sẽ tối mù mịt, phải đợi khi trời sáng mới làm việc được, mỗi ngày chi rà người ba trăm người này để phóng hành đều mất gần canh giờ.
Vào lúc canh năm đúng là thời gian tối tăm nhất trước bình minh.

Bỗng nhiên từ xa xa vọng lại tiếng vó ngựa cùng bánh xe lăn lốc cốc, không một ai hiếu kỳ, ai cũng đều biết đám đạo sĩ quạ kia đã đến, Giờ đương là canh năm, mỗi ngày bọn chúng đều đến đúng giờ này, tuyệt không bao giờ đến sớm hơn.
Xe ngựa và kỵ binh hộ vệ cùng tức tốc phóng về hướng đại môn, tốc độ rất nhanh.

Điểm này hơi lạ, tốc độ này thì làm sao dừng xe kịp thời được, thế nào cũng tông vào người khác cho xem.
Hiệu úy đứng trước cửa thấy tốc độ xe ngựa quá nhanh không khỏi chau mày thúc ngựa đi lên trước hô to: “Cho thả chậm lại tốc độ!”
Xe ngựa dừng lại, chỉ thấy mười mấy tên đạo sĩ cùng nhảy xuống xe ngựa trà trộn vào đám đông.

Hiệu úy vừa định quay đầu thì bỗng nghe xa xa có người la lên: “Cản bọn chúng lại! Mau cản bọn chúng lại!”
Đường đi thông đến công trường hỏa dược là một nhánh đường phân ra từ quan đạo, trên quan đạo cách đấy năm dặm có một trạm gác, chủ yếu là để đề phòng người đi đường vô tình đi nhầm vào công trường, nên có ba mươi binh sĩ đứng gác nơi đây.

Lúc này ba mươi binh sĩ này đã toàn bộ bị khử, trong lúc xe ngựa đi qua không được bao lâu thì hai tên quan gác tuần tra đi đến, họ đã phát hiện thi thể của lính gác cạnh dốc núi, bèn đoán được có chuyện khônghay, lập tức đuổi theo đến đây.
Trong cái khoảnh khắc hiệu úy nghe được tiếng hô sát ấy, hắn đã phát hiện dị thường.

Trong xe ngựa đúng là bọn đạo sĩ, nhưng hộ vệ của họ hình như lại nhiều hơn, ngày thường chỉ có năm mươi mấy người, sao hôm nay lại bỗng nhiên nhiều thế.
Chính ngay cái lúc hắn còn thẫn thờ thì một cây lang nha độc tiền phóng thẳng đến trước mặt, nhanh như tia chớp, không đợi hắn kịp phản ứng thì lang nha độc tiễn đã cắm thẳng vào yết hầu hắn.

Hiệu úy rên lên một tiếng; ôm chằm lấy cổ ngã nhào xuống ngựa, Quỷ Thắng lạnh lùng thu hồi cung, huơ tay ra lệnh.
Tiễn phóng như mưa, tám mươi mấy cây tiễn lại phóng vèo vèo về phía binh sĩ.

Đòn đánh đột xuất khiến các binh sĩ gác cửa trở tay không kịp, lần lượt trúng tiền ngã lăn xuống đất.

Các binh sĩ liệp ưng doanh tiền pháp cực kỳ chính xác, hơn nữa lại dùng độc tiễn, chỉ trong một chốc đã bắn hết hai lượt tiễn, hai trăm mấy binh sĩ đã có một trăm hai mươi người bị bắn chết, Quân An Tây cùng thúc ngựa xông lên, tiễn vẫn phóng như vũ bão tiêu diệt nốt những binh sĩ tử tán bỏ chạy.
Trước cửa công trường bỗng đại loạn, nhưng trận đồ sát này chẳng qua mới bắt đầu, mười mấy tên đạo sĩ tay cầm đao sắc bắt đầu điên cuồng đồ sát ba trăm tên công tượng này.

Bọn họ là các binh sĩ An Tây tinh nhuệ nhất, ai ai cũng võ nghệ cao cường, ra tay thâm độc, đồng thời cũng phối hợp nhịp nhàng; chắn hết đường bỏ chạy của công tượng, như những con mảnh hổ khát máu xông vào ăn tươi nuốt sống họ.

Lười đao sắc của họ đảo qua đảo lại vài đường, đã có người bị cắt đứt cổ họng, kẻ bị xuyên thủng tâm can, tất cả đều chỉ một đao tuyệt mệnh; họ bước đến đâu là xác chết la liệt đến đấy, điêu tàn và thảm thiết.
Trong lúc đồ sát máu me nhất diễn ra tại cửa trước, Quý Thắng dẫn hai mươi mấy kỵ binh cùng xông vào trong công trường, bọn họ đều có mang theo dầu hòa, sau khi tưới dầu hòa lên nhà gỗ, phóng hòa thiêu cháy, bỗng chốc lửa đỏ bừng cháy ngất trời.
Trạm gác trên đồi đã bị kinh động, ba ngọn phong hòa bừng cháy giữa trời đêm để báo hiệu về phía U Châu.


Đại doanh ngoài ba dặm cũng đã bị kinh dộng, tiếng chuông báo động chói tai inh ỏi khắp nơi trước lúc bình minh, hàng ngàn Yến quân của An Lộc Sơn từ trong đại doanh cùng băng ra phóng về phía công trường...
Đội quân vạn người phụ trách bảo vệ công trường hỏa dược này cũng là quân đội tinh nhuệ của An Lộc Sơn, cái gọi là tinh nhuệ không chỉ là có thểđánh trận trên chiến trường, mà còn được biểu hiện rõ trên tố chất huấn luyện cùng phản ứng lâm chiến, dùng thời gian của ngày nay mà tính toán, từ lúc chuông báo hiệu vang đến cho đến đội quân đầu tiên xông khỏi quân doanh còn chưa đến ba phút, Qua đây cũng thấy rõ An Lộc Sơn đã xem trọng công trường hỏa dược này nhường nào, không những cho đội quân vạn người đến canh giữ, hơn nữa còn có phong hòa đài, có thể trực tiếp báo về đại doanh U Châu cầu cứu.
Lý Khánh An cũng biết An Lộc Sơn chắc chắn sẽ nghiêm ngặt phòng bị cho chế tạo hỏa dược, vì thế hắn đã phái đệ nhất liệp ưng doanh tinh nhuệ nhất của An Tây đến.

Tuy họ chỉ có năm trăm người, nhưng họ lại có thể nghênh chiến cùng năm ngàn quân đội.
Khi còn cách công trường chừng hai dặm.

Tần Hải Dương đã dẫn bốn trăm binh sĩ liệp ưng doanh nghiêm trận đón siặc.

Họ lúc này đều đã thay lại Quang minh khải giáp của liệp ưng doanh, nào hoành đao nào khiên chắn, trên tay mỗi người đều có cầm cung nỏ hộp đặc chế.

Cưng nỏ hộp thời cổ đã có, trên hộp tiền có thể thể gắn mười cây tiễn, có thể liên tục bắn, thậm chí một phát có thể bắn nhiều tiễn.

Các công tượng An Tây khi thiết kế loại cung nỏ hộp quân dụng đặc biệt này về nguyên tắc không mấy gì khác nỏ hộp xưa, quan trọng là do công chế tạo tinh tế của nó, hộp nỏ có thể đựng hai mươi cây tiễn, có thể một phát song tiễn, “Tiễn phát tựa sấm chớp, nhất phát liên song tiễn”, có thể hoàn toàn bảo đảm hai mươi tiễn này thuận lợi phát ra, khoảng cách sát thương hữu hiệu đạt một trăm năm mươi bước, có thể xuyên thấu qua Quang minh khải giáp của quân Đường.
Hơn nữa hoành đao, khiên chắn và cả áo giáp được làm từ thép Damascus, trị giá rất đắt, thậm chí cả chiến mã mà họ đang đi đều là chiến mã Ả Rập cừ khôi nhất, có trang bị lợi hại cộng thêm binh sĩ cường hãn, đội quân năm trăm người này có thể xứng tầm là thiên hạ đệ nhất doanh.
Đêm tối mịt, ánh trăng bạc bẽo chiếu rọi, bốn trăm binh sĩ này đã đi sâu vào phúc địa U Châu, họ vô cùng bình tĩnh nhìn chằm chằm đội quân định đang xông thẳng đến như thủy triều dâng, trong mắt mỗi người họ đều ánh lên sự tàn nhẫn khát máu của loài dã thú.
Cái chết với họ không đáng sợ, đó chỉ là một phần trong sinh mệnh, nhưng vinh dự lại là tất cả trong sinh mạng họ, họ nguyện dùng máu của mình để bảo vệ danh dự đệ nhất xích hầu doanh của An Tây.
“Chuẩn bị!”
Bốn trăm nỏ hộp cùng được nâng lên, độc tiễn dài tám tấc phát ra ánh quang xanh rì ma mị, địch quân điên cuồng phóng đến, đã đi vào tầm ngắm sát thương một trăm năm mươi bước.
“Bấn!”
Tần Hải Dương một tiếng lệnh hạ, tám trăm cây tiễn phá không bay đi như ong vỡ tổ.

Tiễn độc lạnh toanh vạch qua trời đêm vẽ lên hình vòng cung lao thẳng vào Yến quân.
Ngay tức thì hàng loạt binh sĩ té nhào, thương vong vô số kể.

Hàng trăm kỵ binh đi đầu tiên nhất người ngựa ngã nhào, thảm kêu liên miên.
“Bắn nữa!” Lại một làn tiền vèo vèo bay đi trên khôngphóng về phía quân địch...
Mệnh lệnh của Tần Hải Dương rất ngắn gọn, bốn trăm binh sĩ động tác đồng nhất, lên huyền, nhắm, kéo cò, động tác nhanh thoăn thoắt không chút chậm trễ, tiễn cứ từng loạt từng loạt phát đi.

Bọn họ vừa bắn vừa lùi, hai chân vẫn khống chế ngựa, trận dung chỉnh tề, vẫn cứ duy trì khoảng cách trăm bước.

Chỉ một thời gian ngắn ngủi này mà họ đã phát chín lượt tiễn, bảy ngàn hai trăm cây độc tiễn.

Trăm vòng hai trăm bước, thi thể Yến quân chất đầy, đã có hơn ba ngãm năm trăm người trận vong.

Độc tiễn không có việc thọ thương, chỉ cần thấy máu là chết tại chỗ.


Truyện đánh dấu

Nhấn để xem...

Truyện đang đọc

Nhấn để xem...
Nhấn Mở Bình Luận