Triệu Quan đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy bên bờ một màu xanh ngan ngát, những đóa thủy tiên, đinh tử la, ức kim lan, mân côi, sơn trà, mẫu đơn đua nở khắp nơi, xa xa đào liễu mọc san sát như rừng, tiếng chim lảnh lót nơi nơi, quả thực là một chốn động thiên phúc địa!
Triệu Quan leo lên bờ, cảm giác không gian vô cùng ấm áp, chỉ thấy khắp nơi muôn hồng ngàn tía, vạn hoa khoe sắc, thực khiến người ta hân thưởng.
Mặc dù không phải thuộc dạng tao nhân mặc khách, Triệu Quan không khỏi thán phục cảnh sắc xung quanh: “Không ngờ trên nhân gian có một chốn đào nguyên như thế này, chắc đây là nơi ẩn cư của Bách Hoa Bà Bà rồi.
Lão nhân gia người họa Bách Hoa đồ trên vách đá, có lẽ muốn chỉ điểm cho người đời sau tìm tới.
Chẳng biết Thủy Tiên sư bá đã từng đến đây chưa?”
Đi lang thang trong cốc, chỉ thấy khắp nơi ong bướm dặt dìu, trong đám cỏ mọc bên những gốc tùng, mấy con thỏ hoang giương mắt nhìn cậu với vẻ hiếu kỳ.
Dạo một vòng, Triệu Quan thấy phía đông có một căn nhà dựng bằng trúc, thầm nghĩ: “Nhất định là nhà của bà bà đấy rồi.”
Không biết có người ở tại nhà không, đi đến trước cửa, Triệu Quan dừng lại, cất tiếng gội: “Làm phiền vị tiền bối trong nhà, Bách Hoa môn đệ tử tên Quan xin cầu kiến.”
Trong nhà không có tiếng trả lời, Triệu Quan đẩy cửa đi vào.
Trong nhà trang trí đơn giản, khắp nơi bụi bặm phủ đầy.
Trên tường có treo bức tranh một người phụ nữ khoảng hai mươi tuổi, mình mặc áo hồng, tay cầm một đóa hoa che khuất nửa khuôn mặt.
Mặc dù khuôn mặt bị che khuất hơn nửa, nhưng có thể nhìn thấy nét mặt và đôi mắt đầy vẻ kiều mỵ, khóe mắt ẩn ước một nụ cười dụ nhân.
Triệu Quan thầm nhủ: “Có lẽ là Bách Hoa bà bà? Khuôn mặt người thật mỹ lệ.” Nghĩ rồi cúi mình kính cẩn thi lễ trước họa đồ.
Triệu Quan tiến vào căn phòng bên trái, chỉ thấy một bàn đọc sách lớn, trên tường bốn phía đều xếp đầy sách, có điều tất cả bị phủ một lớp bụi dày.
Cậu đi về phòng phía sau, phát hiện hai cỗ quan tài bằng gỗ lớn.
Triệu Quan không khỏi giật mình, bước tới gần nhìn kỹ.
Chỉ thấy chiếc bên trái có ghi: “Thiên hiệp Thần hiệp Diệp Lạc Anh”, phía dưới có ghi “Nhất thế tình cừu, tận phó đông lưu”.
Chiếc ở bên lại thấy: “Bách hoa tiên tử Thích Lưu”, dưới có một hàng chữ “Hữu tình vô tình, giai trần quy thổ” Triệu Quan thấy mấy chữ ấy, thầm nghĩ: “Nhất định là linh cữu của bà bà rồi.
Nguyên lai Bách hoa bà bà họ Thích, chỉ không biết người nằm bên là ai?”
Cậu hướng linh cữu của Bách bà bà quỳ xuống, cung kính khấu đầu tám cái, khấn nhỏ: “Đệ tử Triệu Quan tài đức đều thiếu, nay miễn cưỡng ngồi trên cương vị môn chủ, mong sư tổ trên trời có linh, bảo hộ chúng đệ tử không bị địch nhân quấy nhiễu kinh rẻ.”
Triệu Quan đứng dậy, nhìn khắp bốn mặt, chỉ thấy phòng để quan tài đều do đá lớn xếp thành, bốn mặt treo đầy những bức tranh khắc gỗ, điêu khắc rất tinh tế.
Cậu đi một vòng quanh các phòng, chỉ cảm thấy có chút gì đó không hợp lẽ, lòng vòng một hồi, liền nghĩ ra có chỗ không đúng: “Lan sư tỷ đã từng nói bà bà nhiều năm ẩn cư một mình trong cốc, đến một lần các đệ tử tụ hội nhưng không thấy người xuất hiện, chúng đệ tử đều nghĩ người đã qua đời.
Như vậy thì ai đã đưa người nhập quan, chẳng lẽ lại là Thủy Tiên sư bá?”
Quay lại căn phòng đó có quan tài, chỉ thấy bên cạnh quan tài của Bách bà bà có một cái bàn nhỏ, bên trên có một phong thư, ngoài mặt đề mấy chữ: “Bách hoa tình sám lục”
Triệu Quan nhận ra trên phong bì có lam bảo độc, lấy ra một cái kẹp nhỏ, mở thư ra xem, chỉ thấy viết: “Gửi tới đồ đệ Thủy Tiên, Bách Hoa môn chúng ta bằng vào tiên thuật và võ công xưng hùng trên giang hồ, thường không phân biệt thị phi thiện ác, dần dần hành vi trở nên tốt ít xấu nhiều.
Đến khi ta có tuổi, hối hận năm xưa đã lạm sát vô cớ nhiều người, nay lập di chúc, môn đồ Bách Hoa Môn về sau nhất định phải theo.
Trăm năm về sau, Bách Hoa môn đồ không được lạm dụng chất độc, không được giết người vô cớ, không được đánh lẫn nhau, nhất định phải tâm niệm lấy việc cứu người khốn cùng trong thiên hạ là trọng, hành sự theo hiệp nghĩa thiên lý.
Nay lệnh truyền cho môn nhân, kẻ nào bất tuân nhất loạt trục xuất.
Tam bảo bổn môn để trong hòm vàng giao cho Hỏa Hạc giữ.
Bách Hoa bà tuyệt bút.”
Triệu Quan nghĩ thầm: “Bách Hoa bà bà vì lẽ gì không tự thân tuyên bố, lại để cho Thủy Tiên sư bá sau khi người mất mới tuyên di lệnh?” Lại nghĩ “Mẹ ta thực sự là đệ tử được bà bà tin cậy nhất.
Người nghiêm cấm đệ tử không được lạm dụng độc thuật và lạm sát vô cớ, các vị sư tỷ đều thân thiết với nhau, đương nhiên không bao giờ tự mình tương tàn.”
Cậu đọc xuống dưới, chỉ thấy là tự truyện của Bách Hoa bà bà.
Triệu Quan đọc hết một lượt, đến những dòng cuối cùng, không khỏi sững người, than thở không dứt.
Nguyên lai Bách Hoa bà bà tên Thích Lưu, là đệ tử của Cổ San lão tiên.
Năm mười bảy tuổi người đã luyện thành võ công độc thuật, tung hoành giang hồ, nhận được danh hiệu Bách Hoa Tiên Tử.
Bà cùng sư huynh Diệp Lạc Anh từ nhỏ đã có tình, Diệp Lạc Anh một lòng báo thù giết cha mẹ, đi khắp nơi để truy tìm kẻ thù, nam nữ luyến ái đều không màng đến.
Cuối cùng sau nhiều năm cũng báo được gia thù, đến lúc đó mới nhận ra tấm chân tình của sư muội, trong lòng vô cùng cảm động, nguyện kết thành vợ chồng.
Chỉ không ngờ sóng gió nổi lên, Thích Lưu bà bà phát hiện sư huynh trong thời gian tầm thù đã có một đoạn tình cảm, nổi cơn ghen tuông, cuối cùng cuộc hôn nhân không thành.
Một lần bà tức giận, xuống tay đầu độc chết tình địch.
Diệp Lạc Anh vừa đau khổ vừa tức giận, trước mặt người uống thuốc độc tự sát.
Từ đó Thích Lưu bà bà trở nên cổ quái, bất cận nhân tình, không phân thiện ác, hễ không thuận nhãn là ra tay giết người, đã kết oán với vô số cừu nhân.
Bà cho rằng nam tử trên đời đều là loại tam tâm lưỡng ý, không thể chung tình, đã từng lập thệ giết tất cả những nam nhân bội bạc trong thiên hạ.
Sau đó thành lập Bách Hoa Môn, môn đồ dưới sự đào luyện của bà, đa phần đều chính tà không phân, tính cách quá khích, thủ đoạn tàn độc.
Về già người ẩn cư Bách Hoa cốc, nghĩ lại chuyện cũ, vô cùng hối hận, nhận thấy bản thân nhiễm ba thứ độc là lòng dạ hẹp hòi, tính tình đố kỵ và nóng nẩy, một đời, mình bị hủy trong ba thứ độc này.
Bà tâm cao khí ngạo, tuy đã hiểu ra nhưng cuối cùng vẫn không chịu thừa nhận, trước khi qua đời mới lưu lại di thư, lệnh cho môn đồ cải hóa, tự mình cùng di thể sư huynh ẩn cư trong cốc, cô độc đến cuối đời.
Trước khi qua đời tự mình nằm vào trong quan tài, đóng nắp lại, chỉ mong đệ tử Bạch Thủy tiên tìm dến, nhận lấy di thư v.v…
Triệu Quan vô cùng cảm khái, nghĩ lại năm xưa Bách Hoa bà bà một đời phong hoa tuyệt đại, võ công độc thuật đều hiếm có trên đời, vậy mà tình trường lận đận, cuối cùng qua đời cô độc trong sơn cốc.
Lại nghĩ: “Thủy Tiên sư bá chắc hẳn chưa từng đến đây nên chưa đọc di thư, không biết vì sao người không tìm kiếm, chẳng lẽ không thấy tiêu ký mà bà bà lưu lại trên đá sao?”
Cậu không biết Bạch Thủy Tiên không biết bơi, cho nên trước đây dù có đến bên bờ hồ, nhưng không lặn xuống nước, càng không thể lặn đến dưới thạch để để nhìn thấy vách đá.
Nếu cậu không tự mình tiến vào, chỉ e di thư của Bách Hoa bà bà sẽ vĩnh viễn mai một.
Triệu Quan quay lại thư phòng tìm kiếm, quả nhiên thấy trên bàn có một cái hộp vàng, bên trong có ba cuốn sách.
Triệu Quan cầm lên xem, thấy trên bìa sách viết: “Cổ San tiên thuật” “Bách Hoa thần công” “Thiên dung bách biến bí quyết” chính là các loại bí kíp dụng độc, võ học và dịch dung.
Triệu Quan thầm nhủ: “Nguyên lai Bách Hoa tam bảo là ba cuốn bí kịp này, không phải như trong giang hồ truyền thuyết là bách hoa tiên tửu.
Bách hoa bà bà giao sách cho mẹ mình đại khái vì biết Bách Hợp và Thủy Tiên sư bá hai bên đấu tranh quyết liệt, nếu giao tam bảo cho bất cứ bên nào, đối phương nhất định liều mạng tranh đoạt.
Mẹ ta trung chính cương trực, hai vị sư bá không thể dễ dàng trêu tới người.”
Cậu cầm cuốn “Cổ san tiên thuật” rời khỏi phòng đứng đọc bên ngoài, nhận thấy Bạch Hoa bà bà độc thuật thực sự bác đại tinh thâm, đệ tử của người chỉ bất quá học được chút vỏ ngoài.
Cậu càng đọc càng say mê, không sao ngừng được, đến khi trời tối, vào phòng thắp nến đọc tiếp.
Đêm đó cậu ngủ lại trong thư phòng, đến sáng thức dậy lại cặm cụi ngồi đọc.
Cứ thế qua hai ngày, cậu đọc một hơi hết cuốn “Cổ San tiên thuật”, thở dài một hơi, cuối cùng đã tiến một bước dài trong độc thuật.
Cậu lại đọc lướt qua “Bách Hoa thần công”, thấy có “Tứ thời chưởng pháp”, “Di nhị cầm nã thủ” “Hạt vĩ tiên pháp” và “Ngô công tác” bốn loại võ công.
Triệu Quan không ngừng kinh hỷ, cậu biết mẫu thân luyện được Xuân Hoa chưởng pháp, Bạch Thủy Tiên và Lan nhi được truyền cho Hạ Vũ chưởng pháp, Tiêu Bách Hợp, Mai Khôi, Tiểu Cúc ba người luyện Thu Phong chưởng pháp, Tử Khương luyện Đông Tuyết chưởng pháp, mọi người đều không được dạy trọn vẹn.
Trong sách “Tứ thời chưởng pháp” gồm Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn loại võ công, thập phần hoàn chỉnh, hai loại võ học binh khí đều vô cùng tinh diệu.
Triệu Quan thầm nghĩ “Mấy môn võ công này về sau cứ từ từ tu luyện, trong một lúc không thể luyện thành.” Cậu tiện tay cầm cuốn “Thiên dung bách biến bí quyết” lên đọc qua, chỉ thấy ghi chép các loại dịch dung bí quyết, thầm nhủ: “Nếu Trúc tỷ đọc được cuốn này nhất định vô cùng cao hứng!”
Nhìn trời thấy đã chập choạng tối, Triệu Quan tự nhủ: “Mấy cuốn sách này về sau có thời gian hãy đọc cho cần thận, bây giờ bơi về qua thủy đạo, không thể mang chúng theo, lần sau tới đây nhất định phải mang theo một mảnh vải dầu mới được.” Đặt mấy cuốn sách trở lại bị trí cũ, cậu đến bên bờ hồ, chuồn qua khối đá, đi qua thủy đạo quay lại dưới vạch đá bên hồ.
U Vi cốc khá lạnh, Triệu Quan từ dưới nước trồi lên, nhặt lấy y phục mặc vào rời khỏi khu cấm địa.
Chỉ thấy trong cốc tiếng kêu ý ới, không biết xảy ra truyện gì? Cậu chạy nhanh về phía trước, thấy khắp nơi lửa cháy bừng bừng, môn nhân chạy qua chạy lại toán loạn, thần thái kinh hoàng.
Triệu Quan thầm kêu không hay, vội chạy về Thanh Thủy Các, thấy Đinh Hương vội chạy ra đón, nói không ra hơi: “Thiếu gia, người đã về! Có chuyện lớn rồi, chúng ta bị kẻ thù vây công, hiện đang khổ chiến trong cốc.”
--- Xem tiếp hồi 52 ----